Dẫn nhập Từ “Amen” là một từ ngữ rất quen thuộc với người Kitô

Transcription

Dẫn nhập Từ “Amen” là một từ ngữ rất quen thuộc với người Kitô
Dẫn nhập
Từ “Amen” là một từ ngữ rất quen thuộc với người Kitô hữu trong đời sống
kinh nguyện của mình. Tuy nhiên, khi nói đến ý nghĩa nguyên ngữ, ý nghĩa thần
học của “Amen” thì không phải ai ai cũng có thể hiểu được cặn kẽ, hiểu đúng và
đầy đủ tất cả mọi khía cạnh ngữ nghĩa của nó một cách thấu đáo, khúc chiết.
Riêng trong Phụng vụ, từ “Amen” lại mang nhiều sắc thái, nhiều cung bậc và sự đa
dạng ngữ nghĩa cho mỗi hoàn cảnh. Từ “Amen” xuất hiện rất nhiều lần trong
Thánh Lễ như trong công thức mở đầu Thánh Lễ “Nhân Danh Cha và Con và
Thánh Thần” của vị chủ tế và cộng đoàn đáp lại “Amen”; hay cuối các lời nguyện
“Nhập Lễ”, kinh Sám Hối, kinh Tin kính, lời nguyện tín hữu, lời nguyện Tiến Lễ, lời
nguyện Hiệp thông, lời nguyện Hiệp lễ, khi giáo dân rước lễ cũng được kết thúc
bằng tiếng “Amen”,… Tiếng “Amen” đã trở thành tiếng đặc trưng trong mỗi hành
vị phụng vụ của Hội Thánh theo suốt chiều dài lịch sử của mình. Vậy “Amen” có ý
nghĩa là gì? Nó đã được sử dụng ra sao? Đâu là nền tảng của tiếng “Amen”?
“Amen” mang ý nghĩa thần học như thế nào trong đời sống người Kitô hữu? Để có
được câu trả lời cho những vấn nạn trên, chúng ta cùng tìm hiểu về thuật ngữ
“Amen” dựa trên nền tảng Kinh Thánh, cũng như những hướng dẫn của Giáo Hội
về cử hành phụng vụ thánh, và nhất là trong Thánh Lễ.
I. Từ Ngữ
1. Một số định nghĩa
“Amen” hay “A-men” là từ có gốc Hípri là
bản “
1
được viết bằng ba phụ âm cơ
- Aman” với nghĩa: vững chắc, được chứng thực, đáng tin, chính xác,... mà
cấu thành thuật ngữ phổ biến trong một số ngôn ngữ Semit như tiếng
Aram hay tiếng Syria. “Amen” được đưa vào tiếng Hy Lạp vào thời kỳ đầu của các
giáo hội Do Thái giáo. Và sau này, nó được du nhập vào các ngôn ngữ khác của
phương Tây như La tinh, Anh ngữ,…
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, từ “Amen” được nhắc đến lần đầu tiên trong
sách Dân số ở chương 5, 22 nói về việc vị tư tế khiển trách một thiếu nữ hư hỏng
trắc nết, thì người thiếu nữ này phải đáp lại từ “Amen, Amen”2. Thế nhưng tác giả
sách tiên tri Isaia lại có một lối nhìn táo bạo khi nói “Thiên Chúa của Amen”, có
1
2
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, “Từ Điển Công Giáo 500 mục từ”, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011), tr. 5.
Xc. Ds 5, 22.
1
nghĩa là Thiên Chúa Thật3. “Amen” còn biểu lộ sự đồng tình với lời nói4, chấp
nhận một sứ mệnh5, thừa nhận một cam kết6 và kết thúc một lời nguyện7 hay một
lời tôn vinh Thiên Chúa8. Điều này được Giáo Hội ngụ ý rằng “Amen” có thể được
dùng để diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, sự chân thật, vững vàng trong các lời
hứa của Ngài và lòng trông cậy của con người đối với Ngài. (x. GLHTCG 1062)
Vào thời Tân ước, thuật ngữ “Amen” được chính Đức Giêsu sử dụng như
một công thức mặc khải. “Amen” như là cách để Người nhấn mạnh về những điều
Người giảng dạy, những gì Người nói là chính Lời của Thiên Chúa vậy9. Tác giả
sách Khải Huyền đã sử dụng thuật ngữ “Amen” để chỉ chính tước hiệu của Đức
Giêsu. Chính Người là “Amen” của Thiên Chúa, vì Người thực hiện mọi lời hứa của
Thiên Chúa10. Sách Khải Huyền dùng từ “Amen” trong các lời nguyện xin hay lời
tung hô như: “Amen dùng kèm với từ đúng thế (Kh1,7); Amen kết thúc lời tung
hô (Kh 1,6b); Amen khởi đầu và kết thúc một lời tung hô (Kh 7,12); Amen là lời
đáp sau lời tung hô (Kh 5,13); Amen đứng trước từ Ha-lê-lu-ia làm thành lời tung
hô độc lập (Kh 19,4); Amen đứng trước lời nguyện xin (Kh 22,20)”.11 Điều này
được thánh Phaolô làm nổi bật hơn khi gọi người là chứng nhân trung thành và
chân thật của Thiên Chúa.12
Trong truyền thống Phụng vụ, thuật ngữ “Amen” được Giáo Hội sử dụng
như công thức để bày tỏ sự thông hiệp của cộng đoàn với vị chủ tế, cùng tin nhận
và tôn vinh Thiên Chúa.13
Như vậy, thuật ngữ “Amen” có nhiều nghĩa, “Amen” vừa đảm bảo tính xác
thực về những lời Đức Giêsu vừa mở đầu những mặc khải quan trọng. Mặt khác,
“Amen” cũng cho thấy Đức Giêsu cũng chính là Đấng Amen, là Đấng hiện có, đã có
và đang đến14 là “Chứng Nhân trung thành và chân thật”15; đồng thời “Amen”
Xc. Is 65,16.
Xc. Gr 28,6.
5 Xc. Gr 11,5.
6 Xc. Ds 5,22
7 A.S.Hornby, “Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current English, 7 th Edition”, (Oxford
University Press), tr. 44.
8 Xc. Tv 41, 14.
9 Xc. Mt 6,2.
10 Xc. Kh 3,14.
11 Xc. Lê minh Thông, “Giới thiệu bản văn Khải Huyền, Hy Lạp – Việt”. Truy cập ngày 06-01-2015,
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com.
12 Xc. 2 Cr 1, 19-20.
13 Xc. GLHTCG số 1345.
14 Kh1,4.
3
4
2
cũng là lời tung hô và ca ngợi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa. Sau cùng “Amen” còn
là lời nguyện xin, niềm xác tín vào Thiên Chúa - Ngài sẽ thực hiện điều đã hứa,…
Vì tính đa nghĩa của thuật ngữ “Amen”, cũng như cách dùng đa dạng của nó nên
“Amen” không thể dịch sang tiếng Việt16 cách sát nghĩa được.
2. Các vị trí thường gặp của từ “Amen”
“Amen” không chỉ là một từ ngữ phong phú về ngữ nghĩa mà còn là một từ
có vị trí trong cấu trúc câu văn khá phong phú. “Amen” có thể đứng trước hay sau
một câu văn. “Amen” cũng có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần hay đứng độc lập.
“Amen” đứng trước hay đứng sau trong mỗi cấu trúc câu văn cũng có thể có một ý
nghĩa khác. Thông thường “Amen” được xuất hiện trong Thánh Kinh theo ba
cách: “Amen” được dùng ở đầu câu văn, “Amen” được dùng độc lập, và “Amen”
được dùng ở cuối.
“Amen” được dùng ở đầu câu nhằm ám chỉ đến những lời của người đối
thoại và đưa ra một câu khẳng định, như trong sách Các Vua có viết: “Amen, xin
Ðức Chúa, Thiên Chúa của đức vua Chúa thượng của hạ thần phán như vậy!”17
“Amen” được dùng độc lập cũng ám chỉ đến những lời của người đối thoại
nhưng không bổ sung thêm lời khẳng định, như trong sách Nơkhêmia: “Rồi tôi
giũ vạt áo mà tuyên bố: Thiên Chúa cũng sẽ giũ như thế này bất cứ người nào
không giữ lời thề đó, làm cho nhà cửa, của cải nó ra tan hoang. Nó sẽ bị giũ sạch
như thế này và ra xác xơ.” Toàn thể đại hội thưa: Amen!, rồi ca ngợi Đức Chúa. Và
dân đã làm theo lời thề hứa.”18
“Amen” được dùng cuối đoạn, như một lời tán đồng mà ta có thể bắt gặp
trong các Thánh Vịnh 41, Thánh Vinh 89, Thánh Vịnh 106 như “Chúc tụng Đức
Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, từ muôn thuở cho đến muôn đời. Amen. Amen.”19;
“Chúc tụng Chúa đến muôn đời. Amen. Amen.”20; “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên
Kh3,4.
Xc. Lê minh Thông, “Giới thiệu bản văn Khải Huyền, Hy Lạp – Việt”. Truy cập ngày 06-01-2015,
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com.
17 1V 1,36.
18 Nkm 5, 13.
19 Tv 41,14.
20 Tv 89, 53.
15
16
3
Chúa Ít-ra-en, từ muôn thuở cho đến muôn đời. Toàn dân hãy hô lớn: Amen!
Amen!”21
II. “Amen” Trong Kinh Thánh
1. Trong Kinh Thánh Cựu Ước
Ngay trong Kinh Thánh Cựu Ước, “Amen” được dùng với ý nghĩa mong ước
hoạt động của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn, hoặc để liên kết với lời ca tụng Thiên
Chúa22. Để hiểu thêm về nghĩa của chữ “Amen” chúng ta có thể đọc lại bản văn
Kinh Thánh có từ “Amen”. Chẳng hạn, trong sách ngôn sứ Giêrêmia, tác giả viết
“Amen”, Ứơc gì Đức Chúa làm như thế”23 thay cho kiểu dùng lặp lại Amen, Amen.
Hay nói cách khác “Amen, Amen” có cùng một ý nghĩa với “Amen, Ứơc gì Đức
Chúa làm như thế”. Trong khi đó tác giả sách Isaia lại muốn diễn tả về một danh
xưng của Thiên Chúa là “Thiên Chúa Chân Thật” nhưng không sử dụng cụm từ
“God of Truth” mà đã sử dụng cụm từ “God of Amen.”24
Trong Kinh Thánh Cựu Ước chữ “Amen” cũng được nhắc tới nhiều, nhưng
chủ yếu thể hiện sự khẳng định, hay sự đồng thuận với ý kiến của người khác.
Điều này được tác giả sách Đệ Nhị Luật nhắc đến ở chương 27, 14-26 như sau:
“Các thầy Lêvi sẽ cất giọng và lớn tiếng nói với mọi người Ít-ra-en: Ðáng nguyền
rủa thay người tạc tượng đúc tượng - điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, đồ vật do
tay thợ làm ra - và đặt ở nơi bí mật mà thờ! Toàn dân sẽ thưa: Amen! Ðáng
nguyền rủa thay kẻ khinh dể cha mẹ! Toàn dân sẽ thưa: Amen!”25 Đây là đoạn văn
ngụ ý về một sự chúc dữ không chỉ là của cá nhân vị tư tế nhưng mang tính cách
ưng thuận của toàn dân đối với những ai vi phạm luật tôn thờ ngẫu tượng. Sự
đồng thuận đó được toàn dân xác nhận bằng tiếng “Amen”. Đối lập lại với một lời
chúc dữ như trên, tác giả sách ngôn sứ Giêrêmia lại cho ta thấy rằng “Amen” lại
mang hơi hướng của một lệnh truyền và một lời chúc lành khi viết: “Đức Chúa
phán thế này: nếu các ngươi nghe tiếng Ta và làm theo tất cả những điều Ta
truyền dạy, thì các ngươi sẽ trở thành dân của Ta, và chính Ta, Ta sẽ là Thiên
Chúa của các ngươi, để giữ trọn lời Ta đã thề hứa với cha ông các ngươi, là ban
Tv 106, 48.
YOUCAT – “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dành cho người trẻ”, bản dịch Việt Ngữ của Linh mục
Antôn Nguyên Mạnh Đồng từ bản Tiếng Pháp của Du Cerf, Paris, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2013), tr.141.
23 Xc. Gr 28,6.
24 Xc. Is 65,16.
25 Xc. Đnl 27.14-26.
21
22
4
cho họ đất tràn trề sữa và mật như ngày hôm nay.” Tôi đã đáp lời và thưa: “Amen,
lạy Ðức Chúa!”26 Bên cạnh tác giả sách ngôn sứ Isaia và ngôn sứ Giêrêmia có cách
sử dụng từ “Amen” đối nghĩa nhau thì tác giả Thánh Vịnh còn đi xa hơn nữa khi
dùng “Amen” như một lời cầu nguyện mang tính tôn thờ và chúc tụng Đức Chúa
là Thiên Chúa của mình: “Chúc tụng ÐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en, từ muôn
thuở cho đến muôn đời. Amen. Amen.”27 Và “Muôn muôn đời xin chúc tụng danh
Chúa hiển vinh, ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu! Amen. Amen.”28
Như vậy, trong Kinh Thánh Cựu Ước, “Amen” được sử dụng như một ngôn
từ phổ biến của mọi sinh hoạt trong xã hội Do Thái thời đó. “Amen” vừa được sử
dụng như ngôn ngữ trần tục như một sự thừa nhận, thuần phục con người; lại
vừa mang ý nghĩa tôn giáo bởi vì “Amen” như một lệnh truyền, một lời chúc lành
của Thiên Chúa dành cho con người; đồng thời cũng thể hiện thái độ chúc tụng,
ngợi khen Thiên Chúa của dân Israel xưa.
2. “Amen” Trong Kinh Thánh Tân Ước
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, từ “Amen” dù đã được sử dụng rộng rãi không
chỉ ở trong môi trường xã hội nhưng trong cả đời sống tôn giáo. Tuy vậy, ý nghĩa
và cách dùng của từ “Amen” vẫn còn những hạn chế nhất định. Ý nghĩa của từ
“Amen” chỉ có thể được hiểu sâu xa hơn dưới ánh sáng của Kinh Thánh Tân Ước
nhằm đề cao chiều kích thần linh của lời cầu nguyện. Thường Đức Giêsu dùng
“Amen” cách đặc biệt để dẫn vào một lời nói quan trọng. “Amen” ở đây làm nổi uy
thế của lời nói29. Cao điểm nhất, “Amen” chính là Đức Giêsu.30
Có thể nói, từ “Amen” như là thuật ngữ đặc trưng của Kinh Thánh Tân Ước
bởi lẽ có thể nói được như vậy là vì chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều bản văn
Kinh Thánh dùng từ “Amen”. Chúng ta có thể liệt kê một số đoạn văn tiêu biểu để
minh chứng về điều này. Tác giả Tin Mừng Gioan có đoạn viết như sau “Amen,
Amen, Thầy nói cho các con biết là nếu người nào trong các con nhớ lời của Thầy
sẽ sống đời đời.”31 Cũng với câu này, Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ Giờ Kinh đã dịch
Xc. Gr 11, 3-5.
Tv 41,14.
28 Tv 72,19.
29 YOUCAT – “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dành cho người trẻ”, bản dịch Việt Ngữ của Linh mục
Antôn Nguyên Mạnh Đồng từ bản Tiếng Pháp của Du Cerf, Paris, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2013), tr.141.
30 Xc. Kh 3,14.
31 Ga 8,51.
26
27
5
như sau: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải
chết.” Theo cách trình bày như trên, từ “Amen” có nghĩa là “thật”. Một sự thật
được Đức Giêsu khẳng định cách chắn chắn cho những ai tuân giữ luật của Người
thì người đó tránh được cái hư mất. Từ “Amen” còn được nhấn mạnh hơn nữa
qua mẩu đối thoại của Đức Giêsu với Phêrô như sau: “Anh bảo anh sẽ thí mạng
cho Thầy? Amen, Amen, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối
Thầy ba lần.”32 Điều này đã được thánh Phaolô xác quyết cách mạnh mẽ trong thư
thứ hai gửi cộng đoàn Côrintô như sau: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa
đều là “có” nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn
vinh Thiên Chúa.”33 Và thánh nhân đã cho thấy Đức Kitô chính là Đấng trường
sinh với câu kết bằng từ Amen: “Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự
trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã hay có thể thấy: Kính
dâng Người danh dự và uy quyền muôn đời. Amen”34
Trong khi đó, tác giả sách Khải Huyền muốn mặc cho Đức Giêsu một danh
xưng: “Đấng Amen, Chứng Nhân Trung Thành và Chân Thật.”35 Đấng ấy đã từng
phán rằng “Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống muôn đời. Amen, Ta
giữ chìa khóa của Âm phủ và Tử Thần.”36 Tác giả sách Khải Huyền cũng chỉ cho
cộng đoàn Laođikhia thấy về Đấng sắp đến lần thứ hai như sau: “Đây là lời của
Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là khởi nguyên của mọi loài
Thiên Chúa tạo dựng.”37 Đấng ấy sẽ xuất hiện giữa đám mây: “Kìa Người ngự đến
giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, ngay kẻ đã đâm người. Mọi dân trên mặt đất
sẽ than khóc khi thấy Người. Đúng thế. Amen.”38 Trước sự trung thành và chân
thật của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu đã khiến tác giả sách Khải Huyền phải
dâng lời chúc tụng Thiên Chúa: “Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời
chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức
mạnh, đến muôn thuở muôn đời! Amen.”39 Lời tung hô chúc tụng này hòa điệu
cùng muôn tinh tú và thú vật mà tung hô rằng “Xin kính dâng Ðấng ngự trên ngai
Xc. Ga 13,38.
2Cr 1,20.
34 Tm 6,16.
35 Kh 3,14.
36 Kh 1,18.
37 Kh 3,14.
38 Kh 1,7.
39 Kh 7,12.
32
33
6
và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn
thuở muôn đời!” Bốn Con Vật thưa: Amen.”40
Thật vậy, từ “Amen” trong Kinh Thánh Tân Ước được sử dụng rất phong
phú và rất năng động bởi nó có thể đứng ở nhiều vị trí khác nhau. Trong Kinh
Thánh Tân Ước, chữ “Amen” được dùng nhiều trong ý nghĩa “phải, đúng như thế”.
Đức Giêsu khi giảng dạy, Người không chỉ loan truyền Lời Chúa, nhưng chính
Người là Lời của Thiên Chúa. Chính vì vậy mà Người hay dùng chữ “Amen” ngay ở
đầu câu nói: “Amen, Thầy nói cho anh em biết, họ đã nhận được phần thưởng
rồi.”41 Chữ “Amen” không chỉ được Người sử dụng một lần mà Người còn nhấn
mạnh qua cách nhân đôi từ “Amen”: “Amen, Amen, Thầy nói cho anh em hay, anh
em sẽ thấy Trời mở ra, và các Thiên Thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con
Người.”42
Thế nên, khi đọc lại bản văn Kinh Thánh Tân Ước người đọc không khỏi
ngạc nhiên về lối hành văn của các tác giả sách Kinh Thánh. Bộ Kinh Thánh Tân
Ước đánh dấu sự chấm dứt bằng từ “Amen”: “Chúc mọi người được ân sủng của
Chúa Giêsu. Amen.”43 Điều này thánh Phaolô đã cảm nhận được khi viết “Vì muôn
vật đều do Người mà có; nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn
vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen.”44 Sự kết thúc như trên cho thấy từ
“Amen” có một ý nghĩa trổi vượt và bao trùm toàn bộ lịch sử cứu độ của Thiên
Chúa đã thực hiện nơi Giáo Hội từ lúc khởi nguyên cho đến tận cùng trong Đức
Giê-su Ki-tô – Đấng Emmanuel Thiên Chúa ở cùng nhân loại.45
III.
Ý Nghĩa Thần Học Của “Amen” Trong Thánh Lễ
1. Ý nghĩa lời đáp “Amen” trong phụng vụ46
Trong cử hành phụng vụ và khi đọc kinh chúng ta thường đọc tiếng
“Amen” để báo hiệu kết thúc lời nguyện hay một kinh. Tiếng này được mượn từ
cách đọc của anh em Do thái nhưng nó được dùng làm ngôn ngữ riêng của Kitô
giáo nhằm để khẳng định hay chấp nhận một cách chắc chắn điều gì đó trong khi
Xc. Kh 5, 13-14.
Mt 6,2.
42 Ga 1,51.
43 Kh 22,21.
44 Rm 11:36.
45 Xc. Mt 1, 21; Is 7,14.
46 Nguyễn Thế Thủ, “Giải đáp các vấn nạn về Phụng vụ theo các văn kiên của Giáo Hội, tập I”, (Hà
Nội: Tôn Giáo, 2001), tr.151-153.
40
41
7
cầu nguyện. Trong bộ Thánh Vịnh, tiếng “Amen” kết thúc 4 Thánh vịnh quan
trọng sau: Thánh vịnh 40, 14 nói lên lời cầu khẩn khi gặp gian truân; Thánh vịnh
71,19 diễn tả vương quyền của Đấng Mêssia; Thánh vịnh 88, 83 ca ngợi lòng nhân
nghĩa của Thiên Chúa; và Thánh vịnh 105, 48 chúc tụng lòng trung tín của Thiên
Chúa đối với dân Israel. Hay nói cách khác, người Do-thái dùng tiếng “Amen”
trong nhiều lời kinh khác nhau trong mỗi hoàn cảnh khác nhau của cuộc đời, để
nói lên niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa.
Phụng vụ của Giáo Hội cũng lấy lại và duy trì truyền thống đáng trân trọng
này của anh em Do thái, nhưng trong cách sử dụng của Kitô Giáo, tiếng “Amen”
được mặc lấy nhiều ý nghĩa sâu xa hơn: “Amen” là tiếng chỉ sự chấp thuận, tán
thành về một lời cầu xin hay việc làm nào đó vừa được thực hiện, chẳng hạn khi
vị chủ tế đọc xong một lời nguyện thì mọi người thưa: “Amen”. Tiếng “Amen” này
cũng diễn tả sự đồng tình, chấp thuận lời cầu xin vừa được một người đọc nhân
danh cộng đoàn. Tiếng “Amen” lúc này trở nên vừa là dấu chỉ hiệp nhất của tất cả
cộng đoàn, vừa là sự thừa nhận tư cách đại diện của người đọc thay mặt cộng
đoàn.
“Amen” là tiếng diễn tả niềm tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa sẽ thực
hiện những điều con người nài xin, hay chính Người sẽ thương đón nhận và ban
xuống muôn ơn cho các nhu cầu của con người. Vì thế, tiếng “Amen” thường gặp
thấy ở phần kết thúc các lời kinh được đọc chung cũng như riêng. Chẳng hạn với
Kinh Tin Kính theo Công đồng chung Nixêa (325) - Constantinople (381): “Tôi tin
kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, […..] Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự
sống đời sau. Amen.”; hay kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời […]
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen”; ….
“Amen” là lời tung hô chúc tụng Thiên Chúa vì những việc lạ lùng Chúa đã
thực hiện, hay để cảm tạ ơn Người vì những hồng ần Người hằng tuôn đổ xuống
cho nhân loại. Điều này được thể hiện rõ nhất trong Kinh Nguyện Thánh Thể, khi
mà vị chủ tế nâng cả chén và đĩa Thánh lên rồi đọc: “Chính nhờ Người, với Người
và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa Là Cha toàn
năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.”47 và mọi người
cùng đáp “Amen”. Tiếng “Amen” ở cuối Kinh Tạ Ơn này có thể được hát hay lặp lại
47
Xc. Kinh Tạ Ơn IV.
8
nhiều lần một cách vui tươi phấn khởi để nói lên tâm tình tung hô, chúc tụng, tôn
vinh của chúng ta trước hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho nhân loại là chính
hy lễ của Đức Kitô. Với lời thưa “Amen” này, mọi người một cách nào đó làm cho
các lời kinh và lời cầu được công bố bởi linh mục trở nên chính lời của mình, và
qua linh mục, họ kết hiệp với hy lễ đời đời của Chúa Kitô.48
2. “Amen” - Lời tuyên xưng đức tin của người tín hữu
Lời cuối cùng trong Kinh Tin Kính là “Amen”. Trong tiếng Do thái, từ “tin”
và từ “Amen” có chung một gốc, có nghĩa là chắc chắn, đáng tin, trung tín49. Cho
nên từ đầu tiên trong Kinh Tin Kính “Tôi tin” và từ cuối cùng “Amen” tương ứng
với nhau. Tiếng “Amen” củng cố sự đáng tin của những điều chúng ta tuyên xưng.
Sách Giáo Lý viết: “Đức tin thì chắc chắn, bời vì đức tin dựa trên chính Lời của
Thiên Chúa, Đấng không thể nói dối.”50 Khẳng định này khiến chúng ta ngỡ ngàng
bởi lẽ ta thấy niềm tin của mình sao quá mong manh. Thế nhưng nếu chúng ta
nhìn đức tin từ quan điểm của Đấng mà mình tin, thì sẽ thấy đức tin của ta dựa
trên nền tảng vô cùng vững chắc. Điều chúng ta tin xem ra mù tối, không hiểu nổi;
tuy nhiên nó chắc chắn vì Thiên Chúa là Đấng đáng tin.
Thánh Kinh thường nhắc đến hai phẩm tính song song của Thiên Chúa:
nhân hậu và trung tín, tình yêu và chân lý51. Từ “trung tín” và “chân lý” có cùng
một gốc với những từ “tin” và “Amen”. “Thiên Chúa là chính Chân lý” 52 và lời của
Ngài không lừa dối chúng ta. Chính vì thế các tiên tri nói đến “Thiên Chúa của
Amen” nghĩa là “Thiên Chúa của chân lý.”53
Như đã đề cập ở trên về tước hiệu, Đức Giêsu Kitô chính là lời “Amen” của
Thiên Chúa54 bởi vì “Mọi lời hứa của Thiên Chúa đều nên trọn nơi Người.”55
Người là lời “Amen” dứt khoát của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người56. Do
48 Xc. Edward McNamara, “Giải đáp phụng vụ: Cộng đoàn quỳ gối đến hết Vinh tụng ca không?”, bản
dịch
Việt
ngữ
của
Nguyễn
Trọng
Đa.
Truy
cập
ngày
06-01-2015,
http://www.vietcatholic.net/News/Html/121321.htm.
49 Xc. GLHTCG số 1062.
50 Xc. GLHTCG số 157.
51 Xc. GLHTCG số 214.
52 Xc. GLHTCG số 215.
53 Is 65,16.
54 Kh 3,14.
55 2Cr 1,20.
56 Xc. GLHTCG số1065.
9
đó lời “Amen” kết thúc Kinh Tin Kính là lời chúc tụng, tạ ơn của chúng ta trước
tình yêu và sự trung tín của Thiên Chúa.
Lời “Amen” còn làm vọng lại lời cuối cùng trong Sách Thánh: “Amen, lạy
Chúa Giêsu, xin ngự đến.”57 Hàm ẩn trong lời “Amen” này là lời cầu khẩn xin Chúa
thực hiện điều Ngài đã hứa, xin Chúa hoàn tất những gì Ngài nói và làm. Đức tin
của các tín hữu đang gặp nguy nan, có thể bị nhận chìm58. Chính vì thế mà các tín
hữu phải luôn kêu cầu để xin ơn bền đỗ59 nhờ đó có thể trung tín với Chúa đến
cùng. Các tín hữu phải nài xin Đức Kitô đưa tiếng “xin vâng” nghèo nàn và yếu ớt
của mình vào lời “Amen” của Người60. Không có ân sủng của Người, không ai có
thể đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu Người đã hứa ban. Chính vì vậy mà Giáo lý Công
Giáo dạy rằng “vào cuối kinh Vinh tụng ca, người tín hữu thưa “Amen”, có nghĩa là
mong được như vậy, với từ “Amen” đó, người tín hữu đóng ấn mọi điều chứa
đựng trong lời kinh này mà Thiên Chúa đã truyền dạy.”61 Hay nói cách khác, khi
người tín hữu thưa “Amen!” để kết thúc Kinh Tin Kính, là biểu thị rõ mình đón
nhận các chân lý vừa kể làm của mình. Qua lời tuyên xưng công khai ấy, tín hữu
cũng đảm nhận lấy sứ mạng làm chứng cho đức tin và làm chứng cho Thiên Chúa
trong Hội thánh, giữa thế gian.
3. “Amen” – diễn tả hành vi hiệp nhất của nhiệm thể62
Trong phụng vụ bên Đông phương cũng như Tây phương, tiếng “Amen”
được các tín hữu thưa lên nhiều lần trong một buổi cử hành Phụng vụ. Thông
thường, “Amen” đọc cuối để kết thúc các lời cầu nguyện. Bên cạnh đó, “Amen” còn
nói lên lòng hiệp thông của cộng đoàn với vị chủ sự. Bởi vì trong Phụng vụ,
“Amen” là hành vi đồng thuận của Dân Chúa trước Công trình của Thiên Chúa,
như các thừa tác viên thi hành. Đó cũng là hành vi gắn kết với những lời cầu
nguyện được thực hiện nhân danh Người, do chủ tế cử hành. “Amen” mang ý
nghĩa trang trọng nhất khi nó là lời được phát ra từ chính môi miệng của các tín
hữu vào cuối kinh Tạ Ơn. Tại nơi đây, người Kitô hữu trình bày sự gắn kết của họ
với chính hy tế Thánh Thể, được kết luận bằng vinh tụng ca Per Ipsum. Sự đồng
Kh 22,20.
Xc. GLHTCG số162.
59 Xc. GLHTCG số 2016-2017.
60 Xc. GLHTCG số 1065.
61 Xc. GLHTCG số 2860.
62 Xc. GLHTCG số 1396.
57
58
10
thuận này được ví với sự xác nhận Giao Ước giữa Dân Israel với Thiên Chúa tại
đại hội núi Sinai. 63 Điều này đã được Giáo Lý Công Giáo dạy rằng các Kitô hữu tập
họp nhau lại một nơi để cử hành Thánh Thể. Trong đó, chính Đức Kitô đứng đầu
cộng đoàn, Người là nhân vật hoạt động chính của Bí tích Thánh Thể. Người là
Thượng Tế của Giao Ước Mới. Do vậy mà trong Kinh Tạ Ơn của Giáo Hội, vị chủ tế
thường kết thúc bằng lời như sau: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người,
mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp
nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời” và cộng đoạn đáp “Amen.” Và như vậy,
khi tín hữu thưa “Amen” thì họ được mời gọi vào mầu nhiệm thông hiệp của Ba
Ngôi Thiên Chúa – Ngài vừa là khuôn mẫu vừa là nền tảng cho sự hiệp nhất của
mọi Kitô hữu và của toàn thể Giáo Hội. 64 Và ở đâu có ai nói “Amen” cho những lời
nói, cho đời sống và số phận, cho niềm vui đang chờ đợi họ, thì ở đó có sự hợp
nhất giữa đất với trời, giữa con người với nhau. 65
4. “Amen” - Tiếng thưa “Vâng” của người tín hữu
“Amen” còn là tiếng thưa “xin vâng” của người Kitô hữu khi tham dự vào
phụng vụ cử hành Thánh Lễ nhất là khi rước Mình Thánh Chúa. Thừa tác viên vừa
trao Mình hay Máu Thánh Chúa vừa đọc: “Mình (Máu) Thánh Chúa Kitô”, người
lãnh thưa: “Amen”. Tiếng “Amen” ngoài việc diễn tả một lời tuyên xưng rằng: tôi
tin thật Chúa Kitô hiện diện trong bánh Thánh Thể mà tôi rước, tôi thờ lạy Chúa
và tôi kính cẩn rước lấy Người; còn có một chiều kích của sự “vâng phục”. “Amen”
là tiếng nói “Vâng” diễn tả một sự chấp nhận hoàn toàn hơn cả một sự lựa chọn
nghĩa là trước tình yêu quá lớn lao của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giêsu
Kitô – Người vừa là nguồn mạch và vừa là cùng đích của muôn loài muôn vật. Do
vậy, người tín hữu không có nhiều thái độ chọn lựa hay không chọn lựa mà chỉ có
thể thuần phục bằng tiếng “vâng”. Đặc biệt tiếng “vâng” của người tín hữu này khi
rước chính Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô: Vị chủ tế cầm Mình Thánh Chúa lên
và nói “Mình Thánh Chúa Kitô” thì người chịu lễ thưa lại là “Amen”. Việc thưa
Xc. Dom. Robert le Gall, “Phụng vụ của Giáo Hội (Mầu nhiệm, Dấu chỉ và Hình ảnh)”, Bản dịch của
cha Giuse Nguyễn Cao Luật, OP., (Tp. HCM: Học Viện Đa Minh 2009), tr 65.
64 Xc. Dom. Robert le Gall, “Phụng vụ của Giáo Hội (Mầu nhiệm, Dấu chỉ và Hình ảnh)”, Bản dịch của
cha Giuse Nguyễn Cao Luật, OP., (Tp. HCM: Học Viện Đa Minh 2009), tr 65.
65 YOUCAT – “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dành cho người trẻ”, bản dịch Việt Ngữ của Linh mục
Antôn Nguyên Mạnh Đồng từ bản Tiếng Pháp của Du Cerf, Paris, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2013), tr.383.
63
11
tiếng “Amen” hay “Vâng” như muốn diễn tả hành vi riêng của toàn thể cộng đoàn
phụng vụ. Một thực tại cốt yếu của Phụng vụ thánh.66
Quả vậy, một khi người tín hữu thưa tiếng “Amen” lúc rước Mình Thánh
Chúa thì ngay lập tức Đức Giêsu cũng đến ngự vào trong lòng của kẻ tin. Tiếng
“Amen” này cũng được móc nối với tiếng “Fiat” của Đức Maria năm xưa khi Mẹ
cất lên sau lời truyền tin của sứ thần Gabriel thì Con Một Thiên Chúa – Ngôi Lời
Nhập Thể đã ngự vào cung lòng của Mẹ. Điều này đã được Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô Đệ nhị trình bày rất tinh tế như sau: “Khi thưa tiếng Fiat, Thiên
Chúa đòi hỏi Đức Maria phải tin rằng Đấng mà Mẹ thụ thai “nhờ hoạt động Thánh
Thần” là Con Thiên Chúa.67 Khi thưa tiếng Amen, Thiên Chúa cũng đòi hỏi chúng
ta tin rằng, trong mầu nhiệm Thánh Thể, cũng Đức Giêsu đó, Con Thiên Chúa và
Con Đức Maria, hiện diện cách trọn vẹn gồm cả nhân tính lẫn thần tính của Ngài
dưới hình bánh và rượu.”68 Với lối trình bày trên, thánh Giáo Hoàng đã cho thấy
có một mối tương quan không thể tách biệt giữa tiếng “xin vâng” của Đức Maria
năm xưa với tiếng “Amen” của người tín hữu khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa mỗi
ngày.
Tiếng “Fiat” và “Amen” sẽ được nhấn mạnh hơn khi ta trở lại với truyền
thống của Giáo Hội thời sơ khai mà tác giả sách Công Vụ tường thuật cho chúng ta
biết: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông
với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.”69 Và trong
cộng đoàn sơ khai này, Đức Maria với vai trò là một người tín hữu tiêu biểu70. Mẹ
đã hiện diện cùng với các Tông đồ và những người tín hữu đầu tiên trong những
lần hội họp cùng nhau bẻ bánh thánh. Mẹ cũng đã thưa tiếng “Amen” sau mỗi lần
nhận lãnh Thánh Thể. Tiếng “Amen” của Mẹ toát lên một niềm tin mạnh mẽ.
Tiếng “Amen” cô đọng một chiều dài lịch sử Con của Mẹ luôn ở với Mẹ, và giờ đây
Mẹ được cưu mang lại người Con ấy trong một thái độ nội tâm đầy thánh thiện
Xc. Dom. Robert le Gall, “Phụng vụ của Giáo Hội (Mầu nhiệm, Dấu chỉ và Hình ảnh)”, Bản dịch của
cha Giuse Nguyễn Cao Luật, OP., (Tp. HCM: Học Viện Đa Minh 2009), tr 65.
67 Xc. Lc 1, 30-35.
68 Xc. Ecclesia De Eucharistia số 55.
69 Cv 2, 42.
70 Xc. Vatican II, Lumen Gentium số 54.
66
12
sốt mến của Mẹ, và chính vì vậy mà Mẹ xứng đáng để được tôn xưng là “người nữ
Thánh Thể.”71
Tiếng “Amen” không chỉ được cất lên một lần rồi chấm dứt nhưng nó luôn
vọng vang trong cả đời sống của Mẹ cũng như trong đời sống của mỗi người tín
hữu. Tiếng “Amen” này thúc đẩy người tin hướng theo hai chiều kích: Một mặt,
“Amen” là sự xác tín ở Đấng đang ngự trong lòng mình là Thiên Chúa; mặt khác,
“Amen” cũng là lời mời gọi phải loan báo niềm tin ấy cho những ta gặp gỡ gặp gỡ.
Cũng vậy, tiếng “Amen” của người tín hữu, tiếng “Amen” của Giáo Hội đã không
ngừng vang vọng trong suốt cuộc lữ hành ở trần gian. Tiếng “Amen” nói lên niềm
tin của Giáo Hội vào Bí Tích Thánh Thể về sự hiện diện của Đức Giêsu dưới hình
bánh và rượu, là Con Thiên Chúa hiện diện cách trọn vẹn với tất cả sự thuần phục,
yêu mến và tri ân.72
Tạm Kết
Sau khi tìm hiểu về ý nghĩa của từ “Amen”, người viết mới thấy được sự
phong phú trong cách sử dụng, cũng như ý nghĩa thâm sâu của từ ngữ này.
“Amen” không đơn thuần chỉ là một từ báo hiệu cho một sự kết thúc của một lời
kinh, một lời nguyện của cá nhân hay cộng đoàn mà còn cho thấy được chiều kích
hiệp thông với những ý nghĩa thánh thiêng của nó. “Amen” vừa thể hiện sự đồng
thuận, một sự xác quyết của cá nhân vừa mang tính cộng đoàn khi tham dự Phụng
vụ thánh. Dó đó, ta có thể xác quyết rằng tiếng “Amen” chính là tiếng đặc trưng
trong cử hành phụng vụ của Hội Thánh theo suốt chiều dài lịch sử của mình. Điều
này đã được Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước minh chứng ở trên. Chúng ta nói
được như vậy là vì, từ “Amen” được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống đức tin
của người Kitô hữu. Điều này được nhấn mạnh hơn nữa trong Phụng vụ Thánh
Thể. Ngoài ý nghĩa là sự chấp thuận, sự tán thành, sự đồng tình, mong ước thành
sự thật từ lời cầu xin, “Amen” còn là dấu chỉ hiệp nhất của tất cả cộng đoàn, và sự
vâng phục tuyệt đối mỗi khi người tin rước Mình Thánh Chúa.
Trong Thánh Lễ, từ “Amen” đã xuất hiện trong công thức mở đầu và kết
thúc như sau: “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen” như muốn nói đến
tính xuyên suốt của niềm tin mà người Kitô hữu mọi thời đã tin nhận, vâng phục,
Xc.
Hoàng
Thị
Hòa,
“Fiat
và
http://daminhtamhiep.net/2012/08/14/fiat-va-Amen.
72 Xc. Ibid.
71
13
Amen”.
Truy
cập
ngày
06-01-2015,
tuân giữ, chấp nhận, yêu mến, xác quyết vào Đức Giêsu Kitô – Đấng Amen, Đấng là
Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng.73 Tất cả niềm tin ấy được đặt trọn
vào từ “Amen” ở câu kết của Kinh Tin Kính74 và của Kinh Thánh với tâm tình
“Fiat” của Đức Maria xưa.
Ý thức được ý nghĩa sâu xa của từ “Amen”, chúng ta hãy siêng năng đọc,
học hỏi và suy gẫm về nó nhất là lúc chúng ta rước Mình Thánh Chúa. Để qua đó,
chúng ta biết được tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa, thể hiện qua việc trao ban
chính Thân Mình của Đức Giêsu làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta khi
chúng ta thưa một cách long trọng “Amen – Vâng” mỗi lần chúng ta chịu Lễ. Chính
tiếng “Amen” này của chúng ta làm cho mầu nhiệm Nhập Thể được mở rộng mãi
trong lịch sử nhân loại mà Đức Maria là người tín hữu tiêu biểu đầu tiên đã lãnh
nhận vào trong cung lòng của Mẹ khi Mẹ thưa tiếng “Fiat”.
Như vậy, một lần nữa có thể nói rằng tiếng “Amen” của người tín hữu, cũng
là tiếng “Amen” của Giáo Hội, nó đã không ngừng vang vọng trong suốt cuộc lữ
hành ở trần gian. Tiếng “Amen” nói lên niềm tin của Giáo Hội vào Bí Tích Thánh
Thể về sự hiện diện của Đức Giêsu - Con Thiên Chúa dưới hình bánh và rượu, với
tất cả sự thuần phục, yêu mến và tri ân.75
Tài Liệu Tham Khảo
A. Kinh Thánh
Kinh Thánh. Bản dịch Việt ngữ của nhóm GKPV. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
B. Tài liệu Huấn quyền
Công Đồng Vaticanô II. bản dịch Việt ngữ của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin thuộc Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.
Xc. Kh 21, 6-7.
Xc. GIÁO LÝ HỘI THÁH CÔNG GIÁO, Bản Việt Ngữ của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin Thuộc Hội Đồng
Giam Mục Việt Nam, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2012), tr. 857.
75
Xc.
Hoàng
Thị
Hòa,
“Fiat
và
Amen”.
Truy
cập
ngày
06-01-2015,
http://daminhtamhiep.net/2012/08/14/fiat-va-Amen.
73
74
14
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Bản dịch Việt ngữ của Ban Giáo Lý thuộc Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo, 1998.
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Bản Việt Ngữ của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin Thuộc
Hội Đồng Giam Mục Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo, 2012.
Sách Lễ Rôma. bản dịch Việt ngữ của Ủy ban Phụng tự thuộc HĐGMVN, 1992.
YOUCAT – Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dành cho người trẻ, bản dịch Việt Ngữ
của Linh mục Antôn Nguyên Mạnh Đồng từ bản Tiếng Pháp của Du Cerf,
Paris. Hà Nội: Tôn Giáo, 2013.
C. Sách
A.S.Hornby. Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current English, 7th
Edition, Oxford University Press. USA.
Dom, Robert le Gall. Phụng vụ của Giáo Hội (Mầu nhiệm, Dấu chỉ và Hình ảnh).
Bản dịch của cha Giuse Nguyễn Cao Luật, OP. Tp HCM: Học Viện Đa Minh,
2009.
Đặng Xuân Thành (nhóm Chánh Hưng). Từ Điển Công Giáo Phổ Thông được
dịch từ cuốn “Pocket Catholic Dictionary” của Cha John A. Hardon. Tp.
HCM: Phương Đồng, 2008.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Từ Điển Công Giáo 500 mục từ. Hà Nội: Tôn Giáo,
2011.
Nguyễn Thế Thủ. Giải đáp các vấn nạn về Phụng vụ theo các văn kiện của Giáo
Hội,tập I. Hà Nội: Tôn Giáo, 2001.
D. Trang mạng
Edward McNamara. “Giải đáp phụng vụ: Cộng đoàn quỳ gối đến hết Vinh tụng
ca không?”. Bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Trọng Đa. Truy cập ngày 0601-2015, http://www.vietcatholic.net/News/Html/121321.htm.
Hoàng
Thị
Hòa.
“Fiat
và
Amen”.
Truy
cập
ngày
06-01-2015,
http://daminhtamhiep.net/2012/08/14/fiat-va-Amen.
Lê minh Thông, “Giới thiệu bản văn Khải Huyền, Hy Lạp – Việt”. Truy cập ngày
06-01-2015, http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com.
Tú Nạc. “Amen: Một từ lưỡng nghĩa”. Truy cập ngày 01-01-2015,
http://thanhlinh.net/node/45891.
15

Similar documents