BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010

Transcription

BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
2009-2010
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 1
Bản quyền Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 20 Lý Thường Kiệt, Hà Nội Tel: 84.4.39347628 ‐ Fax: 84.4.39348142 Email: [email protected] Website: http://www.vietrade.gov.vn Báo cáo được thực hiện với sự phối hợp của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu chính sách và phát triển (DEPOCEN) gồm: Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Đức Nhật, Trần Thanh Thủy, Nguyễn Thị Tường Anh, Lê Thanh Thủy, Phạm Thị Mỹ Hạnh, Trần Thị Kiều Minh, Nguyễn Thị Minh Thư, Nguyễn Hồng Quân. 2 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) www.vietrade.gov.vn BÁO CÁO XÚC TIẾN
XUẤT KHẨU
2009-2010
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG – XÃ HỘI Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 3
4 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................... 7
PHẦN I: GIỚI THIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
9
1. Mục đích và ý nghĩa.......................................................................................................................... 9
2. Phạm vi và nội dung nghiên cứu ....................................................................................................... 11
3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................ 11
PHẦN II: PHÂN TÍCH TỔNG QUÁT TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2008 – 2009
15
1. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu các năm 2008, 2009
và định hướng xuất khẩu năm 2010 ................................................................................................... 15
1.1 Tình hình các mặt hàng xuất khẩu chủ lực: kim ngạch và thị trường .............................................. 16
1.2 Nhu cầu thế giới và năng lực cung ứng của Việt Nam:
cơ hội xuất khẩu và phát triển thị trường ................................................................................ 23
1.2.1 Xu hướng nhu cầu của thế giới trong giai đoạn 2008-2009.......................................................23
1.2.2 Năng lực cung ứng của Việt Nam...............................................................................................24
1.3 Cạnh tranh và các rào cản thương mại .................................................................................... 26
1.4 Chính sách phát triển xuất khẩu của Việt Nam và
các Hiệp định tự do thương mại song phương và khu vực ............................................................ 30
1.4.1 Chính sách phát triển xuất khẩu của Việt Nam 2008-2009........................................................30
1.4.2 Các hiệp định tự do thương mại song phương và khu vực.........................................................33
1.5 Đánh giá xu hướng hàng hóa xuất khẩu .................................................................................. 35
1.6 Đánh giá xu hướng thị trường xuất khẩu ................................................................................. 36
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 5
1.6.1 Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam
vào một số thị trường chính (sử dụng mô hình trọng lực).........................................................36
1.6.2 So sánh giữa tiềm năng và thực tế xuất khẩu của Việt Nam với từng thị trường .......................39
2. Đánh giá năng lực doanh nghiệp xuất khẩu và các nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh............... 41
2.1 Năng lực sản xuất xuất khẩu (border-in) ................................................................................. 42
2.2 Năng lực tiếp cận thị trường thế giới (border-out) ..................................................................... 44
2.3 Lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu:
Các yếu tố quyết định thành công trong cạnh tranh................................................................... 48
2.4 Tác động của việc gia nhập WTO và các khu vực mậu dịch tự do (FTA)
đối với một số ngành hàng xuất khẩu và doanh nghiệp xuất khẩu ................................................ 53
2.4.1 Tác động tích cực.........................................................................................................................53
2.4.2 Tác động tiêu cực ........................................................................................................................58
PHẦN III: DỰ BÁO VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ
61
1. Dự báo chung về xu hướng thị trường xuất khẩu ................................................................................... 61
1.1 Tiêu dùng của khối OECD sụt giảm .......................................................................................... 61
1.2 Sự trỗi dậy của các thị trường Châu Á....................................................................................... 63
2. Dự báo về tổng kim ngạch và tốc độ tăng trưởng 2010 ........................................................................... 65
3. Dự báo về xu hướng sản phẩm và thị trường xuất khẩu cụ thể cho giai đoạn 2010-2011 ................................ 67
4. Dự báo về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020 .................................................................. 73
5. Các khuyến nghị thay đổi cần thiết về chính sách nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu ................................... 75
5.1 Khuyến nghị về các chính sách của Nhà nước ........................................................................... 76
5.2 Khuyến nghị về chính sách xúc tiến xuất khẩu .......................................................................... 76
5.3 Khuyến nghị về hàng hóa xuất khẩu và thị trường mục tiêu ........................................................ 79
5.4 Khuyến nghị về việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (Global value chain) ....................................... 80
5.5 Khuyến nghị chương trình hành động .................................................................................... 80
PHỤ LỤC 1: MÔ TẢ MÔ HÌNH TRỌNG LỰC ............................................................................................ 85
PHỤ LỤC 2: MÔ TẢ PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TRUNG BÌNH TRƯỢT ........................................................... 87
PHỤ LỤC 3: KẾT QUẢ KHẢO SÁT DOANH NGHIỆP BAN ĐẦU.................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................... 93
6 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
LỜI MỞ ĐẦU
Giai đoạn 20 năm đổi mới vừa qua, tính từ năm 1988 đến năm 2008, đã đánh dấu bước tiến đầy ấn tượng về tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam cả về kim ngạch và khối lượng hàng hóa cũng như cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trên tổng GDP của Việt Nam đã tăng từ 30% vào đầu thập kỷ 1990 lên đến 70% vào năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình trong toàn giai đoạn này khoảng 19%/năm cùng với cơ cấu mặt hàng đã có thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng hàm lượng giá trị công nghiệp và đa dạng hóa sản phẩm trong từng ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Mặc dù quá trình thay đổi này diễn ra với tốc độ còn khiêm tốn nhưng đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững hoạt động xuất khẩu và ổn định kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt trong năm 2009 khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến hàng loạt các thị trường xuất khẩu quan trọng của nước ta. Bên cạnh những thành tựu ấn tượng đã đạt được, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2009 cũng bộc lộ những yếu điểm có tính chất chiến lược bắt buộc chúng ta phải có những quyết sách để đặt nền móng cho phát triển xuất khẩu bền vững trong giai đoạn phát triển kinh tế 2011‐2020. Những yếu điểm này đã tồn tại trong một thời gian dài nhưng không được chủ động giải quyết tận gốc bằng các chính sách phù hợp và đồng bộ từ bên trong, cộng với những ảnh hưởng từ các biến động mới trong xu hướng phát triển của thương mại quốc tế, đã đặt chúng ta trước sự lựa chọn hoặc tiếp tục con đường như hiện nay với kết quả nhãn tiền là hiệu quả của đầu tư sản xuất cho xuất khẩu có xu hướng giảm dần hoặc phải tìm ra và hiện thực hóa những nhân tố thành công nhằm: (1) thay đổi cơ cấu hàng hóa và thị trường xuất khẩu phù hợp với chiến lược và trình độ phát triển kinh tế, (2) nâng cao giá trị gia tăng Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 7
cho sản phẩm, và (3) xây dựng nền tảng bền vững cho sản xuất xuất khẩu dựa trên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về trình độ công nghệ và năng suất lao động. Trong bối cảnh đó, với chức năng tham vấn và thực hiện chính sách thương mại trong lĩnh vực xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu, bắt đầu từ năm 2009, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) tổ chức thực hiện Báo cáo xúc tiến xuất khẩu thường niên với mục đích xem xét, đánh giá hoạt động xuất khẩu từng năm và đề xuất những khuyến nghị chính sách và biện pháp thực hiện cụ thể về trung hạn, trong khung thời gian 2‐3 năm. Báo cáo cũng có thể được coi là nguồn thông tin tham khảo phục vụ công tác xây dựng và điều chỉnh chiến lược xuất khẩu quốc gia cho thập kỷ 2011‐2020 và các đề án phát triển xuất khẩu 5 năm trong giai đoạn này. Cục Xúc tiến thương mại xin chân thành cảm ơn Trung tâm Nghiên cứu chính sách và phát triển (DEPOCEN) đã phối hợp thực hiện báo cáo này. Chúng tôi cũng xin ghi nhận và đánh giá cao ý kiến đóng góp của các chuyên gia quốc tế và trong nước của Dự án VIE/61/94 “Hỗ trợ Xúc tiến thương mại và Phát triển xuất khẩu tại Việt Nam” về phương pháp luận và cấu trúc, nội dung của báo cáo. Hoạt động xúc tiến thương mại bao gồm nhiều lĩnh vực, tuy nhiên trong khuôn khổ báo cáo này, chúng tôi chỉ đề cập tới hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Trong lần xuất bản đầu tiên này, chắc chắn báo cáo còn những khiếm khuyết và hạn chế không thể tránh khỏi về hình thức, cấu trúc và nội dung. Vì vậy, Cục Xúc tiến thương mại rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và phản biện của các chuyên gia và đồng nghiệp để chất lượng của báo cáo trong những năm tới ngày càng nâng cao, đóng góp thiết thực vào công tác tham vấn xây dựng chính sách thương mại của Bộ Công Thương và đề xuất các biện pháp triển khai chính sách kịp thời và thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước. ĐỖ THẮNG HẢI Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại 8 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
PHẦN I
GIỚI THIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA
Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cho phép Việt Nam tận dụng được thị trường thế giới to lớn, thu hút được vốn, nắm bắt được công nghệ, kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp với nhu cầu phát triển công nghiệp hiện đại. Trong những năm gần đây, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên sâu sắc. Đặc biệt, năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, năm 2008 và 2009, cùng với việc hội nhập đa phương, Việt Nam đã đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới. Trong suốt quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, xuất khẩu (XK) của Việt Nam đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP đã tăng liên tục từ mức khoảng 30% từ đầu những năm 1990 lên tới 70% vào năm 2008 (Xem Biểu đồ 1). Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới cũng đồng nghĩa với việc nền kinh tế Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào nền kinh tế thế giới, cả theo mặt tích cực và tiêu cực. Khủng hoảng kinh tế thế giới 2008‐2009 đã có tác động Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 9
không nhỏ đến nền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là đối với khu vực xuất khẩu. Biểu đồ 1 cho thấy trong năm 2009 kim ngạch XK của Việt Nam đã giảm sút so với những năm trước đó. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 của Việt Nam chỉ đạt 56,58 tỷ USD, giảm 9,3% so với năm 2008. Do đó, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược đẩy mạnh phát triển xuất khẩu hàng hoá phù hợp với tình hình và nhu cầu của thị trường thế giới. Trong bối cảnh này, Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển (DEPOCEN) xây dựng Báo cáo Xúc tiến xuất khẩu 2009‐2010. 100
80
60
40
Việt Nam
20
0
19
9
19 0
9
19 1
92
19
9
19 3
9
19 4
95
19
9
19 6
97
19
9
19 8
99
20
0
20 0
0
20 1
0
20 2
03
20
0
20 4
05
20
0
20 6
0
20 7
08
20
09
Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu tính trên GDP (%)
BIỂU ĐỒ 1: Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu tính trên GDP của Việt Nam (1990-2009)
Nguồn: Marketlineinfo: http://www.marketlineinfo.com
Mục tiêu của báo cáo là đưa ra những phân tích nhận định về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây để tìm ra định hướng cho những năm tiếp theo, đồng thời cũng đưa ra những khuyến nghị chính sách để nâng cao năng lực xuất khẩu. Đáp ứng mục tiêu đó, báo cáo được xây dựng thành ba phần chính: (i) Phân tích tổng quát tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong các năm 2008, 2009 và định hướng năm 2010; (ii) Dự báo khả năng xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2011; và (iii) Các khuyến nghị về chính sách nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam. 10 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
2. PHẠM VI VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Năm 2008 và 2009 là những năm mà nền kinh tế thế giới cũng như kinh tế Việt Nam trải qua nhiều biến động. Việc phân tích cũng như dự báo xuất khẩu của Việt Nam chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Một phần là do yếu tố bất định gắn liền với môi trường kinh tế vĩ mô quốc tế, ví dụ như người ta không thể biết một cách chắc chắn là khi nào những nền kinh tế lớn của thế giới sẽ thoát ra khỏi khủng hoảng. Nhưng lý do quan trọng hơn là khi khủng hoảng xảy ra sẽ dẫn tới những đổ vỡ, những thay đổi về mặt cấu trúc của nền kinh tế thế giới; điều này khiến cho các tham số của nền kinh tế thay đổi. Vì vậy việc sử dụng các số liệu trong quá khứ để ước lượng tham số dùng cho mục đích dự báo, khi mà các tham số đã thay đổi, là một công việc đầy tính mạo hiểm và rất dễ mắc sai lầm. Do đó, trong phạm vi nghiên cứu của báo cáo này, nhóm nghiên cứu tập trung vào nhận định và phân tích những xu hướng thương mại lớn đã và đang diễn ra trong nền kinh tế thế giới song song với phân tích khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù báo cáo đã kết hợp các phương pháp thống kê dự báo với ý kiến của các chuyên gia thương mại nhiều năm kinh nghiệm tại Việt Nam (doanh nghiệp xuất khẩu) và tại thị trường nhập khẩu (cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài), nhưng như đã nói ở trên, trong một môi trường đầy tính bất định như hiện nay, các con số ước lượng như vậy, chỉ nên sử dụng để tham khảo. Ngoài phần mở đầu, báo cáo được xây dựng thành hai phần chính. Phần II: Phân tích tổng quát tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2009; và Phần III: Dự báo và các khuyến nghị. Trong phần II, bên cạnh phần phân tích tổng quát tình hình xuất khẩu trong giai đoạn 2008‐2009, báo cáo còn đi sâu vào phân tích cụ thể 10 ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam và những thị trường xuất khẩu lớn cho từng ngành hàng. Ngoài ra, trong phần này, báo cáo cũng đề cập đến năng lực cung ứng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Trong phần III, báo cáo đưa ra những dự báo về tình hình thị trường thế giới trong 2 năm tới, tầm nhìn đến năm 2015 dựa trên những tính toán của nhóm chuyên gia, bảng tổng hợp ý kiến cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài và nghiên cứu của các nhà kinh tế nước ngoài. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện yêu cầu nghiên cứu của báo cáo, nhóm chuyên gia đã sử dụng kết hợp một số các phương pháp nghiên cứu từ tổng quan tài liệu, xây dựng mô hình, tiến hành điều tra thực địa, đến phân tích và dự báo. Quá trình nghiên cứu được chia làm ba giai đoạn như sau: Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 11
GIAI ĐOẠN I: Thu thập thông tin, bao gồm (i) Gặp gỡ các cán bộ quản lý xúc tiến thương mại, các chuyên gia, doanh nghiệp ngành hàng; (ii) Xác định các đối tượng sẽ được khảo sát, ngành hàng và mặt hàng khảo sát, các tiêu chí thông tin cần thu thập tương ứng; (iii) Tập hợp và tổng quan các tài liệu, nghiên cứu trước đó về năng lực, thực trạng và dự báo xuất khẩu của Việt Nam với các ngành hàng liên quan; các tài liệu nghiên cứu trước đó về thị trường thế giới với các ngành hàng tương ứng. Báo cáo nghiên cứu cũng sử dụng các khái niệm đã được các tổ chức như Ngân hàng thế giới (WB), Diễn đàn kinh tế thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) đưa ra như bộ chỉ số hỗ trợ xuất khẩu, chỉ số tập trung thương mại, bộ chỉ số về thương mại quốc gia… GIAI ĐOẠN II: Thống nhất phương pháp điều tra và phương pháp dự báo
Để có được một cái nhìn tổng quan từ nhiều phía, nhóm chuyên gia xác định cần phải thu thập thông tin và có cách thức nghiên cứu khác nhau ở mỗi phần của bài viết. Cụ thể, phần tổng quan về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam được thực hiện thông qua nghiên cứu tại bàn. Số liệu được sử dụng trong phần này là số liệu được thu thập từ các bộ ngành cũng như các đánh giá độc lập của các tổ chức kinh tế nước ngoài như Ngân hàng thế giới, Trung tâm thương mại quốc tế… Ở phần hai của bài viết phân tích về năng lực của doanh nghiệp xuất khẩu và cách thức để nâng cao năng lực cạnh tranh, nhóm chuyên gia đã kết hợp sử dụng phương pháp thu thập số liệu sơ cấp sử dụng ý kiến của các chuyên gia tại các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài và các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam cùng với sử dụng các số liệu thứ cấp, đặc biệt là báo cáo kết quả khảo sát năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2008. Trong phần dự báo, nhóm chuyên gia sử dụng phương pháp mô hình căn cứ vào số liệu kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong 14 năm từ 1995‐2008. Ngoài ra, nhóm chuyên gia cũng tham khảo các dự báo mà các tổ chức nước ngoài như sử dụng kết quả nghiên cứu từ trang web http://www.marketlineinfo.com để người đọc có thể có nhiều góc tiếp cận khác nhau đối với dự báo về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. GIAI ĐOẠN III: Bổ sung số liệu, xây dựng mô hình và dự báo
Trên cơ sở thống nhất về phương pháp nghiên cứu ở giai đoạn II, nhóm chuyên gia tiến hành thu thập bổ sung số liệu. Các số liệu thứ cấp được thu thập 12 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
từ các báo cáo, từ trang web và số liệu thống kê của các bộ, ngành và các tổ chức quốc tế như IMF, WB, ITC… Số liệu sơ cấp được thu thập và tổng hợp căn cứ vào kết quả các phiếu điều tra được gửi tới các cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc… và các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam. Mô hình dự báo cho tình hình xuất khẩu của Việt Nam năm 2010 được lựa chọn trên cơ sở ba phương pháp của trung bình trượt là phương pháp trung bình trượt giản đơn, trung bình trượt có tính đến sai lệch tuyệt đối của kim ngạch xuất khẩu qua các năm và trung bình trượt tính đến sai lệch tương đối của kim ngạch xuất khẩu qua các năm. Phương pháp trung bình trượt có tính đến sai lệch tuyệt đối của kim ngạch xuất khẩu qua các năm là phương pháp có độ lệch chuẩn nhỏ nhất đã được lựa chọn để đưa ra dự báo cho kim ngạch xuất khẩu năm 2010 của Việt Nam vào các thị trường chính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu Âu… Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 13
14 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
PHẦN II
PHÂN TÍCH TỔNG QUÁT
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2008 – 2009
1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁC NĂM 2008, 2009 VÀ ĐỊNH HƯỚNG
XUẤT KHẨU NĂM 2010
Trong giai đoạn 1986‐2008, Việt Nam liên tục đạt mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ở mức cao (trung bình khoảng 19%/năm), cao hơn mức trung bình trong khu vực và trên thế giới (Xem Biểu đồ 2). Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 62,7 tỷ đô la Mỹ (tăng 29,1% so với năm 2007), tỷ lệ xuất khẩu trên GDP lên tới trên 70%.1 Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, mặc dù tốc độ tăng trưởng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 so với năm 2007 khá ấn tượng, nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất khẩu sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%.2 1
Vietnam Country Analysis Report‐ In‐depth PESTLE Insights, August 2009 Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là, mặc dù kim ngạch xuất khẩu đạt mức tăng trưởng cao nhưng Việt Nam vẫn trong tình trạng nhập siêu. Tính cả năm 2008, nhập siêu là 18 tỷ USD, tăng 26,8% so với mức nhập siêu năm 2007 và bằng 28,8% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. 2
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 15
Ngược lại với năm 2008, bức tranh kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng của Việt Nam trong năm 2009 có phần ảm đạm. Do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 chỉ đạt 56,58 tỷ USD, với mức tăng trưởng âm (giảm 9,7%) so với năm 2008. Sự giảm sút này một phần do tác động khách quan cuộc khủng hoảng hiện nay, một phần khác là do chính sức cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam. BIỂU ĐỒ 2: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam và tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu
50
40
30
20
10
0
-10
-20
-30
s
19
19 90
19 91
19 92
19 93
19 94
19 95
19 96
19 97
19 98
9
20 9
20 00
20 01
20 02
20 03
20 04
20 05
20 06
20 07
20 08
09
80000
70000
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
(%)
Kim ngạch xuất khẩu (Triệu USD)
giai đoạn 1990-2009
Kim
ngạch
Tốc độ
tăng
Nguồn: Marketlineinfo: http://www.marketlineinfo.com
1.1 Tình hình các mặt hàng xuất khẩu chủ lực: kim ngạch và thị trường
Theo kế hoạch năm 2008, xuất khẩu sẽ đạt kim ngạch 58,6 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007. Trên thực tế, xuất khẩu năm 2008 đạt kim ngạch 62,7 tỉ USD, vượt 4,7 tỷ USD so với kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu năm 2009 không như kết quả đã đạt được của các năm trước. Tính đến hết tháng 12 năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 56,58 tỷ USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước, không đạt mục tiêu đã đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 với kim ngạch xuất khẩu là 71 tỷ USD. Bảng 1 cho thấy dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, phần lớn các ngành hàng xuất khẩu đều bị ảnh hưởng, thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu giảm tương đối nhiều so với cùng kỳ năm 2008 (dầu thô giảm 40%; dệt may giảm 1,3%; giày dép giảm 15,8%; gạo giảm 8%; gỗ giảm 10%). 16 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Ngoài tác động trực tiếp của khủng hoảng kinh tế dẫn tới nhu cầu sụt giảm, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào cản thương mại mới do các nước đưa ra để hạn chế nhập khẩu trong tình hình nền kinh tế của họ đang gặp khó khăn. Một điều nhận thấy là các hành vi bảo hộ thương mại ngày càng tinh vi, nhất là tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. BẢNG 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2009
Giá trị xuất khẩu 2008
(tỷ USD)
Giá trị xuất khẩu 2009
(tỷ USD)
Giá trị xuất khẩu 2009 so
với 2008 (%)
Tổng giá trị xuất khẩu
62,685
56,584
90,3
Dầu thô
10,357
6,210
60
Dệt may
9,120
9,004
98,7
Giày dép
4,768
4,015
84,2
Thủy sản
4,510
4,207
93,3
Gạo
2,894
2,662
92
Gỗ và sản phẩm gỗ
2,829
2,550
90,1
Cao su
1,603
1,199
74,8
Cà phê
2,111
1,710
81
Điện tử, máy tính và
linh kiện
2,638
2,774
105,1
Máy móc thiết bị và
dụng cụ phụ tùng
1,860
2,028
109,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2009)
Một điều hiển nhiên là ngoài việc tăng số lượng xuất khẩu thì việc tăng giá trị xuất khẩu còn phụ thuộc một phần vào giá thế giới và những thị trường xuất khẩu lớn. Do đó khi những thị trường này có biến động thì kim ngạch xuất khẩu bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu không chỉ đơn thuần là do các khó khăn khách quan mà đồng thời cũng cho thấy sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu còn hạn chế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa cao. Do Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới với tư cách là một nền kinh tế nhỏ, có trình độ phát triển thấp, phần lớn các mặt hàng xuất khẩu đều mới chỉ dừng lại ở dạng thô, sơ chế, gia công nên ít giá trị gia tăng (gạo, cà phê, giày da, dầu thô…). Do đó kinh tế Việt Nam sẽ chịu nhiều biến động trước diễn biến bất lợi của nền kinh tế thế giới. Các mặt hàng xuất Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 17
khẩu chưa đa dạng, phong phú, số lượng các mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Không những thế, Việt Nam vẫn chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc… Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra từ quý IV năm 2008 đã tác động mạnh tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Trong những tháng cuối năm 2009, nền kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã tăng nhẹ về lượng xuất khẩu nhưng do giá trên thị trường thế giới thấp hơn so với giá trước khủng hoảng nên kim ngạch xuất khẩu giảm rõ rệt. Dưới đây là tổng quan về tình hình xuất khẩu của 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong 2 năm 2008‐2009 (10 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong 2 năm 2008‐2009). Dầu thô
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2008, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam đạt kim ngạch 10,3 tỷ USD, tăng 21% so với kim ngạch năm 2007. Tính đến hết năm 2009, xuất khẩu dầu thô đạt kim ngạch 6,21 tỷ USD, giảm tới 40% kim ngạch xuất khẩu so với năm 2008. Các thị trường chính nhập khẩu dầu thô của Việt Nam là Australia, Singapore, Malaysia, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Do khủng hoảng kinh tế, giá dầu thô trên thế giới liên tục giảm mạnh. Nếu vào tháng 7 năm 2008 giá dầu ở vào khoảng 147 USD/thùng thì đến tháng 10 năm 2009 giá dầu chỉ vào khoảng trên dưới 70 USD/thùng. Do đó việc kim ngạch xuất khẩu dầu thô của nước ta trong năm 2009 giảm gần một nửa so với năm trước là điều hoàn toàn có thể dự đoán được. Một nguyên nhân khác dẫn tới sự giảm sút của kim ngạch dầu thô xuất khẩu là do thực hiện mục tiêu giảm xuất khẩu dầu thô ra nước ngoài của Nhà nước trong Chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2001‐2010. Dệt may
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2008 đạt 9,12 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2007. Tính đến hết năm 2009, kim ngạch xuất 18 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
khẩu hàng dệt may đạt khoảng 9 tỷ USD, dẫn đầu về mặt giá trị xuất khẩu trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tuy nhiên so với năm 2008 giảm 1,3%. Các thị trường nhập khẩu dệt may chính của nước ta: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Canada. Có thể nhận thấy, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến xuất khẩu mặt hàng dệt may là không lớn, một phần là do dệt may thuộc nhóm các mặt hàng phục vụ tiêu dùng mang tính thiết yếu. Đây là mặt hàng có cầu ít nhạy cảm đối với thu nhập người tiêu dùng, do đó khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi, lượng cầu về mặt hàng này thay đổi không đáng kể. Một thuận lợi khác trên thị trường dệt may xuất khẩu hiện nay là Trung Quốc, đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam, đang có xu hướng giảm dần sự tham gia trong các lĩnh vực xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp để tập trung nguồn lực sản xuất vào các mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn, do đó phần nào giảm bớt tính khốc liệt của cạnh tranh trên thị trường dệt may xuất khẩu mà Việt Nam hiện đang là một chủ thể tích cực. Theo một nghiên cứu gần đây của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, ngành dệt may bắt đầu nhận lại được đơn hàng xuất khẩu với số lượng đáng kể. Do đó có thể kỳ vọng là sang năm 2010, dệt may có thể đạt được mức tăng trưởng bằng mức tăng trưởng của những năm trước khủng hoảng. Giày dép
Tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam trong năm 2008 đạt 4,767 tỉ USD, tăng 20% so với năm 2007, trong khi năm 2009 đạt 4,015 tỉ USD, giảm 15,8% so với năm trước. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của mặt hàng giày dép là EU và Hoa Kỳ. Tại những thị trường này, hàng giày dép xuất khẩu của Việt Nam cạnh tranh với mặt hàng cùng loại xuất khẩu từ các nước Braxin, Ấn Độ, Campuchia, Banladesh. Tương tự như ngành dệt may, ngành giày dép xuất khẩu của Việt Nam không bị ảnh hưởng quá nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Theo báo cáo mới nhất của Bộ Công Thương, nhiều doanh nghiệp trong nước đã ký được đơn hàng sản xuất ổn định với sản lượng tương đương năm trước và đáp ứng được khoảng 70‐ 80% năng lực sản xuất hiện có. Thậm chí, một số doanh nghiệp còn lâm vào tình trạng thiếu nhân công để đáp ứng nhu cầu sản xuất các đơn hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam (trong nước và liên doanh) đều là những đơn vị cung cấp lớn trong các chuỗi cung cấp da giày của các thương hiệu lớn và uy tín như Nike, Adidas, Puma. Thay vì những ảnh hưởng khủng hoảng, sản xuất da giày Việt Nam đang chịu những tác động tiêu cực của các hàng rào kỹ thuật như thuế chống bán phá giá. Ví dụ điển hình là “xuất hiện tình trạng nhiều đối tác của ngành đã dịch chuyển nhà máy sản xuất Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 19
giày sang Campuchia vì nước này đang được hưởng thuế quan ưu đãi GSP của EU và không chịu thuế chống bán phá giá giày có mũ da”. 3 Thủy sản
Năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam tăng 18% so với năm 2007, đạt 4,5 tỉ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2009 đạt 4,207 tỉ USD, giảm 6,7% so với năm 2008. Các bạn hàng lớn trong ngành thủy sản của Việt Nam là EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ hai của Việt Nam, sau Nhật Bản. Xuất khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ trong thời gian qua không giảm mà ngược lại còn có xu hướng tăng (mặc dù thị trường Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng rất nặng nề của cuộc khủng hoảng) là do thủy sản cũng là mặt hàng có cầu ít co giãn theo thu nhập, do đó ít chịu tác động của sự suy thoái kinh tế. Gạo
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong năm 2008, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng so với năm 2007 đạt 4,6 triệu tấn (tăng 3,3%) với kim ngạch là 2,8 tỉ USD (tăng 99%, tính theo giá FOB). Năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 2,662 tỉ USD, giảm 6,7% so với năm 2008. Các thị trường xuất khẩu gạo lớn của Việt Nam hiện nay là Philippin, Indonesia, Cuba và Iraq. Đặc biệt, trong năm nay, tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi và Trung Đông tăng mạnh. Gỗ và sản phẩm gỗ
Sau các tháng suy giảm liên tiếp về giá trị xuất khẩu, đến tháng 7 năm 2009, thị trường gỗ và sản phẩm gỗ đã có dấu hiệu phục hồi. Tính đến hết năm 2009, mặt hàng này đạt kim ngạch xuất khẩu 2,55 tỷ USD, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2008. Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn là 3 nhà nhập khẩu đồ gỗ lớn nhất của Việt Nam. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ biến động mạnh hơn kim ngạch các ngành dệt may, gạo… là do gỗ là mặt hàng ít mang tính thiết yếu. Mặt hàng này có cầu khá nhạy cảm theo thu nhập, do đó có thể thấy ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đến ngành là rõ nét hơn đến các ngành có cầu ít nhạy cảm theo thu nhập. Vì lẽ đó, sự phục hồi của ngành sẽ diễn ra chậm hơn các ngành kể trên. 3
Báo cáo tóm tắt hoạt động ngành công nghiệp và thương mại tháng 11 và 11 tháng năm 2009 của Bộ Công Thương 20 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Cao su
Năm 2008, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 645 nghìn tấn, tương đương với 1,6 tỉ USD. Xuất khẩu mặt hàng này năm 2009 đạt 1,199 tỷ USD, giảm 25,2% so với cùng kỳ năm 2008. Theo dự đoán của các nhà kinh tế học, giá cả trên thị trường cao su nói riêng và nhóm thị trường nguyên liệu thô nói chung sẽ hồi phục trước khi kinh tế toàn cầu hồi phục, do hoạt động của các quỹ đầu cơ trên thị trường kỳ hạn (future market) đối với nguyên liệu thô. Cà phê
Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2009, đạt 1,71 tỉ USD, giảm 19% so với cùng kỳ năm 2008. Các nước nhập khẩu chính của cà phê Việt Nam là Đức, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ, Đức, Hoa Kỳ… Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Braxin, Colombia và Indonesia. Xét về giá trị, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2001 đến nay tăng trung bình khoảng 30%/năm. Đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng tới 53% (theo thống kê của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam ‐ VICOFA), Việt Nam trong nhiều năm liền là một trong các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Điện tử, máy tính và linh kiện
Xuất khẩu mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện của Việt Nam năm 2009 đạt kim ngạch 2,774 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2008. Phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ đạt 5 tỉ USD. Các thị trường nhập khẩu nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện của Việt Nam là: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Singapore, Hà Lan... Điện tử, máy tính và linh kiện là mặt hàng có tiềm năng phát triển, hứa hẹn mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho Việt Nam, một phần là do trong những năm gần đây làn sóng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực điện, điện tử và sản xuất linh kiện máy tính ở Việt Nam tăng mạnh với nhiều dự án lớn, đem lại nguồn cung dồi dào cho xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu khổng lồ về mặt hàng điện tử và linh kiện máy tính của thế giới với mức nhập khẩu cao (khoảng 500 tỉ USD năm 2007). Máy móc, thiết bị và dụng cụ phụ tùng
Năm 2009, xuất khẩu mặt hàng máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng đạt 2,028 tỉ USD, tăng 9,1% so với năm 2008. Song song với việc xuất khẩu máy móc thiết bị, Việt Nam cũng là nước nhập khẩu nhiều mặt hàng này để phục vụ cho sản xuất trong nước. Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 21
BẢNG 2: Kim ngạch xuất khẩu phân theo thị trường và mặt hàng chủ lực của từng thị trường
Thị trường
Năm 2008
Mặt hàng
chủ lực
EU
ASEAN
Nhật Bản
Kim ngạch
(nghìn USD)
2.508.276
Da giày
1.710.649
Hàng dệt may
1.703.627
Hàng dệt may
1.442.029
Hải sản
1.149.207
Hải sản
959.455
Dầu thô
2.824.388
Dầu thô
2.209.413
Gạo
1.524.966
Gạo
1.227.565
731.637
Máy tính và phụ
kiện máy tính
5.105.740
Hàng dệt may
4.994.915
Da giày
1.075.130
Đồ gỗ
1.100.183
Đồ gỗ
1.063.990
Da giày
1.038.826
Dầu thô
2.177.391
Hàng dệt may
954.075
Hải sản
830.154
Hải sản
760.725
820.056
Dây điện và
dây cáp điện
63.9502
1.056.988
Than đá
935.843
Than
742.844
Cao su
Dầu thô
603.530
Sắn và các sản
phẩm từ sắn
Cao su
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam (%)
Năm 2008
Năm 2009
17,31%
15,08%
16,26%
13,62%
18,93%
19,89%
13,62%
11,02%
7,24%
10,72%
586.884
Hàng dệt may
Hàng dệt may
Trung
Quốc
(nghìn USD)
Mặt hàng
chủ lực
Da giày
Máy tính và phụ
kiện máy tính
Hoa Kỳ
Kim ngạch
Năm 2009
856.712
506.104
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan
Điều đáng lưu ý là mặc dù Hoa Kỳ và Nhật Bản là các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, nhưng xuất khẩu của Việt Nam vào hai thị trường này còn rất khiêm tốn so với nhu cầu nhập khẩu của họ. Năm 2008, xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ và Nhật Bản chỉ chiếm lần lượt 0,65% và 0,92% tổng kim ngạch nhập khẩu của hai nước này. Trị giá hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới, cũng chỉ đạt 4,53 tỷ USD, chiếm 7,2% tổng trị giá hàng xuất khẩu cả nước năm 2008. Bên cạnh đó, số liệu thống kê năm 2009 cho thấy sự sụt giảm đáng kể kim ngạch xuất khẩu sang những thị trường chủ lực. Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 11,3 tỷ USD, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2008; tiếp 22 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
đến là EU đạt 8,7 tỷ USD, giảm 22%; ASEAN đạt 7,9 tỷ USD, giảm 27%; Nhật Bản đạt 6,3 tỷ USD, giảm 34%4. Trong khi đó, tháng 12/2008, Việt Nam và Nhật Bản, sau 9 phiên đàm phán kể từ năm 2005, đã ký kết hiệp định đối tác kinh tế JVEPA‐ một hiệp định tự do hóa thương mại, dịch vụ, bảo hộ đầu tư và khuyến khích thương mại điện tử giữa Việt Nam và Nhật Bản. Tuy nhiên, điều này cũng không cứu vãn được sự giảm sút trong trị giá hàng xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản, khi Nhật Bản đang trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Những con số trong năm 2009 lại cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản sụt giảm mạnh nhất trong các thị trường xuất khẩu chính. Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 giảm 9,7% so với năm 2008, có thể được giải thích do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế làm cho giá cả các mặt hàng xuất khẩu giảm trong khi số lượng xuất khẩu vẫn tăng. Cụ thể, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng về lượng xuất khẩu nhưng do giá trên thị trường thế giới thấp nên kim ngạch năm 2009 giảm, trong đó gạo tăng 32,8% về lượng và giảm 7,8% về kim ngạch; cà phê tăng 16,8% về lượng, giảm 17,3% về kim ngạch; dầu thô tăng 8% về lượng, giảm 43% về kim ngạch; than đá tăng 7,1% về lượng, giảm 19,4% về kim ngạch (GSO, 2009). Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tăng trưởng âm trong kim ngạch xuất khẩu Việt Nam năm 2009 là việc tập trung lớn hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào một số thị trường nhất định trong khi những thị trường này đều bị ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế thế giới (kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 20 thị trường lớn nhất đạt khoảng 85% tổng kim ngạch xuất khẩu5; chỉ tính riêng xuất khẩu sang 3 thị trường chính Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU đã chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam)6. 1.2 Nhu cầu thế giới và năng lực cung ứng của Việt Nam: cơ hội xuất khẩu và phát
triển thị trường
1.2.1 Xu hướng nhu cầu của thế giới trong giai đoạn 2008-2009
Giai đoạn 2008‐2009, do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhu cầu nhập khẩu của thế giới đã giảm hơn so với năm 2007. Tuy nhiên, những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam vẫn là những mặt hàng xuất khẩu tiềm năng trên thị trường thế giới, cụ thể như sau: Nhóm hàng năng lượng (dầu thô và than đá) vẫn có thị trường xuất khẩu lớn do nguồn cung hạn 4
Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2009 và số liệu từ Tổng cục Hải quan 5
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ năm 2008 của Tổng cục thống kê 6
Vietnam: Country Analysis Report‐ In‐depth PESTLE Insights, August 2009 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 23
hẹp và nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng trên thế giới. Nhóm hàng nông, lâm, thủy hải sản cũng có thị trường xuất khẩu lớn và đặc biệt, đây hầu hết là những thị trường truyền thống, có kim ngạch nhập khẩu lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ… Riêng với nhóm hàng công nghiệp chế biến, đây là nhóm quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, nhựa và dây cáp điện là những mặt hàng được các thị trường nhập khẩu nhiều nhất. Ngoài ra, một số mặt hàng như túi xách, va li, ô dù, sản phẩm từ cao su, sản phẩm từ gang thép hay tàu thuyền các loại đều là những mặt hàng có nhu cầu nhập khẩu cao trong năm 2009, ở mức trên 30%; Riêng mặt hàng tàu thuyền là nhân tố mới nổi được đánh giá là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. 1.2.2 Năng lực cung ứng của Việt Nam
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã đưa tới những biến động về số lượng, kim ngạch, cơ cấu thị trường xuất khẩu trong xu hướng xuất khẩu chung của Việt Nam. Những biến động này cho thấy sự thay đổi về mặt lượng xuất khẩu trước bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu, đồng thời cũng cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh xét trên góc nhìn quốc gia trong xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Khủng hoảng kinh tế nổ ra tất yếu sẽ tác động đến tình hình trao đổi hàng hóa giữa các nước trên thế giới, tuy nhiên tác động như thế nào và với mức độ ra sao sẽ còn phụ thuộc vào “nội lực” hay “sức đề kháng” của từng nền kinh tế và mức độ hội nhập của nền kinh tế đó trong nền kinh tế toàn cầu. Để có sự đánh giá đầy đủ, toàn diện xét trên góc độ quốc gia về năng lực xuất khẩu của Việt Nam, bên cạnh một cái nhìn ngắn hạn với các thông tin cập nhật, cần có một cái nhìn bao quát hơn trong một khoảng thời gian đủ dài để xác định được vị trí của Việt Nam đặt trong tương quan với các quốc gia xuất khẩu khác trong khu vực và trên thế giới. Trong phần này, nhóm nghiên cứu dựa trên bộ Chỉ số thương mại (Trade Performance Index) của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC ‐ International Trade Center) để đưa ra một số đánh giá về khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù bộ Chỉ số này chỉ tính toán số liệu từ năm 2002 đến năm 2006, song kể từ năm 2006 đến nay, có thể thấy cơ cấu nền kinh tế Việt Nam không thay đổi nhiều, công nghệ sản xuất cũng chưa có sự thay đổi lớn, do đó chỉ số này vẫn còn nguyên giá trị kinh tế trong thời điểm hiện tại. Bảng 3 dưới đây tổng hợp các chỉ số phản ánh hoạt động xuất khẩu của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, theo tính toán của Trung tâm Thương mại Quốc tế (International Trade Center ‐ ITC). Bảng 3 này cho thấy sự thay đổi 24 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
về khả năng xuất khẩu của 5 nước Châu Á, trong đó có Việt Nam trong khoảng thời gian 5 năm (2002‐2006). Nổi bật nhất trong bảng là Trung Quốc với các chỉ số rất ấn tượng về thực trạng xuất khẩu, với giá trị xuất khẩu tăng 3 lần chỉ trong vòng 5 năm, tỉ trọng trong xuất khẩu toàn cầu của Trung Quốc (8,0831%) gấp 23,4 lần tỉ trọng của Việt Nam (0,3461%). Mặc dù vậy, Việt Nam cũng là một trong số những nước có tốc độ phát triển xuất khẩu nhanh trên thế giới, đạt 26% theo giá trị xuất khẩu và 9% theo lượng xuất khẩu tính trong năm 2006 (theo tính toán của ITC). BẢNG 3. Chỉ số hoạt động thương mại (TPI) của một số quốc gia và vùng lãnh thổ
Quốc gia/
vùng
lãnh thổ
Giá trị xuất khẩu
Tỉ trọng trong xuất
khẩu toàn cầu (%)
Tăng trưởng trong
giá trị xuất khẩu (%)
(Nghìn USD)
2006
2002
Số lượng các nhà xuất
khẩu lớn trong nước có
giá trị xuất khẩu từ
100.000 USD trở lên
2006
2002
2006
Tỉ trọng của giá trị 3 mặt
hàng xuất khẩu lớn nhất
trong tổng giá trị
xuất khẩu (%)
2002
2006
2002
2006
325.595.970
968.935.601
5,1191
8,0831
-
31
-
21
4.495
4.644
8,9
11
Malaysia
95.058.291
160.669.231
1,4788
1,3403
-
14
-
2
3.041
3.397
22,9
17,7
Thái Lan
68.107.865
130.580.046
1,0708
1,0893
-
18
-
8
2.925
3.281
12,4
12,2
Indonexia
57.158.717
100.798.616
0,8987
0,8409
-
15
-
2
2.923
2.941
21,5
22,8
Việt Nam
16.706.053
41.484.709
0,2627
0,3461
-
26
-
9
1.578
2.107
28,1
28,1
Trung
Quốc
2002
Tăng trưởng
trong lượng
xuất khẩu (%)
2002
2006
Nguồn: Trade Performance HS: Exports and Imports of all industries 2006, Trade Competitiveness Map, International Trade Center (ITC)
Tuy nhiên, cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đang phải đối mặt với một thực tế là các mặt hàng xuất khẩu có lượng xuất khẩu lớn, song giá trị xuất khẩu còn chưa cao. Cụ thể nếu so sánh với các nước trong khu vực, chẳng hạn như Maylaysia, thì thấy tuy lượng xuất khẩu của nước này chỉ tăng 2% nhưng đã đủ để tạo ra 14% tăng trưởng trong giá trị xuất khẩu; hay 8% gia tăng về lượng xuất khẩu của Thái Lan tương đương với việc tăng giá trị xuất khẩu nước này tới 18%. Chỉ cần làm một phép tính khá đơn giản, với giả định Malaysia đạt được mức tăng trưởng về lượng xuất khẩu 9% thì với năng lực xuất khẩu hiện tại của nước này, mức tăng trưởng về giá trị xuất khẩu có thể tăng tới 63% trong khi đối với Việt Nam, thực tế 9% gia tăng trong lượng xuất khẩu chỉ tương đương với 26% gia tăng trong giá trị xuất khẩu. Điều này cho thấy một số nước ngay trong khu vực đã có những tiến bộ hơn hẳn so với Việt Nam trong việc tạo ra giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu. Số lượng các nhà xuất khẩu lớn trong nước có giá trị xuất khẩu hàng hóa từ 100.000 USD trở lên cũng được cải thiện rõ rệt, cho thấy khả năng xuất khẩu cũng như vị thế ngày càng được cải thiện của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy vì khi có trong tay một lượng hàng Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 25
hóa có giá trị đủ lớn, người xuất khẩu ít nhiều sẽ có sức ảnh hưởng tới thị trường và nhiều người xuất khẩu có sức mạnh thị trường hợp lại sẽ là đem lại thế mạnh cho nước xuất khẩu. Cần lưu ý rằng, tuy số lượng các nhà xuất khẩu lớn của Việt Nam đã được cải thiện, nhưng đây vẫn là con số khá khiêm tốn và cần phải được mở rộng hơn nữa. Chỉ số về tỉ trọng của giá trị 3 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu cũng là một chỉ số có nhiều ý nghĩa kinh tế. Tỉ trọng này càng lớn càng chứng tỏ tầm quan trọng của 3 mặt hàng này tới giá trị xuất khẩu của quốc gia. Trong 5 nước lựa chọn để nghiên cứu, tỉ trọng này ở Việt Nam là lớn nhất (28,1%), cho thấy đối với Việt Nam, 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực có vai trò quan trọng hơn cả trong việc tạo ra giá trị xuất khẩu, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự phụ thuộc của Việt Nam vào 3 mặt hàng này là lớn nhất. Do đó, khi có biến động của 3 mặt hàng này trên thị trường thế giới, Việt Nam sẽ là nước trong số 5 nước nghiên cứu chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự biến động. Do đó ngoài các tồn tại về giá trị gia tăng thấp trong hàng xuất khẩu, về số lượng hạn chế các nhà xuất khẩu lớn, thì vấn đề phải đa dạng cơ cấu hàng xuất khẩu cũng cần được sự quan tâm thích đáng. 1.3 Cạnh tranh và các rào cản thương mại
Để đối phó với khủng hoảng kinh tế trong nước do sụt giảm tổng cầu gây ra, năm 2009 là năm mà các nước áp dụng nhiều hàng rào đối với thương mại quốc tế. Việc áp dụng các hàng rào thương mại một phần là do chủ nghĩa bảo hộ, đồng thời một phần cũng là để đảm bảo chính sách phục hồi kinh tế của từng nước. 7 Tuy nhiên, nếu như tất cả các nước đều áp dụng chính sách bảo hộ này thì nguy cơ sẽ là rất nghiêm trọng cho nền kinh tế thế giới nói chung. Mặc dù cho tới thời điểm hiện nay có thể nhận định rằng chủ nghĩa bảo hộ về cơ bản sẽ không quay trở lại, nhưng hàng loạt các nước đã và đang áp dụng nhiều hàng rào bảo hộ, kể cả hàng rào kỹ thuật lẫn hàng rào phi kỹ thuật. Những hàng rào thương mại hiện đang được các nước áp dụng có khả năng gây thiệt hại lớn và lâu dài đến xuất khẩu của Việt Nam. Các hàng rào này được áp dụng rất đa dạng về hình thức như: các dạng thuế bổ sung, hạn ngạch, các biện pháp phòng vệ thương mại (biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ)... Những rào cản thương mại này đang có nguy cơ gia tăng tại các thị http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/vitinfo.com.vn/Cac‐nuoc‐canh‐tranh‐xay‐dung‐rao‐can‐thuong‐mai‐
moi/2426495.epi ; http://dddn.com.vn/20090508104321713cat134/rao‐can‐nguy‐hiem.htm ; http://www.vietnamplus.vn/Home/Cac‐rao‐can‐thuong‐mai‐can‐tro‐phuc‐hoi‐kinh‐te/20097/10753.vnplus 7
26 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
trường xuất khẩu của Việt Nam8. Các hàng rào này có thể làm giảm đáng kể hiệu quả của những nỗ lực tìm kiếm, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và khiến triển vọng xuất khẩu trở nên bấp bênh. Vì vậy, việc đối phó và vượt qua những “rào cản” này trở thành công việc cấp bách và đặc biệt quan trọng đối với sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai. Ngoài ra, những khó khăn gặp phải từ quá trình cạnh tranh quốc tế cũng là một trong những thách thức lớn mà Việt Nam phải đối mặt khi tham gia vào thương mại quốc tế. Cạnh tranh diễn ra ở tất cả các cấp độ: hàng hóa, doanh nghiệp, quốc gia. Các sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ gặp sự cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, mà ngay cả ở thị trường trong nước, đặc biệt là khi Việt Nam mở cửa thị trường, giảm thuế nhập khẩu, xóa bỏ trợ cấp… Cạnh tranh sẽ còn khốc liệt hơn đối với chúng ta khi mà năng lực cạnh tranh còn yếu. Trên cấp độ doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh là tổng hợp các yêu tố bên trong lẫn bên ngoài: đó là khả năng của doanh nghiệp về quản lý, sản xuất, tiếp thị, về trình độ công nghệ, năng lực của công nhân phù hợp với nhu cầu và điều kiện bên ngoài. Các doanh nghiệp đang phải đối mặt với những quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ, tuân thủ các quy định về nhãn mác và xuất xứ hàng hóa, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Mặc dù các hàng rào phi thuế quan đã được cắt giảm đối với một số mặt hàng và một số thị trường, như hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ và EU..., nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với các hàng rào kỹ thuật mới ngày càng tinh vi hơn theo các quy định riêng của một số nước. Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng trong khó khăn, các nền kinh tế đều đang có xu hướng tăng cường các rào cản thương mại. Ngân hàng Thế giới công bố, từ Hội nghị thượng đỉnh G20 vào tháng 11/2008 cho đến nay, các nước thuộc G20 đã áp dụng 47 biện pháp hạn chế thương mại. Khủng hoảng kinh tế khiến các rào cản thương mại được dựng lên ngày càng nhiều để hạn chế hàng nhập khẩu. Điều này buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực về mọi mặt để thích ứng với những quy định mới khắt khe hơn. Dưới đây là một số quy định mới, đang và sắp có hiệu lực, trong năm 2008, 2009 và 2010 ở một số thị trường xuất khẩu của Việt Nam. http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/vitinfo.com.vn/Cac‐nuoc‐canh‐tranh‐xay‐dung‐rao‐can‐thuong‐mai‐
moi/2426495.epi ; http://dddn.com.vn/20090508104321713cat134/rao‐can‐nguy‐hiem.htm ; 8
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 27
a. Thị trường Hoa Kỳ
Tháng 12/2009, một luật mới của Hoa Kỳ được ban hành và thực thi, buộc các lô hàng cá da trơn nhập khẩu sẽ phải chịu sự kiểm tra bởi Ban Thanh tra và An toàn thực phẩm (FSIS). Theo tổ chức này, các quy định kiểm tra sẽ định nghĩa cá da trơn và phạm vi bao trùm của các quy định sẽ được áp dụng với cơ sở chế biến cá da trơn, trong đó sẽ tính đến các điều kiện nuôi và vận chuyển cá đến cơ sở chế biến. Đạo luật Nông nghiệp Hoa Kỳ 2008 (Farm Bill 2008) dự kiến có hiệu lực từ ngày 1‐1‐2010 sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu cá tra và cá ba sa của Việt Nam. Trước hết, nếu cá tra, cá ba sa Việt Nam bị định nghĩa lại là catfish thì sẽ là đối tượng quản lý của đạo luật này (theo Farm Bill 2002 cá tra, cá ba sa của Việt Nam không phải là catfish ‐ tên gọi chung cá da trơn, mà thuộc dòng pangasius). Thứ hai, trong luật có một điều khoản gọi là “chính sách tương đương”, có nghĩa là các quốc gia xuất khẩu cá da trơn vào thị trường Hoa Kỳ phải đáp ứng các điều kiện tương đương với Hoa Kỳ về luật pháp, năng lực thực hiện luật, kiểm soát năng lực sản xuất... Do vậy, trong trường hợp Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cho rằng công nghiệp nuôi và chế biến cá tra, cá ba sa của Việt Nam không tương đương với điều kiện của Hoa Kỳ thì chắc chắn cá tra của Việt Nam sẽ bị cấm xuất vào Hoa Kỳ, đó là chưa kể bị thanh tra, giám sát liên tục của USDA. Ngành xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào Hoa Kỳ cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi Đạo luật Lacey sửa đổi đã có hiệu lực từ ngày 22‐5‐2008. Từ 1‐
4‐2009 là thời điểm bắt buộc nộp tờ khai với tất cả các giao dịch thương mại liên quan đến thực vật và các sản phẩm từ thực vật. Luật Lacey buộc nhà nhập khẩu khai báo chi tiết đối với từng loại sản phẩm, chẳng hạn tên khoa học của thực vật (theo giống và loài), giá trị nhập khẩu, khối lượng thực vật, tên của quốc gia mà thực vật được thu hoạch (có thể khác với nước xuất xứ thành phẩm). Quy định này sẽ ảnh hưởng lớn đến các nhà xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam. Theo Ủy ban An toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSC), luật mới về an toàn sản phẩm nhập khẩu vào Hoa Kỳ đã được thông qua kể từ ngày 14‐8‐2008. Theo đó, tất cả các sản phẩm dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ sẽ tuân thủ theo những quy định mới chính thức có hiệu lực từ tháng 2/2009. Ủy ban này sẽ tăng cường giám sát nghiêm ngặt hơn nữa các quy định an toàn sản phẩm như: tính dễ cháy của vải, cấm tuyệt đối các sản phẩm có dây thắt ở vùng cổ trên áo, đặc biệt là áo trẻ em. Mức phạt đối với các nhà nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ khi vi phạm cũng sẽ tăng lên đến 15 triệu USD. Trước đây mức phạt này tối đa là vài triệu USD. 28 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Hàng may mặc và giày dép dành cho trẻ em cũng có những quy định mới, về lượng chì trong sản phẩm và trong sơn bề ngoài của sản phẩm hiện nay là 600 ppm, nhưng bắt đầu từ ngày 14/9/2009 lượng chì trong sơn bề ngoài của sản phẩm chỉ còn 90 ppm và lượng chì trong sản phẩm chỉ còn 300 ppm9. b. Thị trường EU
Từ ngày 1‐1‐2010, Quy định số 1005/2008 ngày 29‐9‐2008 của Liên hiệp Châu Âu (EC) về thiết lập một hệ thống kiểm soát nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ các hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản bất hợp pháp (illegal, unreported and unregulated fishing ‐ IUU) có hiệu lực. Quy định này yêu cầu tất cả các lô hàng hải sản khai thác phải có chứng nhận tên tàu khai thác, vùng biển khai thác..., nếu thiếu sẽ không được phép nhập vào EU. Đây là yêu cầu khó đáp ứng được trong thời gian còn lại của năm 2009, khi EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Các chuyên gia thương mại nhận định, chính sách này có thể trở thành một hàng rào phi thuế quan đối với thủy sản Việt Nam10. Cũng tại thị trường EU, nói tới hàng may mặc “xanh” là nói tới các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khoẻ đối với người sử dụng và không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất. Nếu như tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng dệt may của Trung Quốc, thì tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành dệt may của Việt Nam và các nước Châu Á khác. Như vậy, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt may được dỡ bỏ và tiêu chuẩn “Eco friendly” được EU áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này, trong đó có Việt Nam. c. Thị trường Canada
Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại Canada cũng khuyến cáo các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này cần lưu ý tuân thủ những qui định trong Luật Dán nhãn và quảng cáo hàng dệt may và Luật Thuế hải quan. Ngoài ra, chất liệu sợi dùng trong quần áo trẻ em cần tuân thủ quy định về độ cháy. Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại Canada cũng cho biết, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu thường giao dịch dựa trên cơ sở mẫu hàng, do vậy các mẫu hàng cần phải tuân thủ đúng quy định và tiêu chuẩn của Canada về an toàn, độ bền, trọng lượng, chất liệu, chất lượng. 9
http://www.vietnamplus.vn/Home/Cac‐rao‐can‐thuong‐mai‐can‐tro‐phuc‐hoi‐kinh‐te/20097/10753.vnplus 10
http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=64&sub=64&id=34904 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 29
d. Thị trường Nhật Bản
Không áp dụng nhiều rào cản thương mại như các thị trường khác, nhưng Nhật Bản cũng có nhiều quy định về hàng hóa nhập khẩu, bao gồm: những hàng hóa bị cấm nhập khẩu, những hàng hóa cần giấy phép nhập khẩu và những hàng hóa có hạn ngạch nhập khẩu. Trong những quy định này, quy định về nhập khẩu cá và sản phẩm làm từ cá là một trong những quy định nghiêm ngặt nhất. Một số loài cá bị cấm nhập khẩu còn một số loài có tên trong Công ước về thương mại quốc tế trong việc buôn bán các loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng (CITES) phải nhập khẩu theo hạn ngạch. Những quy định này ảnh hưởng rất nhiều đến xuất khẩu của Việt Nam vì thủy hải sản là một mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam và Nhật Bản là một trong ba nhà nhập khẩu thủy hải sản lớn nhất của Việt Nam. e. Thị trường Braxin
Gần đây, các doanh nghiệp của Braxin đã lên tiếng cảnh báo về sự tham gia quá nhanh vào thị trường Braxin và khu vực Nam Mỹ của các quốc gia Châu Á, làm cho thị phần của Braxin giảm sút đáng kể. Năm 2008, Chính phủ Braxin đã thực hiện điều tra chống bán phá giá đối với nhiều nhóm, mặt hàng Trung Quốc. Hiện tại, Braxin áp thuế chống bán phá giá đối với nhiều mặt hàng của Trung Quốc và sẽ còn tiếp tục duy trì thêm 6 tháng nữa, trong đó có giày dép (mặt hàng gần như xuất khẩu chủ lực sang thị trường Braxin của Việt Nam). Do vậy, không loại trừ việc Braxin sẽ điều tra chống bán phá giá đối với hàng hoá Việt Nam nói chung (nhất là với sản phẩm giày dép). 1.4 Chính sách phát triển xuất khẩu của Việt Nam và các Hiệp định tự do thương
mại song phương và khu vực
1.4.1 Chính sách phát triển xuất khẩu của Việt Nam 2008-2009
Có thể nói chính sách phát triển xuất khẩu của Việt Nam trong 2 năm 2008‐ 2009 chịu ảnh hưởng của những định hướng chiến lược trong “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 5 năm 2006‐2010” (Bộ Thương mại 2006). Mục tiêu tổng quát của Đề án này là “phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô”. Cũng theo đề án 30 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
này, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân hàng năm sẽ đạt mức 16,5% một năm và đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt khoảng 70 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ bình quân sẽ đạt 16,3% một năm. Trong năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, tình hình sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn, mục tiêu tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất khẩu đã được điều chỉnh từ 18% xuống còn 13%. Với mục tiêu tăng 13%, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 cần đạt 71 tỷ USD. Trong năm 2009, nhóm hàng có lợi thế so sánh tương đối cao của Việt Nam hiện nay là nông‐lâm‐thuỷ sản cần đạt ít nhất là 16,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng hơn 2 tỷ USD so với năm 2008. Nhóm hàng công nghiệp chế biến, bộ phận đang đóng góp hơn 56% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, kim ngạch của nhóm này năm 2009 cần đạt ít nhất là 37,5 tỷ USD, tăng thêm 4,5 tỷ USD so với năm 2008. Trong khi đó, mặt hàng khoáng sản có kim ngạch lớn nhất lâu nay là dầu thô thì năm 2009 sẽ phải cắt giảm khối lượng xuất khẩu để dành phần đáng kể cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô năm 2009 có thể giảm gần 4 tỷ USD so với năm 2008. Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 5 năm 2006‐2010 cũng như các kế hoạch phát triển xuất khẩu các năm 2008, 2009 đều xác định, các thị trường chủ lực vẫn là thị trường Châu Á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông), Châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và châu Đại dương (Australia). Ngoài ra, tiếp tục khai thác, thâm nhập một số thị trường truyền thống hoặc thị trường mới như Nga, Trung Đông, Mỹ La tinh và Châu Phi. BẢNG 4. Cơ cấu thị trường xuất khẩu (%)
Thị trường
Cơ cấu năm 2008
Tăng kim ngạch bình
quân
2006 - 2010
Cơ cấu năm 2010
(Dự kiến)
Châu Á
44,5
14,1
45,5
ASEAN
16,2
12,0
11,5
Trung Quốc
7,2
14,5
10,7
Nhật Bản
13,6
9,2
12,4
Châu Âu
18,3
18,9
22,0
16
15,0
20,5
Châu Mỹ
20,6
19,4
24,0
Hoa Kỳ
18,9
19,0
23,1
Châu Phi
1,9
23,3
2,8
Châu Đại Dương
6,7
15,7
7,7
EU-25
Nguồn: Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 5 năm 2006-2010 và số liệu thống kê của Bộ Công Thương 2009
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 31
Các chủ thể tham gia xuất khẩu
Cùng với định hướng chung là tiếp tục thu hút sự tham gia mạnh mẽ đầu tư của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để nâng cao năng lực sản xuất và chuyển giao công nghệ cho các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu trong nước, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục nâng dần tỷ trọng đóng góp trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2006 ‐ 2010. Dự kiến, đến năm 2010 khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ đóng góp khoảng 67%, khu vực doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước đóng góp 33% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. BẢNG 5. Tỷ trọng xuất khẩu tính theo khu vực kinh tế
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Giai đoạn
2006-2010
Nội dung
KN
(triệu
USD)
Tỷ trọng
(%)
KN
(triệu
USD)
Tỷ
trọng
(%)
KN
(triệu
USD)
Tỷ
trọng
(%)
KN
(triệu
USD)
Tỷ
trọng
(%)
Tổng XK hàng hoá
52.254
100
60.148
100
69.298
100
264.497
100
Doanh nghiệp
100% vốn trong
nước
18.288
35,0
20.330
33,8
22.868
33,0
95.483
36,1
Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước
ngoài
33.966
65,0%
39.818
66,2
46.430
67,0
196.014
63,9
Nguồn: Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 5 năm 2006-2010.
Theo cách phân loại của Tổng cục Thống kê, chủ thể xuất khẩu của Việt Nam được chia thành hai nhóm, bao gồm khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Quan sát cho thấy, sau hơn 20 năm tiến hành Đổi mới, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đóng góp vai trò quan trọng vào hoạt động xuất khẩu của đất nước. Chính phủ cũng dành nhiều ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia xuất khẩu. Từ năm 1998, các doanh nghiệp FDI được xuất khẩu những hàng hoá không có trong giấy phép đầu tư. Những thay đổi trong đường lối chính sách đã góp phần làm tăng hiệu quả xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế những năm qua cho thấy tỷ lệ các doanh nghiệp có vốn đầu tư 32 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
nước ngoài tham gia xuất khẩu ngày càng nhiều 11. Năm 2004, tỷ lệ xuất khẩu trung bình trong các doanh nghiệp FDI ngành giày dép, may mặc và điện tử lần lượt là 98,9%, 82,2% và 68,5%. Đặc biệt từ năm 2004 đến nay, khu vực này đều đóng góp trên 50% kim ngạch xuất khẩu, trở thành một động lực chính cho tăng trưởng xuất khẩu nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung. Cụ thể, năm 2008, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 34,5 tỷ USD trong kim ngạch xuất khẩu, chiếm 55,1% (năm 2007: 57,2%; năm 2006 : 57,9%). Năm 2009, khu vực này tiếp tục đóng góp 29,9 USD cho kim ngạch xuất khẩu, chiếm 52,7%. Nghiên cứu từ số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, kể từ năm 2004 tới nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài liên tục xuất siêu, trong khi khu vực kinh tế trong nước liên tục nhập siêu. Cụ thể, năm 2008, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 6,63 tỷ USD, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 24,66 tỷ USD. Năm 2009, nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước đã xấp xỉ 10,73 tỷ USD, trong khi khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục xuất siêu 5,03 tỷ USD. 1.4.2 Các hiệp định tự do thương mại song phương và khu vực
Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới, thể hiện thông qua việc Việt Nam gia nhập nhiều tổ chức thương mại song phương và đa phương, đã và đang đàm phán nhiều hiệp định thương mại, kể cả hiệp định thương mại tự do. Năm 2007 là năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một mốc quan trọng đánh dấu tiến trình mở cửa và hội nhập. Sau khi gia nhập WTO, đặc biệt là trong năm 2008 và 2009, Việt Nam tích cực đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập và tự do hóa thương mại, thể hiện qua việc đàm phán, ký kết, phê chuẩn một loạt các hiệp định trong và ngoài khối ASEAN. Trong năm 2008, với tư cách là một thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã cùng các nước thành viên khác hoàn thành đàm phán để ký kết các thoả thuận hợp tác trong nội bộ khối ASEAN. Các Hiệp định trong nội bộ khối này (Hộp 1) đã được các nước ASEAN bắt đầu ký kết từ tháng 12/2008 và sẽ thực sự có hiệu lực khi tất cả các nước ASEAN đã ký kết và hoàn tất thủ tục phê duyệt trong nước. 11
Nghiên cứu của Giáo sư Trần Văn Thọ, Đại học Waseda –Tokyo 2004 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 33
Hộp 1. Các Hiệp định nội bộ khối ASEAN mà Việt Nam tham gia trong năm 2008
- Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) thay thế Hiệp định CEPT/AFTA (1992) và dự kiến có
hiệu lực vào cuối năm 2009;
- Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) thay thế cho Hiệp định khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và Hiệp
định về xúc tiến và bảo hộ đầu tư ASEAN.
- Gói cam kết thứ 7 trong khuôn khổ Hiệp định khung của ASEAN về dịch vụ (AFAS).
- Một số thoả thuận hợp tác, công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực y tế, xây dựng. Cũng trong năm 2008, các cuộc đàm phán hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các đối tác ngoài khối đã được triển khai. Cụ thể là ASEAN đã hoàn thành đàm phán để ký kết 3 hiệp định lớn với 4 đối tác quan trọng là Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Niu Dilân. Đây là những Hiệp định FTA toàn diện, trọn gói với nội dung rộng và phức tạp, điều chỉnh nhiều lĩnh vực như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, hải quan, sở hữu trí tuệ… Đặc biệt, sang năm 2009, Australia, Niu Dilân và Ấn Độ đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Đây cũng là một thành công lớn trong hoạt động kinh tế đối ngoại năm 2008. Ngoài ra, ASEAN cũng đã kết thúc đàm phán Hiệp định đầu tư ASEAN ‐ Trung Quốc và Hiệp định đầu tư ASEAN – Hàn Quốc. Hộp 2. Các hiệp định Thương mại tự do ASEAN ký với các đối tác trong năm 2008
- Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) (ký kết ngày 1/4/2008 và có hiệu lực
từ 1/12/2008)
- Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN với Australia và Niu Dilân (AANZFTA);
- Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN- Ấn Độ (AIFTA); Năm 2008, Việt Nam cũng đã hoàn tất đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam ‐ Nhật Bản sau gần 2 năm đàm phán, hoàn tất chuỗi cung ứng giá trị giữa Việt Nam, Nhật Bản và các nước ASEAN khác. Theo đó, Nhật Bản mở cửa thị trường nông sản cho Việt Nam ở mức cao so với các nước ASEAN khác. Trong hoàn cảnh xuất khẩu đang gặp khó khăn, việc có được Hiệp định FTA với Nhật Bản là một nỗ lực lớn, không những mở ra cơ hội mới cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, mà còn bảo đảm cho hàng xuất khẩu Việt Nam không bị kém cạnh tranh so với các nước đã có FTA song phương với Nhật Bản như Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Phillipines. 34 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
1.5 Đánh giá xu hướng hàng hóa xuất khẩu
Như đã đề cập ở phần trên, nguyên nhân trực tiếp làm suy giảm xuất khẩu trong năm 2009 là do nhu cầu thế giới giảm. Một nguyên nhân nữa là giá nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm mạnh trong năm 2009. Nền kinh tế Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới với tư cách một nước có trình độ công nghệ chưa phát triển, bởi vậy, hàng xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là gạo, chè, cà phê, giày da, dầu thô… Cầu về những mặt hàng này thường ít co giãn, nên doanh thu bán hàng thường biến động cùng chiều theo giá. Giá hàng hóa Việt Nam trong năm 2009 giảm có thể giải thích bởi một số nguyên nhân sau: - Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến nhiều nước lâm vào suy thoái kinh tế, nhiều người lâm vào cảnh thất nghiệp, thu nhập của các hộ gia đình bị giảm sút. Bởi vậy, khả năng chi trả và sự sẵn lòng chi trả của người dân các nước nhập khẩu hàng Việt Nam cũng bị giảm theo, khiến cho giá hàng Việt Nam thấp hơn dự kiến. - Những mặt hàng nông sản của Việt Nam thường có chất lượng kém đồng đều và thấp hơn so với các nước khác trên thế giới, do việc sử dụng nhiều thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, kéo theo giá hàng hóa bị giảm xuống thấp hơn so với giá trên thị trường thế giới. Ví dụ, chè Việt Nam chỉ bán được với giá 1.100 USD/ tấn, trong khi giá chè nguyên liệu thô bình quân trên thế giới là 2.200 USD/tấn ). - Hiện nay Việt Nam vẫn còn ở nấc thang công nghệ thấp so với khu vực và thế giới, do vậy các mặt hàng chủ lực vẫn chỉ là những mặt hàng nông sản và những mặt hàng thô, chưa qua chế biến. Những mặt hàng này chịu sự ảnh hưởng của hiện tượng “giá cánh kéo” nên trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, khi mức giá chung trên thị trường thế giới suy giảm, giá hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề. Bởi vậy, mặc dù xuất khẩu nhiều mặt hàng tăng nếu xét về lượng xuất khẩu (gạo tăng 34,1%, cà phê tăng 14,4%, hạt điều tăng 6,0%), tuy nhiên do thực tế giá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu vẫn sụt giảm (trị giá gạo xuất khẩu bằng 92,2% cùng kỳ năm 2008, cà phê: 80,3%; hạt điều: 86,9%). Như vậy, việc không đạt chỉ tiêu tăng trưởng một phần do những lý do khách quan đem lại nhưng một phần do những nguyên nhân chủ quan từ nội tại nền kinh tế Việt Nam. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải nâng cao trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm, cũng như đưa ra những biện pháp Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 35
nhằm chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu để có thể phân tán rủi ro trong trường hợp giá xuất khẩu giảm như hiện nay. Xuất khẩu không bị ảnh hưởng lớn so với xuất khẩu của các nước khác là do duy trì mức giá thấp. Điều này chỉ có ý nghĩa nhất thời trong giai đoạn khủng hoảng ngắn hạn. Khi khủng hoảng kéo dài hoặc phục hồi thì việc duy trì xuất khẩu như hiện nay sẽ ngày càng giảm dần và đe dọa sự phát triển bền vững của toàn xã hội. 1.6 Đánh giá xu hướng thị trường xuất khẩu
1.6.1 Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam vào một số thị trường chính
(sử dụng mô hình trọng lực)
Nhằm mục đích đánh giá kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào, nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình trọng lực12. Mô hình này đánh giá các nhân tố có thể ảnh hưởng như thế nào tới luồng xuất khẩu giữa hai nước đối tác. Các nhân tố có thể ảnh hưởng tới luồng xuất khẩu bao gồm: quy mô thị trường (dân số của hai nước đối tác), quy mô kinh tế (GDP của hai nước đối tác) và khoảng cách địa lý giữa hai nước (khái niệm tương ứng khoảng cách giữa hai vật thể, khoảng cách này càng xa thì lực hấp dẫn càng yếu và ngược lại). Ngoài ra, mô hình nghiên cứu này tính đến cả những tác động của hiệp định thương mại hoặc những ưu đãi thương mại và đường biên giới giữa Việt Nam và các nước đối tác. Mô hình sử dụng số liệu về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với 8 nước và khu vực kinh tế như: Hoa Kỳ, EU, ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Australia trong các năm từ 1995 tới 2008 (14 năm). Cách thức chọn số liệu: nguồn số liệu được sử dụng trong báo cáo này được lấy từ thống kê của các tổ chức quốc tế như: Qũy tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) như sau : • Thu nhập bình quân đầu người được sử dụng là thu nhập danh nghĩa do thu nhập thực tế của các nước được cung cấp tại IMF sử dụng mức giá gốc theo các năm không đồng nhất. Số liệu về thu nhập bình quân đầu người được thu thập theo các năm từ năm 1995 tới năm 2008. • Khoảng cách địa lý được sử dụng là khoảng cách địa lý đã có tính đến quy mô dân số, ý tưởng thực hiện là tính khoảng cách từ hai thành phố có dân số lớn nhất của hai nước. 12
Mô hình trọng lưc được giới thiệu lần đầu tiên bởi Tinbergen (1962) và Linnemann (1966) 36 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Như vậy, mô hình này xuất hiện 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến luồng xuất khẩu từ Việt Nam tới nước đối tác: • Nhóm yếu tố ảnh hưởng tới cung bao gồm GDP của nước xuất khẩu. Chỉ số này được dự đoán là sẽ có giá trị dương, thể hiện mối quan hệ cùng chiều của GDP nước xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. • Nhóm yếu tố ảnh hưởng tới cầu bao gồm GDP và dân số nước nhập khẩu. GDP của nước nhập khẩu tăng thể hiện khả năng sản xuất của quốc gia đó tăng và ảnh hưởng của điều này tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ có thể diễn ra theo hai chiều hướng. Một là, GDP nước nhập khẩu tăng gây khó khăn cho việc xâm nhập của hàng hóa Việt Nam do hàng hóa Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn với hàng hóa sản xuất tại nước nhập khẩu. Hai là, GDP của nước nhập khẩu tăng thể hiện khả năng chi trả của người dân nước nhập khẩu tăng và với hàng hóa thông thường thì điều này thể hiện cầu thị trường nhập khẩu sẽ tăng và đó là tín hiệu đáng mừng cho xuất khẩu của Việt Nam. Dân số của nước nhập khẩu thể hiện quy mô của thị trường, dự báo sẽ có mối liên hệ thuận chiều tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. • Nhóm yếu tố hấp dẫn hay cản trở bao gồm chính sách thương mại của Việt Nam, cụ thể trong mô hình này là việc Việt Nam có hiệp định thương mại song phương với nước đối tác hay không. Nhân tố này được dự đoán là có tác động cùng chiều tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, nhân tố về khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia, ảnh hưởng tới cước phí vận chuyển giữa hai quốc gia (thường khó thay đổi) sẽ là một hạn chế cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tới nước đối tác, dự đoán chỉ số có liên quan tới khoảng cách địa lý sẽ có giá trị âm. Kết quả phân tích
Chỉ số R2 đạt ở mức 92,47% thể hiện tính chính xác của mô hình trọng lượng trong giải thích về quan hệ thương mại song phương giữa hai nước đối tác (cụ thể là kết quả phân tích phản ánh sát tới 92,47% so với thực tế), ngay cả chỉ số R2 được điều chỉnh, có tính đến ảnh hưởng xấu của việc đưa nhiều biến vào mô hình cũng đạt được mức rất cao là 90,86%. Như vậy, mô hình cho kết quả có tính chất thống kê vì nó phản ánh được khoảng hơn 90% thực tế biến động về kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 14 năm (1995‐2008). Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 37
Hơn nữa, tất cả các chỉ số liên quan tới các biến giải thích đều có tính chất thống kê ở mức trên 99%13. Kết quả phân tích khẳng định vai trò quan trọng của GDP của Việt Nam cũng như GDP của các nước đối tác đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. GDP của cả Việt Nam và nước đối tác đều có ảnh hưởng cùng chiều tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và các chỉ số này có tính chất thống kê. Hơn nữa chỉ số này là tương đối lớn vì nếu tính GDP của Việt Nam và nước đối tác tăng 1% thì kim ngạch xuất khẩu tăng 1,2%. Điều này có thể lý giải về phía cung, GDP Việt Nam tăng lên thì tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong lãnh thổ nước xuất khẩu tăng lên. Về phía cầu, quy mô kinh tế của nước nhập khẩu (GDP nước đối tác) thể hiện khả năng chi trả của thị trường cũng như loại hàng hóa mà thị trường đó mong muốn sử dụng, do đó nó cũng có tác động lớn tới kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Nhóm yếu tố hấp dẫn hay cản trở được quan tâm trong mô hình này bao gồm khoảng cách địa lý giữa Việt Nam với nước đối tác, việc Việt Nam có hiệp định thương mại song phương và có chung đường biên giới với các nước đối tác hay không… có kết quả phù hợp với kết quả dự đoán. Chỉ số về việc Việt Nam có hiệp định thương mại với nước đối tác cũng như chỉ số về việc Việt Nam có chung đường biên giới với nước và khu vực đối tác cũng có ảnh hưởng cùng chiều tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hiệp định thương mại song phương hay các ưu đãi trong nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam là một nhân tố đặc biệt quan trọng vì nó cũng thể hiện chi phí của quá trình xuất khẩu. Biến giả về việc Việt Nam có chung đường biên giới với nước đối tác cũng có ảnh hưởng lớn tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Mô hình cũng cho kết quả trái chiều giữa khoảng cách địa lý giữa hai nước và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một chỉ số phù hợp với dự đoán vì khoảng cách địa lý thể hiện chi phí vận chuyển của hàng hóa. Một điều đặc biệt chúng ta nhận thấy ở đây là ảnh hưởng trái chiều của quy mô dân số (dân số nước đối tác đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). Đây là một chỉ số có thể nói là trái ngược với dự đoán và logic thông thường bởi dân số tỷ lệ thuận với quy mô thị trường (tổng cầu thị trường, dân số tăng dẫn tới tổng cầu lớn hơn và dự báo về quan hệ cùng chiều tới kim ngạch xuất khẩu). Kết quả này có thể được lý giải dưới góc độ khả năng cung ứng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn hạn chế và chưa tận dụng được cơ hội mà sự tăng về tổng cầu ở nước đối tác mang lại. 13
Kết quả của mô hình trọng lực và hộp số giải thích về mô hình trọng lực được trình bày trong Phụ lục 1 38 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
1.6.2 So sánh giữa tiềm năng và thực tế xuất khẩu của Việt Nam với từng
thị trường
Chỉ số Tập trung thương mại (Trade Intensity) được tính toán bằng tỉ số giữa thị phần xuất khẩu (export share) của nước xuất khẩu (the source region) tới nước nhập khẩu (the destination) và thị phần xuất khẩu của cả thế giới tới nước nhập khẩu. Tij = (xij/Xit)/(xwj/Xwt) Trong đó xij và xwj là xuất khẩu của nước i và của toàn thế giới đến nước j; Xit và Xwt là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước j và của toàn thế giới. Chỉ số này được sử dụng để xác định liệu nước xuất khẩu i có xuất khẩu nhiều vào nước nhập khẩu j hơn mức xuất khẩu trung bình của thế giới vào nước nhập khẩu j hay không. Các giá trị của Trade Intensity sẽ nằm trong khoảng (0; +∞). Giá trị này lớn hơn 1 sẽ cho thấy xuất khẩu của nước i tới nước j lớn hơn mức xuất khẩu trung bình của toàn thế giới vào nước j. BẢNG 6. Chỉ số Tập trung thương mại (Trade Inte nsity) giữa Việt Nam và các đối tác thương mại
chính trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (Đơn vị tính: lần)
Nước
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Trung Quốc
2,52
2,08
1,8
1,97
1,7
1,7
1,34
Ấn Độ
0,39
0,47
0,21
0,38
0,28
0,29
0,24
Nhật Bản
3,11
3,18
3,31
3,34
3,17
2,89
2,89
Hàn Quốc
1,39
1,42
1,22
1,13
0,96
0,95
1,31
Hoa Kỳ
0,35
0,84
1,21
1,25
1,1
1,3
1,62
Nguồn: United Nation-Economic and Social Commission for Asia and the Pacific (ESCAP)
http://www.unescap.org/tid/aptiad/index_trdi1_fm.aspx)
Theo tính toán của Liên hiệp quốc, xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc cao hơn xuất khẩu của toàn thế giới vào nước này. Tuy nhiên, chỉ số này giảm từ khoảng 2 lần xuống tới 1,34 lần năm 2007, cho thấy mức độ tập trung thương mại của Việt Nam vào Trung Quốc có xu hướng giảm, chỉ cao hơn một chút so với mức chung của cả thế giới vào nước này. Xuất khẩu của Việt Nam vào Ấn Độ thấp hơn mức xuất khẩu trung bình của toàn thế giới vào nước này. Cụ thể, chỉ số Tập trung thương mại (Trade Intensity) của Việt Nam ‐ Ấn Độ trong những năm gần đây chỉ đạt khoảng 0,3 < 1. Con số Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 39
này cho thấy xuất khẩu của nước ta vào thị trường Ấn Độ chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Điểm yếu hiện tại này cũng chính là cơ hội để Việt Nam có những sự quan tâm thích đáng đến thị trường này, nâng cao kim ngạch cũng như giá trị xuất khẩu khi hiện nay Ấn Độ được đánh giá là một nước có nội lực để phát triển mạnh về kinh tế trong tương lai gần. Xuất khẩu của nước ta vào Nhật Bản được đánh giá là cao gấp khoảng 3 lần mức xuất khẩu trung bình của toàn thế giới vào thị trường này. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam tính theo mức độ tập trung thương mại. Đây là tín hiệu đáng mừng trong thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chỉ số này có xu hướng giảm nhẹ. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, xuất khẩu của nước ta vào Hàn Quốc qua các năm nhìn chung đạt mức cao hơn trung bình của thế giới, gấp khoảng 1,2 đến 1,4 lần. Tuy nhiên, chỉ số này còn chưa ổn định, có những giai đoạn xuống thấp hơn mức trung bình của toàn thế giới (giai đoạn 2005‐2006). Hoa Kỳ, một trong những đối tác thương mại chiến lược của Việt Nam, có chỉ số Tập trung thương mại tăng dần qua các năm. Dưới ảnh hưởng của tự do hóa thương mại, cụ thể là các cam kết thương mại mà nổi bật nhất là Hiệp định Thương mại Việt Nam– Hoa Kỳ, xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này kể từ năm 2003 đã tăng lên đáng kể về mặt tỉ trọng so với tỉ trọng trung bình của toàn thế giới. Tính đến hết năm 2007, con số này đã gấp 1,62 lần so với mức trung bình của thế giới. Tóm lại, chỉ số Tập trung thương mại giữa Việt Nam và các đối tác thương mại lớn cho thấy xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này, ngoại trừ thị trường Ấn Độ, là cao hơn trung bình thế giới, trong đó đáng chú ý là thị trường Nhật Bản với chỉ số Tập trung thương mại cao nhất, thị trường Hoa Kỳ với những bước tiến đáng mừng trong quan hệ thương mại. Thị trường Ấn Độ hiện đang còn bỏ ngỏ, cần thiết phải có các sách lược phù hợp để đưa xuất khẩu vào thị trường này tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của nước ta. Trong bối cảnh xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, một vấn đề cần đặt ra là có những đánh giá về xu hướng các thị trường xuất khẩu trong những năm tiếp theo. Đó là phải định hướng lại thị trường xuất khẩu, một phần hướng tới những thị trường không bị hoặc ít bị tác động của khủng hoảng kinh tế. Trong những năm tới, Hoa Kỳ, EU, Nhật, ASEAN vẫn sẽ là những thị trường chính của Việt Nam, nhưng một nét đặc biệt trong xu hướng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây là tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường mới (Châu Mỹ Latinh, 40 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Châu Phi, Trung cận đông) đã tăng lên một cách đáng kể (Xem biểu đồ 3). Trong số các thị trường xuất khẩu hiện tại của Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, Trung Quốc đã có sự phục hồi trở lại. Ngoài ra, có thể sang năm 2010, nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ phục hồi trở lại, sau đó sẽ đến các thị trường khác như Châu Âu, Nhật Bản. Một khi các thị trường này phục hồi thì giá cả hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ không còn thấp như trong thời kỳ khủng hoảng. Với khối lượng xuất khẩu như hiện nay, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam chắc chắn sẽ tăng trở lại. BIỂU ĐỒ 3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu củ a Việt Nam (Tỷ trọng xuất khẩu ngoài dầu thô)
Thị trường
khác
Nguồn: tổng cục Thống kê
2. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU VÀ CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
Năng lực cung ứng cho thị trường thế giới của doanh nghiệp Việt Nam được hiểu theo 2 góc độ, năng lực cạnh tranh quốc tế và năng lực xuất khẩu. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh khi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành hay đối thủ cạnh tranh. Như vậy, có thể hiểu năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp chính là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở thị trường nước ngoài, là khả năng bán được sản phẩm trên thị trường quốc tế và thu được Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 41
lợi nhuận trong khi vẫn đối mặt với cạnh tranh quốc tế. Năng lực xuất khẩu được hiểu là một mục tiêu kinh doanh hay mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh hướng tới tăng trưởng mặt hàng, kim ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường14. Việc phân biệt rõ ràng giữa năng lực xuất khẩu và năng lực cạnh tranh quốc tế là rất khó khăn vì hai khái niệm này có sự đan xen nhau về nội hàm. Có thể hiểu năng lực cạnh tranh là điều kiện cần để có năng lực xuất khẩu. Vì vậy, để đo năng lực cung ứng của các doanh nghiệp Việt Nam, nhóm chuyên gia sử dụng hai bộ chỉ số cơ bản là chỉ số định tính và chỉ số định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc tế và năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam dựa trên kết quả của hai cuộc khảo sát doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê và Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương tiến hành gần đây. 2.1 Năng lực sản xuất xuất khẩu (border-in)
Về chỉ tiêu định tính: Có bốn nhóm chỉ tiêu có ảnh hưởng lớn đến khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp, bao gồm: chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư cho công nghệ, phát triển sản phẩm mới và chất lượng công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại. Về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, khảo sát của Tổng cục Thống kê (2008) cho thấy, giữa tỷ lệ xuất khẩu và quy mô lao động của doanh nghiệp có mối quan hệ nhất định. Quy mô lao động bình quân của nhóm xuất khẩu thấp và trung bình là 72‐76 lao động, thấp hơn nhiều so với quy mô lao động của nhóm xuất khẩu cao và xuất khẩu hoàn toàn là 112‐116 lao động. Cũng theo khảo sát này, tuyệt đại đa số lãnh đạo doanh nghiệp (89%) có trình độ đại học và trên đại học. Trình độ lãnh đạo không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm xuất khẩu, các ngành nghề và quy mô doanh nghiệp. Tính trung bình, mỗi doanh nghiệp có 7 cán bộ quản lý, chiếm 14% số lượng lao động của doanh nghiệp. Số lượng và tỷ lệ cán bộ quản lý phụ thuộc nhiều vào quy mô lao động. Tỷ lệ cán bộ quản lý trong tổng lao động của nhóm xuất khẩu thấp và trung bình là 15‐17%, cao hơn so với nhóm xuất khẩu cao và hoàn toàn (13%). Như vậy, yếu tố quy mô lao động doanh nghiệp quyết định số lượng và tỷ lệ cán bộ quản lý của doanh nghiệp hơn là các yếu tố khác. Tương tự như cán bộ quản lý, tính trung bình số lượng cán bộ kỹ thuật là 7 người, chiếm 14% tổng số lao động của doanh nghiệp. Số lượng và tỷ trọng cán Bùi Ngọc Sơn (2009), Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông 14
42 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
bộ kỹ thuật phụ thuộc nhiều vào quy mô lao động của doanh nghiệp. Tỷ lệ cán bộ kỹ thuật trong lực lượng lao động của nhóm xuất khẩu thấp và trung bình là 19% cao hơn so với nhóm xuất khẩu cao và hoàn toàn là 8‐9%. Có thể thấy, tương tự như trường hợp cán bộ quản lý, số lượng và quy mô cán bộ kỹ thuật phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp hơn là các yếu tố khác. Như vậy, có thể thấy, trình độ đội ngũ lãnh đạo và số lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật là một lợi thế tạo nên năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp được khảo sát. Khi đội ngũ lãnh đạo có trình độ cao, số lượng cán bộ kỹ thuật được đào tạo bài bản nhiều, doanh nghiệp có đủ năng lực để tiếp cận công nghệ mới, từ đó đầu tư cho công nghệ và sản phẩm mới dễ dàng hơn. Trong chỉ tiêu đầu tư cho công nghệ, tính trung bình, tỷ trọng vốn đầu tư trang thiết bị so với doanh thu của các doanh nghiệp trong khảo sát của Tổng cục Thống kê là 8%. Tỷ lệ này đối với nhóm xuất khẩu thấp hoặc trung bình là 12‐15%, cao hơn nhóm xuất khẩu cao và hoàn toàn 5‐6%. Chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) trong doanh thu của các doanh nghiệp là 8,4%. Ngoại trừ nhóm xuất khẩu cao có tỷ lệ chi nghiên cứu và phát triển khá thấp là 5,4%, các nhóm xuất khẩu còn lại có tỷ lệ chi nghiên cứu và phát triển trong khoảng 9‐11%. Công nghệ áp dụng trong sản xuất chủ yếu là công nghệ trong nước (48%). Công nghệ Nhật Bản là công nghệ nước ngoài được nhiều doanh nghiệp sử dụng nhất (26%), tiếp theo là công nghệ từ Châu Âu (16%) và công nghệ từ Hoa Kỳ (8%). Tầm quan trọng tương đối của các công nghệ nêu trên là phổ biến giữa các nhóm xuất khẩu khác nhau. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ trong nước không có sự chênh lệch đáng kể giữa các ngành nông, thủy sản, may mặc, giày dép, đồ gỗ (49‐58%)15. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tương đối chú trọng đến việc đầu tư cho công nghệ mới và R&D. Về chỉ tiêu phát triển sản phẩm và xây dựng thương hiệu: Khoảng 35% doanh nghiệp trong khảo sát đã phát triển sản phẩm mới. Tỷ lệ phát triển sản phẩm mới khác nhau giữa các doanh nghiệp có quy mô và trong các ngành khác nhau. Đối với doanh nghiệp nhỏ, tỷ lệ này trong khoảng 16‐27%, trong khi đối với doanh nghiệp vừa và lớn, tỷ lệ này khá cao, 42‐43%. Tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới sản phẩm tương đối cao (42‐58%) trong các ngành nông, thủy sản, điện tử và đồ gỗ và thấp (15‐25%) trong các ngành may mặc, giày dép và phần mềm máy tính. Như vậy, tiềm lực của doanh nghiệp và tính chất sản xuất kinh doanh có tác động đáng kể tới việc doanh nghiệp tiến hành đổi mới sản phẩm. Đỗ Trọng Khanh (2008), Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa của Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế và Tài chính lần 7, 26‐27/02/2008 15
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 43
Một bộ phận doanh nghiệp thực hiện các chính sách chất lượng như chứng chỉ ISO, nhãn chất lượng và nhãn hiệu dùng chung. Chính sách nhãn hiệu dùng chung được nhiều doanh nghiệp vận dụng nhất, trung bình khoảng 33%. Tỷ lệ khá lớn doanh nghiệp xuất khẩu thấp hoặc trung bình (42‐44%) thực hiện chính sách nhãn hiệu, trong khi tỷ lệ này thấp hơn nhiều đối với nhóm doanh nghiệp xuất khẩu cao (35‐33%). Chính sách nhãn chất lượng chỉ được khoảng 11% doanh nghiệp áp dụng. Như vậy, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự quan tâm tới những chính sách quan trọng đảm bảo chất lượng sản phẩm. Có khoảng 44% doanh nghiệp sử dụng trang web để giới thiệu sản phẩm của mình và 85% trong số đó có dịch ra tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc sử dụng trang web và kim ngạch xuất khẩu không có mối quan hệ rõ ràng. Có tới 65% doanh nghiệp xuất khẩu thấp sử dụng trang web, trong khi tỷ lệ này đối với doanh nghiệp xuất khẩu trung bình 42%, xuất khẩu cao 45% và xuất khẩu hoàn toàn 35%. Có thể thấy, một bộ phận đáng kể doanh nghiệp đã xây dựng được trang web để quảng bá sản phẩm. Khoảng 27% doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu. Tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu trong nhóm xuất khẩu trung bình và cao (32%) là cao hơn so với nhóm xuất khẩu thấp (28%) và xuất khẩu hoàn toàn (19%). Việc đăng ký nhãn hiệu khá nhau rõ nét giữa các nhóm quy mô khác nhau. Khoảng 20% doanh nghiệp vi mô và doanh nghiệp nhỏ đăng ký nhãn hiệu, trong khi tỷ lệ ngày đối với các doanh nghiệp vừa và lớn là 29‐32%16 . 2.2 Năng lực tiếp cận thị trường thế giới (border-out)
Về phương pháp định lượng, một trong những chỉ số được sử dụng phổ biến để đo lường năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp là tỷ lệ xuất khẩu trên doanh thu (gọi tắt là tỷ lệ xuất khẩu). Để phân tích năng lực xuất khẩu, người ta thường chia các doanh nghiệp được khảo sát thành bốn nhóm xuất khẩu theo tỷ lệ xuất khẩu trung bình tính trên doanh thu trong 3 năm gần nhất: Nhóm xuất khẩu thấp (tỷ lệ xuất khẩu dưới 50%), Nhóm xuất khẩu trung bình (tỷ lệ xuất khẩu từ 50% đến 80%), Nhóm xuất khẩu cao (tỷ lệ xuất khẩu từ 80% đến dưới 100%) và Nhóm xuất khẩu hoàn toàn (tỷ lệ xuất khẩu 100%). Cuộc khảo sát 500 doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong mẫu khảo sát, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc Nhóm xuất khẩu cao (90 doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ 36% doanh nghiệp trong mẫu khảo sát) và Nhóm xuất khẩu hoàn toàn (87 doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ 34%) hơn là Nhóm Đỗ Trọng Khanh (2008), Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa của Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế và Tài chính lần 7, 26‐27/02/2008 16
44 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
xuất khẩu trung bình (43 doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ 17%) và Nhóm xuất khẩu thấp (32 doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ 13%). Như vậy, đại đa số các doanh nghiệp khảo sát (70%) có tỷ lệ xuất khẩu trên 80% và do vậy, các doanh nghiệp thuộc diện khảo sát được đánh giá là có năng lực xuất khẩu. Ngoài tỷ lệ xuất khẩu, một tiêu chí khác có thể phản ánh năng lực xuất khẩu là khoảng thời gian từ khi doanh nghiệp được thành lập tới khi doanh nghiệp bắt đầu xuất khẩu. Khoảng thời gian này càng ngắn có nghĩa là thời gian doanh nghiệp có thể tiếp cận đến thị trường xuất khẩu càng nhanh. Khả năng tiếp cận nhanh chóng thị trường xuất khẩu là một khía cạnh thể hiện năng lực xuất khẩu cao. 48% các doanh nghiệp khảo sát đã xuất khẩu ngay năm đầu đi vào hoạt động, 34% xuất khẩu một năm sau khi thành lập. Tỷ lệ doanh nghiệp cần trên hai năm chuẩn bị mới có thể bắt đầu xuất khẩu là khá thấp, khoảng 9% doanh nghiệp khảo sát. Tương tự như đối với tiêu chí tỷ lệ xuất khẩu, đại đa số doanh nghiệp khảo sát (82%) chỉ mất tối đa một năm là có thể bắt đầu xuất khẩu và do vậy có năng lực xuất khẩu cao. Về hoạt động xúc tiến thương mại: Các doanh nghiệp sử dụng các hình thức khác nhau để tìm hiểu và xúc tiến hoạt động xuất khẩu. Các biện pháp được sử dụng phổ biến là nghiên cứu thị trường, sử dụng quan hệ cá nhân và tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước. Ngoài ra, một số doanh nghiệp còn sử dụng các hình thức khác như: qua sự giới thiệu của bạn hàng, khách hàng, thuê dịch vụ, quảng cáo trực tiếp tới các doanh nghiệp trong và ngoài nước, tìm khách hàng và trực tiếp giới thiệu, sử dụng web hoặc thư điện tử. Đại đa số doanh nghiệp sử dụng nghiên cứu thị trường (75%) và quan hệ cá nhân, gia đình (65%) để thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại. Tham gia các hội chợ, triển lãm là cách thức được một bộ phận đáng kể doanh nghiệp sử dụng. Khoảng 49% doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm trong nước để xúc tiến thương mại, trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp tham gia hội chợ và triển lãm ở nước ngoài thấp hơn, 36%. Có thể thấy, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm trong nước luôn cao hơn so với hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Các doanh nghiệp nhỏ ít có khả năng tham dự các hội chợ, triển lãm trong nước cũng như nước ngoài so với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Hơn nữa, khả năng tham dự hội chợ, triển lãm nước ngoài phụ thuộc nhiều vào quy mô của doanh nghiệp. Ví dụ, tỷ lệ doanh nghiệp xúc tiến thương mại thông qua hội chợ, triển lãm là 41% đối với doanh nghiệp vừa, giảm xuống 29% với doanh nghiệp nhỏ và chỉ còn 14% với doanh nghiệp vi mô. Ngoài xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp sử dụng nhiều kênh khác nhau để phân phối sản phẩm của mình trên thị trường xuất khẩu. Phân phối trực tiếp hoặc qua bên đặt hàng là các kênh phân phối sản phẩm phổ biến được các doanh nghiệp sử dụng khi Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 45
xuất khẩu với 40‐42% doanh nghiệp sử dụng từng kênh này. Chỉ có một tỷ lệ không lớn, 27% doanh nghiệp phân phối sản phẩm qua hệ thống đại lý.17 BIỂU ĐỒ 4. Thời gian tiếp cận thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
Nguồn: Đỗ Trọng Khanh (2008), Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa của Việt Nam,
Diễn đàn Kinh tế và Tài chính lần 7, 26-27/02/2008
Như vậy, có thể thấy, một trong những tồn tại lớn nhất trong năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp chính là phương pháp phân phối sản phẩm. Gần 50% số doanh nghiệp được khảo sát vẫn sử dụng kênh phân phối truyền thống là bán hàng trực tiếp. Để nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp, việc cải tiến kênh phân phối và phương pháp phân phối có lẽ là một trong những việc đầu tiên cần làm. Với những chỉ tiêu định tính, định lượng như đã phân tích ở trên, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam được đánh giá như thế nào trên thị trường quốc tế? Cuộc khảo sát ý kiến của các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài do Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương thực hiện cho thấy, hầu hết các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài đều có chung quan điểm về năng lực cạnh tranh của hàng hóa, doanh nghiệp Việt Nam. Trong thang điểm cao nhất là 10, các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài đã đánh giá về năng lực cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam ở nước sở tại như sau: Đỗ Trọng Khanh (2008), Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa của Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế và Tài chính lần 7, 26‐27/02/2008 17
46 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
- Về chất lượng: Hàng hóa Việt Nam hầu hết có chất lượng trung bình, không có yếu tố nổi trội so với đối thủ cạnh tranh, được đánh giá từ 6‐7 điểm. Nhiều cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài cho rằng, chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam còn chưa ổn định, mẫu mã chưa phong phú, đa dạng. - Về giá cả: Là ưu điểm nội trội của hàng xuất khẩu Việt Nam khi hàng Việt Nam bán giá rẻ hơn hẳn so với đối thủ cạnh tranh dù chất lượng ngang nhau. Cá biệt, có mặt hàng giày dép Việt Nam rẻ hơn Đức, Đan Mạch, Italia từ 2‐8 lần, tuy nhiên vẫn cao hơn Trung Quốc. Hầu hết các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài đều chấm điểm 8‐9 cho tiêu chí này. - Về khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ và dịch vụ sau bán hàng: doanh nghiệp Việt Nam bị đánh giá chưa tốt. Tiêu chí này chỉ được các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài chấm trung bình từ 1‐3 điểm, mức điểm thấp nhất. Ngoài ra, khả năng thích ứng thay đổi chưa cao cũng là một tiêu chí bị chấm điểm kém, chỉ từ 2‐4 điểm. - Về năng lực tiếp thị xuất khẩu và tìm kiếm thông tin: Hầu hết các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam đều cho điểm cao ở tiêu chí này, từ 7‐9 điểm, cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã rất năng động và tích cực trong việc mở rộng thị trường, mở rộng đối tác xuất khẩu. Tuy nhiên, năng lực ngoại ngữ của cán bộ nghiệp vụ là điểm cần lưu ý khi ở những thị trường không nói tiếng Anh, trình độ ngoại ngữ của cán bộ nghiệp vụ chỉ được đánh giá 5 điểm. Ngoài ra, tính chuyên nghiệp trong kế hoạch tiếp thị của các doanh nghiệp đều không được các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài đánh giá cao. Nhiều cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài chỉ chấm điểm 2/10 cho tiêu chí này của các doanh nghiệp Việt Nam18. - Nói tóm lại, khả năng cung ứng của doanh nghiệp Việt Nam được hỗ trợ bởi các nhân tố: doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu cao (tỷ lệ xuất khẩu trên doanh thu cao, thời gian từ khi thành lập đến khi xuất khẩu ngắn); trình độ nguồn nhân lực cao; tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư cho công nghệ, phát triển sản phẩm mới, R&D và xây dựng thương hiệu cao; chất lượng sản phẩm được thị trường chấp nhận; giá cả có ưu thế vươt trội hơn đối Cục XTTM (2009), Kết quả cuộc khảo sát ý kiến của các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài tháng 11/ 2009 18
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 47
thủ cạnh tranh; năng động trong xúc tiến xuất khẩu và tìm kiếm thông tin… Tuy nhiên, các nhân tố cản trở khả năng cung ứng của Việt Nam có thể kể đến như: thiếu đa dạng trong hệ thống kênh phân phối nên hiệu quả chưa cao; dịch vụ sau bán hàng kém; khả năng thích ứng với những thay đổi của thị trường thấp và các kế hoạch tiếp thị có tính chuyên nghiệp thấp. Đây chính là những nhân tố khiến doanh thu xuất khẩu của Việt Nam chưa cao. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam, qua đó tăng doanh thu xuất khẩu, những cản trở này sẽ là những nhân tố đầu tiên cần quan tâm và xử lý. 2.3 Lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu: Các yếu
tố quyết định thành công trong cạnh tranh
Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Trong điều kiện của Việt Nam, lợi thế so sánh thể hiện ở: tốc độ tăng trưởng ổn định, cơ sở hạ tầng đồng bộ, nguồn nhân lực dồi dào có trình độ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, thành công trong hội nhập kinh tế quốc tế… Cụ thể, Việt Nam có lợi thế về một số sản phẩm như hàng nông sản, hàng dệt may và giày dép... Thực tế các vụ kiện bán phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam vào thị trường nước ngoài (tính tới tháng 7/2009 Việt Nam đã phải đối mặt tới 39 vụ kiện bán phá giá ở các thị trường khác nhau) như: gạo của Việt Nam vào Côlômbia (1994); giày dép và mì chính vào thị trường EU (1998); cá tra, cá basa vào thị trường Hoa Kỳ (2002); bật lửa vào Ba Lan (2000), giày vào Canada (2002)… cho thấy giá cả sản phẩm Việt Nam thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại ở nước khác. Nói cách khác, Việt Nam đang có được lợi thế so sánh ở rất nhiều sản phẩm khác nhau. Tuy nhiên, lý thuyết về lợi thế so sánh và cụ thể là lợi thế đối với từng sản phẩm dựa trên những giả định như: không đề cập tới chi phí vận chuyển hàng hóa, chi phí sản xuất không thay đổi khi quy mô sản xuất thay đổi, không có thuế quan và rào cản thương mại, thông tin trên thị trường là hoàn hảo và cả người bán và người mua đều có thể lựa chọn sản phẩm mình mong muốn với giá cả thấp nhất. Trên thực tế, không một giả định nào trên đây có thể thực hiện được trong điều kiện cạnh tranh quốc tế như hiện nay. Vì vậy, để có cái nhìn đúng đắn nhất về lợi thế so sánh, chúng ta không thể không bàn tới những vấn đề như: thuế, xúc tiến thương mại, cơ sở hạ tầng thông tin… để có cái nhìn đầy đủ về lợi thế so sánh của hàng xuất khẩu của Việt Nam. 48 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Số liệu được sử dụng trong phần phân tích này được thu thập từ phản hồi của các đại biểu tham dự Diễn đàn kinh tế thế giới trong hai năm 2008 và 2009 19 cùng với chỉ số về hoạt động Logistic (Logistic Performance Index ‐ chỉ số về hạ tầng cơ sở cho thương mại) do Ngân hàng Thế giới cung cấp và những số liệu cứng từ các tổ chức khác như: Tổ chức thương mại thế giới, Trung tâm thương mại quốc tế, Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD). Báo cáo này được thực hiện lần đầu tiên năm 2008 với số lượng nước tham gia là 118 nước và con số này đã tăng lên 121 nước trong năm 2009. Đánh giá chung của cộng đồng thế giới về tình hình thúc đẩy thương mại của Việt Nam trong hai năm 2008‐2009 là sự tiến bộ ở tất cả các chỉ số. Về mặt xếp hạng chung, chỉ trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2009, Việt Nam đã vươn lên vị trí 89 từ vị trí 91. Ngoài các chỉ tiêu mới được đưa ra trong năm 2009 (chủ yếu là các chỉ tiêu có liên quan tới hoạt động Hải quan vì đây là một trong những mắt xích quan trọng của vòng đàm phán Doha), hầu hết các chỉ tiêu của Việt Nam đều có sự tiến bộ về mặt xếp hạng. Theo đánh giá của cộng đồng thế giới, những mặt mà Việt Nam có thế mạnh có thể kể đến là: chỉ số về hàng rào phi thuế quan, các loại thuế quan riêng biệt, sự hiệu quả trong thông quan, chi phí và tài liệu cho xuất khẩu, sự liên hệ giữa các tàu chở khách, cam kết về lĩnh vực vận tải trong GATS (WEF, 2009). Tuy nhiên, Việt Nam cũng bị tụt hạng trong một số chỉ tiêu đánh giá cụ thể trong cả ba lĩnh vực của hoạt động kết nối như: khả năng tiếp cận thị trường, hiệu quả trong quản lý đường biên giới và cơ sở hạ tầng thông tin. Tìm hiểu nguyên nhân khiến cho chỉ số của Việt Nam ở một số hạng mục tụt bậc, chúng ta cần kể đến lý do tác động bên ngoài đó là việc số nước tham gia vào báo cáo tăng từ 118 nước trong báo cáo năm 2008 lên 121 nước trong báo cáo của năm 2009. Hơn nữa, ở một số chỉ tiêu như như kiểm soát nạn tham nhũng, số lượng người đăng ký sử dụng dịch vụ viễn thông di động hay số lượng người sử dụng internet thì mặc dù xếp hạng của Việt Nam năm 2009 thấp hơn so với năm 2008 nhưng điểm số của Việt Nam lại khả quan hơn so với năm 2008. Điều mà chúng ta quan tâm hiện nay là lý giải vì sao ở những hạng mục khác như: chất lượng cơ sở hạ tầng vận tải (đường hàng không, cảng biển…), sự tiện lợi và hợp lý trong chi phí vận chuyển hàng hóa, chỉ tiêu về thuế quan của Việt Nam lại không được khả quan như mong đợi. 19
Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2008‐2009 đưa ra đánh giá cho tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam năm 2007‐2008 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 49
BẢNG 7. Tình hình thúc đẩy thương mại ở Việt Nam 2008-2009
Tiêu chí
Xếp hạng năm 2008
Xếp hạng năm 2009
111
115
90
91
Sự tiện lợi và hợp lý trong chi phí vận chuyển hàng
44
45
Năng lực Logistic
53
54
Thời gian vận tải
63
64
Hiệu quả trong dịch vụ bưu điện
33
49
Chuyển giao công nghệ ở mức doanh nghiệp
43
49
Người đăng ký sử dụng dịch vụ viễn thông di động
96
101
Người sử dụng Internet
59
65
Khả năng tiếp cận thị trường
Chỉ tiêu về thuế quan
Hiệu quả trong quản lý ở đường biên giới
Tham nhũng
Cơ sở hạ tầng vận tải và thông tin
Nguồn: WEF, 2008-2009
Vận tải hàng hóa
Theo tính toán của Cục Hàng hải Việt Nam, cho đến nay, Việt Nam mới tự đáp ứng được 25% nhu cầu thị trường dịch vụ logistics đang ngày càng tăng cao. Cụ thể, dịch vụ quan trọng nhất là vận tải biển, các doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, trong khi đó có tới 90% hàng hóa xuất khẩu được vận chuyển bằng đường biển. Ngoài ra, số doanh nghiệp đủ sức để tổ chức và điều hành toàn bộ quy trình hoạt động logistics thực sự chỉ đếm trên đầu ngón tay. Các doanh nghiệp Việt Nam đa phần đều nhỏ bé, hạn chế về vốn, công nghệ và trình độ nhân lực, có thể vì thế nên chỉ đủ khả năng làm thuê một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ mà các doanh nghiệp nước ngoài đang thực hiện ở thị trường Việt Nam. Hơn nữa, theo ông Phạm Mạnh Cường – Phó TGĐ Công ty CP Đại lý Hàng hải Việt Nam, trong khi doanh nghiệp “nhà” còn non yếu, chưa có sự liên minh thì lại xuất hiện kiểu kinh doanh chụp giật, manh mún, cạnh tranh theo kiểu hạ giá thành để làm đại lý cho nước ngoài một cách không lành mạnh. Hơn nữa, nhiều tên tuổi lớn của thế giới đã xuất hiện ở Việt Nam đang gây sức ép rất lớn, khiến doanh nghiệp Việt Nam không kết nối được với mạng lưới toàn cầu, chỉ có thể hoạt động như những nhà cung cấp dịch vụ cấp 2, thậm chí là cấp 3, cấp 4 cho các đối tác nước ngoài có mạng điều hành dịch vụ toàn cầu ngay trên “sân nhà” của mình. 50 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2009, vấn đề chi phí logistics là một trong những yếu tố khiến cho khả năng cạnh tranh của logistics Việt Nam không được đánh giá cao trong mắt cộng đồng quốc tế. Trong hai năm 2008‐2009, các doanh nghiệp Việt Nam không thực hiện được cả chuỗi logistics và phụ thuộc vào sự cung cấp của doanh nghiệp nước ngoài. Đây chính là lý do chính khiến cho doanh nghiệp Việt Nam bị đánh giá thấp hơn về xếp hạng logistics. Ngoài những chi phí trực tiếp như chi phí vận tải, phí cầu phà cảng, phí đại lý…, doanh nghiệp còn phải chịu chi phí nhạy cảm do sự không dự báo được của chuỗi cung cấp. Khi chuỗi cung cấp thay đổi không được dự báo trước, doanh nghiệp sẽ phải chuyển qua sử dụng các dịch vụ đắt hơn khiến chi phí tăng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giảm xuống. Bên cạnh đó, chất lượng cơ sở hạ tầng biển của Việt Nam trong hai năm 2008‐2009 chứng kiến sự quá tải của một số cảng biển như cảng Sài Gòn. Theo báo cáo công ty quản lý cảng Sài Gòn gửi Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, trong 4 tháng đầu năm 2009, lượng hàng hóa qua các cảng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh tăng đột biến. Chỉ trong bốn tháng đầu năm 2009, cảng Sài Gòn đã bốc dỡ gần 6,4 triệu tấn hàng, tăng 43% so cùng kỳ năm 2008. Trong khi đó, khả năng tiếp nhận tàu và bốc xếp của cảng có giới hạn, cùng lúc chỉ có thể tiếp nhận 25 tàu tại cầu cảng và các bến phao trong khi có thời điểm lượng tàu vào cảng lên đến 50 chiếc vì vậy cảng luôn trong trạng thái quá tải. Hạ tầng thông tin
Đối với chỉ tiêu về số lượng người đăng ký dịch vụ viễn thông, chúng ta đã để mất vị trí 96 và tụt xuống vị trí 101 chỉ trong hai năm 2008‐2009. Việc tụt hạng của Việt Nam khi bàn về số lượng người đăng ký dịch vụ viễn thông có thể được lý giải thông qua các lý do được nêu sau đây: Thứ nhất, Việt Nam hiện có quá nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông, 8 đơn vị (trong khi Trung Quốc với 1,2 tỉ dân, diện tích rộng lớn cũng chỉ có 6 đơn vị cung cấp dịch vụ) với những hành động cạnh tranh xâm hại tới quyền lợi của khách hàng. Dẫn chứng từ thực tế, các mạng viễn thông thường cạnh tranh nhau để cung cấp dịch vụ cho các khu đô thị mới, các nhà cao tầng. Một khách hàng, dù có mong muốn sử dụng dịch vụ của Bưu điện Hà Nội cũng sẽ không được đáp ứng vì lý do họ đang sống tại những khu chung cư mới như Trung Hoà, Nhân Chính, Nam Trung Yên, Mỹ Đình… nơi mà Viettel, EVN đã “đặt” chỗ trước hệ thống hạ tầng. Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 51
Ngoài ra, chất lượng mạng viễn thông của chúng ta còn nhiều bất cập, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông có xu hướng cạnh tranh, khai thác lợi nhuận ngắn hạn mà không quan tâm tới củng cố cơ sở hạ tầng dịch vụ. Việc các doanh nghiệp cạnh tranh cung cấp dịch vụ là điều bình thường, nhưng cạnh tranh mà tác động xấu đến quyền lợi khách hàng làm ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ cung cấp thì dù có tăng về mặt số lượng nhà cung cấp trên thị trường, chỉ số đánh giá cho người đăng ký sử dụng dịch vụ viễn thông di động của Việt Nam cũng sẽ suy giảm. Chuyển giao công nghệ
Tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam chủ yếu vẫn là chuyển giao công nghệ từ công ty mẹ sang công ty con trong các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc công ty liên doanh. Trong khi hầu hết các doanh nghiệp hiện đang hoạt động kinh doanh ở Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, khả năng trang bị máy móc thiết bị kỹ thuật còn hạn chế, hình thức chuyển giao công nghệ thương mại thuần túy chưa thực sự phát huy. Điều đó cho thấy doanh nghiệp vẫn chưa thực sự chủ động trong việc nâng cao trình độ công nghệ. Bên cạnh đó, tuy đã có sự sửa đổi về Luật chuyển giao công nghệ và sự ra đời của Nghị định về thị trường công nghệ, cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ của Việt Nam vẫn còn cứng nhắc, chưa tạo động lực cho các tổ chức, các nhà khoa học phát huy tối đa năng lực sáng tạo và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tế (VBF, 2007). Hải quan
Nội dung đơn giản hóa thủ tục hải quan đã chiếm vị trí quan trọng trong chương trình thực hiện của dự án hiện đại hóa hải quan Việt Nam. Do đó, việc chương trình hiện đại hóa hải quan chưa thực hiện được như dự kiến phần nào là lý do khiến cho chỉ số về hải quan Việt Nam năm 2009 lại không được đánh giá cao như năm 2008. Cụ thể là theo báo cáo từ Công ty TNHH Dịch vụ Quản lý Dorimor theo đặt hàng của Bộ Tài Chính thì các dự án hiện đại hóa hải quan vẫn chưa thể hiện được các yếu tố cụ thể tập trung vào tăng cường an ninh chuỗi cung ứng, nhất là liên quan đến hàng hóa được xuất khẩu. Theo báo cáo được đưa ra về tình hình triển khai đề án hiện đại hóa hải quan (tháng 4/2009), dự án hiện đại hóa Hải quan đã chậm so với kế hoạch dự kiến ban đầu khoảng 2 năm, tỷ lệ giải ngân quá thấp so với mức độ mong đợi. Vì vậy, đoàn giám sát 4 của Ngân hàng thế giới đánh giá dự án tụt một bậc, từ thỏa mãn (satisfactory) xuống mức thỏa mãn vừa phải (moderately satisfactory) (Tổng cục Hải quan, 2009). 52 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Tính đến tháng 12 năm 2008, tỷ lệ giải ngân của dự án đạt 1,3%. Do các gói thầu mua sắm chính của dự án (mua sắm hệ thống CNTT và máy soi) đều thực hiện vào cuối dự án nên tiến độ giải ngân thấp và chưa thể cải thiện ngay cả khi thực hiện hết phần tư vấn của dự án (chiếm khoảng 10% dự án). 2.4 Tác động của việc gia nhập WTO và các khu vực mậu dịch tự do (FTA) đối với
một số ngành hàng xuất khẩu và doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam đã là thành viên của WTO được gần 3 năm. Rõ ràng đây là quãng thời gian quá ngắn ngủi so với tiến trình 11 năm đàm phán kể từ ngày Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO đến khi trở thành thành viên chính thức. Ngoài ra, việc tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do (FTA) cũng làm thay đổi đáng kể bức tranh ngoại thương của Việt Nam. Như phần trước đã chỉ ra, ASEAN đã hoàn thành đàm phán để ký kết 3 hiệp định lớn với 4 đối tác quan trọng là Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Niu Dilân. Đây là những Hiệp định FTA toàn diện, trọn gói với nội dung rộng và phức tạp, điều chỉnh nhiều lĩnh vực như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, hải quan, sở hữu trí tuệ… Đặc biệt, sang năm 2009 Australia, Niu Dilân và Ấn Độ đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Việc đánh giá tác động của những thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế này của Việt Nam có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta nhìn nhận một cách thực chất hơn về những vấn đề mang tính dự đoán trước đây, từ đó có những giải pháp chiến lược và đối sách phù hợp hơn. 2.4.1 Tác động tích cực
a) Kim ngạch xuất khẩu của tất cả các mặt hàng gia tăng với tốc độ nhanh
Trước đây, hàng hóa Việt Nam thường phải chịu mức thuế suất cao khi thâm nhập vào thị trường các nước. Do đó các mặt hàng của chúng ta thường khó cạnh tranh tại thị trường bản địa. Sau khi trở thành thành viên của WTO với các chế độ đãi ngộ như MFN, NT…, cũng như tham gia vào các FTA, Việt Nam bắt đầu khai thác được thị trường xuất khẩu rộng lớn với mức cam kết về thuế nhập khẩu đã và sẽ được cắt giảm cùng các biện pháp phi thuế quan cũng sẽ được loại bỏ theo nghị định thư gia nhập của các thành viên này mà không bị phân biệt đối xử. Điều này đã góp phần không nhỏ cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao được năng lực cạnh tranh và tăng kim ngạch xuất khẩu của tất cả các mặt hàng, đặc biệt là ở những mặt hàng mà Việt Nam vốn có thế mạnh. Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 53
Có thể khẳng định, sau gần 3 năm gia nhập WTO, năng lực sản xuất và kinh doanh của các ngành hàng đã tăng lên rõ rệt. Mặc dù trong thời gian qua, các biến động phức tạp của nền kinh tế toàn cầu, như sự thay đổi “chóng mặt” của giá năng lượng, lương thực và nhiều loại nguyên liệu khác, cùng với sự khủng khoảng của hệ thống tài chính toàn cầu đã và đang có ảnh hưởng lan tỏa đến hầu hết các nền kinh tế và thương mại thế giới. Các tác động này cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế và thương mại của Việt Nam vốn có quy mô nhỏ bé, đang phát triển ở trình độ thấp, nhưng độ mở cao và đang phải mở cửa thị trường để thực hiện cam kết gia nhập WTO. Tuy nhiên, hầu hết các ngành hàng của nước ta đều giữ được tốc độ tăng trưởng cao so với nhiều nước trong khu vực. Theo số liệu năm 2008, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng còn 7%); kim ngạch xuất khẩu đạt 62,7 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Nhìn chung, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực thuộc các ngành hàng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đều tăng rõ rệt. Chẳng hạn, hàng điện tử và linh kiện máy tính đạt 2,7 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2007; hàng dệt may đạt 9,1 tỷ USD, tăng 17,5%; sản phẩm gỗ đạt 2,78 tỷ USD, tăng 15,6%; cà phê đạt 2,02 tỷ USD, tăng 5,8%; cao su đạt 1,6 tỷ USD, tăng 14,6%20.Tuy nhiên, theo thống kê năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,3% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 26,73 tỷ USD, giảm 5,1%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 29,9 tỷ USD, giảm 13,5%. Ngoài việc kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng vẫn tăng cao, đã xuất hiện thêm một số ngành hàng mới có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD, đưa tổng số mặt hàng này lên con số 10. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu xếp thứ hạng cao so với các nước xuất khẩu trên thế giới và có khả năng ảnh hưởng đến thị trường thế giới như: gạo, cà phê, chè, cao su, hạt tiêu, điều. Đây thực sự là thành công lớn của Việt Nam và cần phải được phát huy mạnh mẽ trong tương lai. b) Thị trường được mở rộng, hàng hóa của Việt Nam có thể thâm nhập thị trường
các thành viên WTO và các nước tham gia ký FTA một cách thuận lợi hơn
Hiện nay Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có quan hệ xuất khẩu với 219 nước và vùng lãnh thổ này21. 20
Tổng cục thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2008 21
Theo http://www.na.gov.vn/htx/English/C1330/?Default.asp?Newid=1255 54 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Cho đến nay, Việt Nam đã là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Đặc biệt, gia nhập WTO, chúng ta có được thị trường xuất khẩu rộng lớn bao gồm 15322 thành viên cùng với những ưu đãi dành riêng cho các thành viên. Đây thực sự là bước ngoặt mới mở ra những cơ hội lớn cho thị trường xuất khẩu hàng hóa của nước ta. Thị trường hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày càng được mở rộng về quy mô và số lượng. Nếu như năm 2002 chỉ có 4 nước có kim ngạch xuất khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD là Hoa Kỳ, Nhật, Trung Quốc, Australia thì đến năm 2006 đã tăng lên thành 8 nước (thêm Malaysia, Singapore, Anh, Đức), và tính đến năm 2008 có thêm 3 nước và vùng lãnh thổ là Đài Loan, Thái Lan, Indonexia. Tuy chỉ chiếm khoảng 5% trong số các thị trường Việt Nam có quan hệ xuất khẩu nhưng tổng giá trị của các thị trường này đạt gần 35 tỷ USD (chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Điều này cho thấy hoạt động xuất khẩu của nước ta tập trung chủ yếu vào một số thị trường chính. Vì vậy, chiến lược ngoại thương của Việt Nam song song với việc mở rộng thị trường mới thì vẫn phải luôn hết sức quan tâm tới các thị trường truyền thống này nhưng không nên quá phụ thuộc vào những thị trường này, nhất là trong tình trạng nhiều biến động như hiện nay. Nhìn chung, các loại hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam như dệt may, cà phê, cao su, thủy sản... đã có mặt ở hầu khắp các nước trên thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với những nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, các loại hình dịch vụ, vật tư, nguyên liệu và cơ hội xuất khẩu sản phẩm do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử. c) Sự thống nhất của hệ thống pháp luật đã giúp môi trường kinh doanh trong
nước được cải thiện theo hướng thuận lợi và minh bạch hơn, phù hợp với các quy định
của quốc tế
Trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam phải xây dựng được một hệ thống pháp luật minh bạch, rõ ràng và thống nhất. Do đó, đến hết năm 2006, cơ quan lập pháp của Việt Nam đã sửa đổi và xây dựng mới 26 Luật và Pháp lệnh quan trọng như: Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005… và Pháp lệnh về việc Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004, Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004… Bên cạnh đó, Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới hơn 100 Luật để đổi mới xã hội, phát 22
Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO; sau Việt Nam, Tonga, Ukraina, Cape Verde lần lượt là 3 thành viên tiếp theo. Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 55
triển kinh tế và cải cách hành chính. Điều này thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tích cực và chủ động xây dựng hành lang pháp lý ngày càng thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp và quyết tâm đó đã được các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài và bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao23. Những thay đổi này đã giúp môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện theo hướng thuận lợi và minh bạch hơn. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, như cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế và giảm thiểu giấy phép “con” đã có tác động tích cực đối với phát triển các doanh nghiệp mới ở hầu hết các ngành hàng. Việc phát triển hệ thống ngân hàng và bảo hiểm mở ra các kênh tài chính cạnh tranh đã và sẽ tạo cơ hội tiếp cận tài chính tốt và có tính cạnh tranh hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, doanh nghiệp thuộc những ngành ưu tiên như đóng tàu, phát triển năng lượng mới... Chính phủ đã xác lập và mở rộng quyền kinh doanh thương mại cho doanh nghiệp phù hợp với thực tiễn thương mại trong nước và quốc tế. Liên quan đến quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, nếu Nghị định 57/1998/NĐ‐CP ngày 31/07/1998 được ghi nhận là một bước tiến mới trong quá trình thực hiện mở rộng quyền tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho mọi thành phần kinh tế với quy định mọi thành phần kinh tế đều được tham gia xuất nhập khẩu trong phạm vi đăng ký kinh doanh mà không cần bất kỳ một loại giấy phép xuất nhập khẩu nào, chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố, thì hiện nay Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra các quy định còn mở rộng hơn nữa, đặc biệt là về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của thương nhân. Nghị định 12/2006/NĐ‐CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và hoạt động đại lý, mua, bán, quá cảnh và gia công hàng hóa có yếu tố quốc tế quy định thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư nước ngoài được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc ngành nghề đăng ký kinh doanh (Điều 3 khoản 1).24 Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, Tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO: Cơ hội và thách thức đối với nước ta, tài liệu tại Hội nghị phổ biến các cam kết WTO của Việt Nam, Hà Nội, tháng 11/2006, tr.2‐3 23
Nguyễn Ngọc Hà – “Tác động của môi trường pháp luật Việt Nam đến hoạt động của các doanh nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập WTO” – Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 28/2008 – tr.69‐76. 24
56 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
d) Các doanh nghiệp xuất khẩu phải nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hoàn
thiện sản xuất kinh doanh về mọi mặt
Bản thân việc trở thành thành viên chính thức của WTO cũng như tham gia vào các FTA sẽ có tác dụng “đòn bẩy” để thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, điều đó buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải tự đổi mới và hoàn thiện mình. Điều quan trọng nhất là doanh nghiệp phải ý thức được tính độc lập vươn lên để tồn tại trong một môi trường thương mại tự do, hội nhập quốc tế mà không cần sự bảo trợ của nhà nước. Khu vực doanh nghiệp của Việt Nam đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhiều doanh nghiệp đang áp dụng các bộ tiêu chuẩn quản lý theo tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO), các công cụ nâng cao tính cạnh tranh cho doanh nghiệp sau hội nhập và các mô hình quản trị tiên tiến. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư nâng cao trình độ công nghệ, đặc biệt là thực hiện các yêu cầu khắt khe về chất lượng. Nhờ vậy, nhiều doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận quốc tế về quản lý chất lượng. Từ chỗ chỉ có 1 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO là chứng chỉ ISO 9002: 1994 (vào năm 1995) thì sau khi gia nhập WTO đến nay, chúng ta đã có gần 2000 doanh nghiệp đạt được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, HACCP, ISO 14001, SA 8000… Chúng ta cũng có hàng trăm phòng thử nghiệm được công nhận phù hợp ISO 17025, hàng vạn doanh nghiệp đã công bố tiêu chuẩn hàng hóa và chứng nhận phù hợp đủ tiêu chuẩn25. Việc ý thức xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn hệ thống quản lý quốc tế đã trở nên quen thuộc trong nhận thức của nhiều doanh nghiệp đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập. Đây là một tín hiệu đáng mừng bởi nó sẽ tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của hàng hóa của Việt Nam. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp còn phải nắm vững chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới, nắm vững cơ cấu tiêu dùng của từng loại hàng hóa, văn hóa của từng thị trường, giữ chữ tín trong xây dựng thương hiệu, nâng cao chất lượng đáp ứng mọi mặt các yêu cầu của thị trường… 25
http://www.vietnamquality.org.vn/index.php?act=view&code=new&id=7 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 57
2.4.2 Tác động tiêu cực
a) Lạm phát làm gia tăng chi phí đầu vào
Trước khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam luôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát giá cả. Do đó, kinh tế Việt Nam đã trải qua những giai đoạn lạm phát rất cao, không chỉ trong thời kỳ kinh tế đóng mà ngay cả trong thời gian gần đây (năm 2004). Thực tế lạm phát ở Việt Nam những năm trước đây vẫn luôn chịu ảnh hưởng bởi những biến động từ chi phí đầu vào như chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu khiến lạm phát chi phí đẩy xảy ra, từ giá hàng hóa lương thực thực phẩm (với quyền số cao trong rổ hàng hóa tính CPI của Việt Nam), từ các nguyên nhân mang tính tâm lý khi chúng ta cho phát hành các đồng tiền mới có trị giá cao và chính sách tăng lương cơ bản dẫn đến lạm phát kỳ vọng hay từ việc điều tiết và sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ còn chưa hợp lý. Tuy nhiên, lạm phát trong giai đoạn này vẫn chỉ dừng ở mức một con số. Nhưng kể từ sau khi gia nhập WTO, tình hình lạm phát gia tăng nhanh, lần đầu tiên sau 10 năm trở lại đây, lạm phát Việt Nam lên đến hai con số và không ngừng gia tăng. Kinh tế Việt Nam trong năm 2008 có rất nhiều sự kiện: Lạm phát quý I lên mức 2 con số là 16,37% so với cùng kỳ năm ngoái; nền kinh tế đang trên đà tăng tốc thuận chiều với tốc độ trên 8%/năm đột ngột rơi vào khúc cua gấp. Tháng 3/2008, Chính phủ đưa ra 8 giải pháp kiềm chế lạm phát, giữ ổn định nền kinh tế vĩ mô, đặt trọng tâm vào thắt chặt tiền tệ và tài khoá, kiểm soát đầu tư công. Hệ quả là lãi suất tăng phi mã, lãi suất cho vay có lúc lên tới 21/%/năm, thậm chí nhiều doanh nghiệp có những thời điểm phải vay ở mức cao hơn do các ngân hàng thu thêm các khoản phí (phí tư vấn, phí thu xếp tín dụng) để lách quy định lãi suất trần. Do vây, doanh nghiệp nào sử dụng đòn bẩy tài chính cao nhiều khả năng chịu tác động mạnh do chính sách tiền tệ thắt chặt được thực hiện trong quý II và III của năm 2008. Song ngay sau đó, Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc suy thoái kinh tế kéo theo là khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới. Sang đến năm 2009, sau những gói kích cầu của Chính phủ, lạm phát tại Việt Nam đã giảm đáng kể (dự báo lạm phát 2009 của Việt Nam sẽ chỉ là 7%), song hiệu quả của các gói kích cầu để phục hồi nền kinh tế trong nước thì vẫn chưa phát huy tác dụng. Có thể nói, lạm phát đã khiến cho chi phí đầu vào của các ngành hàng tăng lên đáng kể. Giá xăng dầu liên tục gia tăng chóng mặt trong năm 2008, đỉnh điểm là vào ngày 21/07/2008 giá xăng đã lên đến 19.500 đ/lít. Đến cuối năm 2008, giá xăng mới bắt đầu hạ nhiệt và bắt đầu chững lại trong 6 tháng đầu năm 2009. Tuy nhiên, trong những tháng cuối năm 58 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
này, giá xăng dầu thế giới lại đang biến động mạnh, thị trường đang đứng trước khả năng tăng giá mới đặt ra những thách thức lớn cho Bộ Tài chính trong việc kiểm soát giá xăng dầu đầu vào. Chi phí đầu vào tăng cao một phần không nhỏ là do nhập siêu của Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ từ sau khi gia nhập WTO. Điều này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc sản xuất hàng hóa và cạnh tranh với thị trường các nước bản địa. b) Bãi bỏ các khoản trợ cấp và các khoản có tính trợ cấp cho doanh nghiệp
Việc mở cửa thị trường dẫn đến cạnh tranh tăng lên, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ cạnh tranh trong nước mà còn phải cạnh tranh cả trên thị trường thế giới. Theo cam kết, nhiều khoản trợ cấp hoặc có tính chất trợ cấp của Chính phủ cho một số ngành trước đây buộc phải bãi bỏ. Chẳng hạn, các ưu đãi về vốn, về tín dụng, các khoản hỗ trợ lãi suất để phát triển sản xuất kinh doanh đối với ngành dệt may, ưu đãi thuế theo tỷ lệ nội địa hóa đối với ngành cơ khí, thưởng xuất khẩu theo thành tích xuất khẩu đối với thị trường mới và mặt hàng mới... đã phải bãi bỏ. Theo các chuyên gia của dự án hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực thể chế giúp Việt Nam gia nhập WTO do Bộ Ngoại giao Italia tài trợ, trợ cấp trong WTO được chia thành 3 nhóm. Do đó, nhóm “đèn đỏ” là trợ cấp bị cấm sử dụng bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế nhập khẩu để khuyến khích sử dụng đầu vào trong nước, khuyến khích nội địa hóa. Nhóm “đèn vàng” là trợ cấp riêng biệt cho một ngành hoặc một vùng, gây lệch lạc thương mại mặc dù nhóm này không bị cấm sử dụng nhưng nếu sử dụng, chúng ta có thể bị đánh thuế chống trợ cấp... Nhóm “đèn xanh” là trợ cấp được coi là ít gây lệch lạc cho thương mại và được phép áp dụng là trợ cấp chương trình nghiên cứu và phát triển, trợ cấp phát triển vùng khó khăn... Theo cam kết chung, sau khi vào WTO, Việt Nam đã phải dừng ngay trợ cấp xuất khẩu thuộc nhóm “đèn đỏ” và “đèn vàng”. Tuy nhiên, các chương trình hỗ trợ trong nước thuộc loại “đèn xanh”, chi trả trực tiếp cho người sản xuất, hỗ trợ riêng cho thu nhập vẫn được sử dụng. c) Phụ thuộc vào các trung gian thương mại
Quy mô của doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là vừa và nhỏ, năng lực tài chính yếu kém, kỹ năng và kiến thức chuyên sâu về quản lý trong môi trường cạnh tranh quốc tế còn có hạn, các doanh nghiệp lại thiếu sự liên kết và chỉ tham gia được vào các khâu có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với hầu hết các ngành hàng. Vì vậy, mặc dù nhiều ngành hàng của chúng ta đứng thứ hạng cao trong xuất khẩu như hồ tiêu, điều, gạo, cà phê, cao su, hàng dệt Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 59
may..., nhưng do chúng ta chưa tham gia được vào các khâu có giá trị gia tăng cao nên buộc phải lệ thuộc vào các trung gian thương mại nước ngoài. Ngoài ra, năng lực nghiên cứu và thiết kế, khả năng đổi mới công nghệ của hầu hết các doanh nghiệp còn rất hạn chế, lực lượng lao động có trình độ cao không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển. Điều này khiến cho nhiều doanh nghiệp mất đi những chi phí không nhỏ cho các trung gian thương mại và đôi khi còn bị ép giá. d) Phát sinh tình trạng thừa USD, thiếu VND
Trong bối cảnh lạm phát của Việt Nam ngày càng gia tăng, nhiều ngân hàng thương mại đang trong tình trạng thiếu VND, thừa USD. Vào giai đoạn cuối năm 2007 và đầu năm 2008, cung VND trên thị trường liên ngân hàng khan hiếm khiến cho lãi suất qua đêm đã được đẩy lên 17 – 19%/năm (cao gấp 5 lần so với tỉ lện 3‐ 5%/năm trước đó. Tình trạng này khiến các ngân hàng khó huy động vốn và các doanh nghiệp gặp khó khăn khi vay ngân hàng. Rõ ràng, việc Việt Nam gia nhập WTO và tham gia vào các FTA, bên cạnh tác động tích cực là nguồn vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào thị trường chứng khoán tăng cao nhưng lại làm phát sinh tác động tiêu cực. Đó là các nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể đầu tư vào thị trường chứng khoán bằng VND nên họ phải đổi ngoại tệ ra VND, khiến cho VND trở nên khan hiếm trong khi USD lại dư thừa. Điều này chưa từng xảy ra trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Việc ngoại tệ đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam quá nhanh sẽ làm giảm hiệu quả trong công tác quản lý tiền tệ, tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh hơn và có thể xảy ra tình trạng đô la hóa. 60 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
PHẦN III
DỰ BÁO VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ
Việc tìm hiểu về thị trường thế giới, nhận định thế giới sẽ tăng tiêu dùng những mặt hàng gì, những thị trường nào sẽ nổi lên như trung tâm tiêu dùng của thế giới trong tương lai… là rất cần thiết để có được một định hướng đúng cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Thị trường thế giới trong ngắn hạn sẽ có những thay đổi đáng kể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm thay đổi mức sống và thu nhập của một bộ phận lớn người tiêu dùng, làm cầu về hàng hóa xa xỉ giảm đi, thay vào đó, cầu về hàng hóa thiết yếu sẽ tăng lên. Về chủ quan, tình hình ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia trên thế giới có thay đổi sẽ dẫn đến việc tăng hoặc giảm cầu, làm ảnh hưởng đến thương mại thế giới, cụ thể như sau: 1. DỰ BÁO CHUNG VỀ XU HƯỚNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Sẽ có hai thay đổi lớn trong bản đồ nhập khẩu của thế giới là khối OECD và Châu Á. Khối OECD sẽ giảm tỷ trọng tiêu dùng trong tổng cầu của thế giới trong khi Châu Á, cụ thể là Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia nổi lên như những trung tâm tiêu dùng mới của thế giới. 1.1 Tiêu dùng của khối OECD sụt giảm
Tính từ nửa cuối năm 2008 đến 9 tháng đầu năm 2009, nhập khẩu của khối OECD giảm đáng kể, từ 951,04 tỷ USD trung bình mỗi tháng đầu năm 2008 giảm xuống còn 617,49 tỷ USD, 615,25 tỷ USD và 617,37 tỷ USD vào các tháng Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 61
3,4,5 năm 2009. Đến tháng 8 năm 2009, nhập khẩu phục hồi nhẹ, tăng lên 666,83 tỷ USD 26. Sự phục hồi này được giải thích do sự phục hồi kinh tế thế giới, khi thế giới dần dần thoát khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, tỷ trọng tiêu dùng của OECD trong tổng tiêu dùng thế giới sẽ giảm, từ 65% trong các năm trước xuống còn 55%. OECD không tiêu dùng ít đi mà vì các thị trường khác trỗi dậy, tiêu dùng nhiều hơn làm giảm đi tỷ trọng của OECD. Con số tuyệt đối có thể vẫn tăng nhưng con số tương đối đang giảm dần. Là hai trong số 30 quốc gia thành viên của OECD, trong giai đoạn 2009‐2015, Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng không nằm ngoài xu hướng tiêu dùng của cả khối. Đồ thị dưới đây cho thấy dự báo tốc độ tăng nhập khẩu của các quốc gia này vẫn ảm đạm trong giai đoạn 2009‐2010 và chỉ khởi sắc từ cuối năm 2010 trở đi. BIỂU ĐỒ 5. Dự báo tốc độ tăng nhập khẩu củ a Hoa Kỳ và Nhật Bản- Giai đoạn 2009 – 2015
Nguồn: Marketlineinfo: http://www.marketlineinfo.com
Điều này đã khiến cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam gặp bất lợi bởi một thực tế là các quốc gia nhập khẩu chính của Việt Nam lại là những quốc gia chịu hậu quả nặng nề trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay khiến nhu cầu về hàng nhập khẩu của các quốc gia này đã giảm mạnh. Những phân tích gần đây cho thấy, nền kinh tế Hoa Kỳ chuyển biến chậm chạp, các nước EU chưa thấy có dấu hiệu phục hồi, còn nền kinh tế Nhật Bản được dự đoán sẽ tăng 26
http://stats.oecd.org/Index.aspx?DatasetCode=INEQUALITY 62 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
trưởng âm trong năm 2009 (‐5,8%)27. Rõ ràng, với những dự báo về sự phục hồi kinh tế và tốc độ tăng nhập khẩu của Hoa Kỳ và Nhật Bản trong ít nhất 2‐3 năm tới như vậy, chúng ta có thể thấy Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động xuất khẩu nếu tiếp tục chỉ tập trung vào những thị trường lớn nhất này. Vậy, vấn đề đặt ra lúc này là Chính phủ phải có những định hướng đúng đắn để có thể chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng tích cực để một mặt vẫn duy trì được những thị trường xuất khẩu truyền thống, mặt khác tìm kiếm những thị trường tiềm năng khác nhằm hạn chế rủi ro khi xảy ra những biến động kinh tế như hiện nay. 1.2 Sự trỗi dậy của các thị trường Châu Á
Được coi là nền kinh tế tiêu dùng lớn nhất thế giới, từ 15 năm nay, người tiêu dùng Mỹ chi khoảng 9.500 tỷ USD mỗi năm cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khủng hoảng toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 đã làm thay đổi đáng kể mức tiêu dùng cá nhân của Hoa Kỳ. Tài liệu của Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) cho thấy, chỉ trong ba tháng cuối năm ngoái, các hộ gia đình Hoa Kỳ mất tới 5.100 tỷ USD, tương đương 9% giá trị tài sản. Đây là sự mất mát chưa từng có trong suốt 57 năm FED theo dõi số liệu này và cũng là quý thứ 6 liên tiếp giá trị tài sản của các hộ gia đình Mỹ đi xuống. Hiện nay, người tiêu dùng Mỹ bắt đầu tiết kiệm. Nếu tỷ lệ tiết kiệm năm 2007 đạt 0% thì vào tháng 1/2009 tỷ lệ này là 5%. Người tiêu dùng Mỹ, khách hàng lớn nhất của các nhà xuất khẩu châu Á, có vẻ như đang thay đổi cơ bản thói quen mua sắm của họ, mua những hàng hóa ít đắt tiền hơn và thiết yếu hơn. Câu hỏi được đặt ra ở đây là, nếu Mỹ không còn giữ vị trí quốc gia tiêu dùng số 1 thế giới nữa thì quốc gia hay vùng lãnh thổ nào sẽ thế chân Mỹ? Tạp chí Kinh doanh Harvard (HBR) ngày 27/08/2009 đưa ra 2 kịch bản cho thị trường thế giới đến năm 2020 như sau: 1. Kịch bản 1: Châu Á có thể nổi lên như một trung tâm tiêu dùng mới. Trung Quốc và Ấn Độ đều có trên 1 tỷ dân, với thu nhập ở mức trung, mỗi hộ gia đình có thể đạt mức thu nhập 20.000 USD/năm. Con số này có thể cho thấy khả năng về một sự bùng nổ trong tiêu dùng tại các quốc gia này trong tương lai gần. Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế tiêu dùng lớn thứ 3 của thế giới (sau EU và Hoa Kỳ), còn Ấn Độ là thứ 5 (sau Nhật Bản) vào năm 2020. Khi đó, 3 trong số 5 nền kinh tế tiêu dùng lớn nhất thế giới sẽ thuộc về Châu Á và Châu Á sẽ nổi lên như một trung tâm tiêu dùng đơn cực của thế giới. 27
Japan: Country Analysis Report ‐ In‐depth PESTLE Insights, August 2009 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 63
2. Kịch bản 2: Xu hướng tiêu dùng thế giới có thể trở thành đa cực. Giả sử Trung Quốc và Ấn Độ vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao như hiện nay nhưng chính phủ các nước này lại muốn duy trì tỷ lệ tiết kiệm cao và tỷ lệ tiêu dùng thấp. Khi đó, Hoa Kỳ, EU và Nhật vẫn sẽ duy trì vị trí trong nhóm 3 nền kinh tế có tỷ lệ tiêu dùng lớn nhất thế giới, nhưng với tốc độ tăng trưởng chậm dần. Sau đó mới đến vị trí của Trung Quốc và Ấn Độ28. Trong 2 kịch bản trên, dù thị trường tiêu dùng thế giới phát triển theo hướng đơn cực hay đa cực, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn sẽ nổi lên như những trung tâm tiêu dùng mới do lợi thế về dân số và tốc độ tăng trưởng ổn định trong nhiều năm. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số quốc gia mới nổi khác trong khu vực Châu Á như Indonesia và Malaysia. Kịch bản HBR đưa ra cũng trùng với dự báo của các nhà nghiên cứu kinh tế khác trên thế giới. Trang thông tin http://www.marketlineinfo.com chuyên về các vấn đề kinh doanh và thị trường của 215 quốc gia trên thế giới cũng đưa ra dự báo về tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ trong kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc và Ấn Độ trong giai đoạn 2010‐2015. BIỂU ĐỒ 6. Dự báo tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu một số nước trên thế giới
25
20
Trung Quốc
15
Ấn Độ
10
Nhật Bản
5
Mỹ
20
15
20
14
20
13
20
12
20
11
0
20
10
Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu (%)
giai đoạn 2010 – 2015
Nguồn: http://www.marketlineinfo.com
28
http://blogs.harvardbusiness.org/hbr/hbr‐now/2009/08/trend‐to‐watch‐shifting‐consum.html 64 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Đồ thị trên cho thấy, cùng là những nền kinh tế lớn, chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, trong khi Hoa Kỳ và Nhật Bản đang dần phục hồi ở tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 4‐5% thì Trung Quốc và Ấn Độ đã vươn lên mạnh mẽ ở mức 18‐23% trong năm 2010 và tiếp tục duy trì ở mức 17‐
19% trong các năm tiếp theo. Điều này, ngoài hai nguyên nhân đã đề cập ở trên là quy mô dân số và tăng trưởng ổn định trong nhiều năm, còn được giải thích bằng một nguyên nhân nữa là sự xuất hiện của một tầng lớp dân cư mới, đặc biệt là ở Trung Quốc. Tầng lớp dân cư sinh này ra và lớn lên trong điều kiện vật chất đầy đủ, không bị ràng buộc bởi tâm lý tiết kiệm của thế hệ trước, bị ảnh hưởng bởi phong cách tiêu dùng Âu ‐ Mỹ, đang dần từng bước biến Trung Quốc thành xã hội tiêu dùng. Diễn biến trên thị trường quốc tế như vậy ảnh hưởng như thế nào đến chiến lược xuất khẩu của Việt Nam? Khi thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới được dự đoán là quốc gia láng giềng với mình, Việt Nam sẽ tận dụng cơ hội này như thế nào? Đây là bài toán lớn, đặt ra cả cơ hội và thách thức cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Cho tới nay, dường như Việt Nam chưa có sự chuẩn bị cho sự dịch chuyển trong cơ cấu tiêu dùng, cũng như sự trỗi dậy của người Trung Quốc dưới góc độ là một thị trường to lớn. Do đó, trong thời gian tới, chúng ta nên có nghiên cứu về vấn đề này. 2. DỰ BÁO VỀ TỔNG KIM NGẠCH VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG 2010
Để có thể dự báo một cách tổng quát nhất về tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2010, báo cáo nghiên cứu sử dụng dự báo mà Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đưa ra về tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2010, căn cứ vào hệ số của mô hình để dự báo về tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2010. Có hai kịch bản dự báo về tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2010. Cả hai kịch bản đều tính đến việc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tiếp tục có ảnh hưởng tới nền kinh tế của Việt Nam (mặc dù nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là đã chạm đáy khủng hoảng đầu năm 2009). Nền kinh tế Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng từ việc biến động giá cả thế giới, thay đổi trong cơ chế vay vốn (trong và ngoài nước) và việc Việt Nam có đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm được hay không. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đưa ra dự báo lạc quan hơn so với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) với tốc độ tăng trưởng dự báo cho năm 2010 là 6,5%. Dự báo này của ADB được đưa ra trên cơ sở giả định rằng Chính phủ sẽ không Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 65
đưa thêm chính sách nới lỏng tài khóa trong năm tới và Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Ngoài ra, dự báo này cũng được tính toán trên cơ sở trong năm 2010, việc thiếu hụt ngoại tệ sẽ được giải quyết thông qua cơ chế tỷ giá linh động và tăng cung ngoại tệ trên thị trường. BẢNG 8. Dự báo về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2010
Đơn vị: %
Dự báo của IMF
Dự báo ADB
Tăng trưởng GDP
5,3
6,5
Tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu
6,36
7,8
Nguồn: Dự báo tăng trưởng GDP của IMF và ADB
Bên cạnh đó, trang web http://www.marketlineinfo.com đã đưa ra dự báo về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2010 như trong đồ thị dưới đây: BIỂU ĐỒ 7. Dự báo tốc độ tăng kim ngạch xu ất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010
Nguồn: Marketlineinfo: http://www.marketlineinfo.com
Dự báo này lạc quan hơn dự báo của IMF và ADB khi cho rằng, xuất khẩu của Việt Nam, sau đợt suy giảm vào năm 2009 với tổng kim ngạch còn 52 tỷ USD (tăng trưởng ‐24% so với năm trước), sang đến năm 2010 sẽ có sự phục hồi nhẹ, tăng lên 59 tỷ USD (tăng trưởng 8%). Con số này còn kém xa con số tính toán của dự báo này về tình hình xuất khẩu năm 2008 (72 tỷ USD) và vẫn kém hơn con số 66 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
xuất khẩu thực tế của Việt Nam năm đó (62,7 tỷ USD). Tuy nhiên, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, dù tồn tại sự khác nhau về con số dự báo, điểm chung của các dự báo này là đều đưa ra kịch bản phục hồi nhẹ cho xuất khẩu Việt Nam vào năm 2010. Theo nhóm tác giả, sự phục hồi nhẹ theo những dự báo này là hoàn toàn khả thi do sự phục hồi của các nền kinh tế lớn ‐ các nhà nhập khẩu lớn sau khủng hoảng. Dự báo này cũng trùng với tính toán của nhóm nghiên cứu theo phương pháp trung bình trượt ở phần sau khi cho rằng xuất khẩu của Việt Nam trên các thị trường chính năm 2010 đều tăng so với năm 2009. 3. DỰ BÁO VỀ XU HƯỚNG SẢN PHẨM VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỤ THỂ CHO GIAI ĐOẠN
2010-2011
Để có một dự báo về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tới từng thị trường đối tác trọng điểm trong thời gian tới, báo cáo sử dụng phương pháp trung bình trượt (moving average), căn cứ vào dãy số liệu 14 năm đối với từng thị trường để dự đoán về kim ngạch xuất khẩu tương ứng với từng thị trường trong năm 2010. Báo cáo áp dụng cả ba phương pháp của trung bình trượt là phương pháp trung bình trượt giản đơn, trung bình trượt có tính đến sai lệch tuyệt đối của kim ngạch xuất khẩu qua các năm và trung bình trượt tính đến sai lệch tương đối của kim ngạch xuất khẩu qua các năm. Ở mỗi một phương pháp (nêu trên), nhóm chuyên gia nghiên cứu tiến hành tính toán sai số giữa dự báo và thực tiễn kim ngạch xuất khẩu qua các năm 1998‐2008, từ đó tính độ lệch chuẩn ở cả ba phương pháp. BẢNG 9. Độ lệch chuẩn giữa thực tiễn và dự đoán các năm 1998-2008 29
Thị trường
Độ lệch chuẩn
Phương pháp 1
Phương pháp 2
Phương pháp 3
7109,4
3008,8
4615,9
Australia
695537,9
164022,4
242672,9
ASEAN
2243843,9
283200,7
765981,3
EU
2463119,7
242815,6
908683,6
Hàn Quốc
110821,0
28060,0
50299,7
Hoa Kỳ
5356637,1
332532,2
1655929,4
Nhật Bản
1886548,0
389641,3
864981,8
Trung Quốc
588131,4
257696,7
270003,4
Ấn Độ
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
29
Giải thích cụ thể về ba phương pháp của trung bình trượt được trình bày cụ thể trong Phụ lục 2 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 67
Như vậy, ở tất cả các thị trường được nghiên cứu trong các năm 1998‐2008, độ lệch chuẩn theo phương pháp thứ 2 được xác định là nhỏ nhất. Báo cáo lựa chọn phương pháp thứ 2 để tính dự báo kim ngạch xuất khẩu cho năm 2010 và kết quả được trình bày trong bảng sau đây: BẢNG 10. Dự báo xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2010 tới một số thị trường chính
Đơn vị: Triệu USD
Thị trường
Dự báo xuất khẩu năm 2010
Ấn Độ
682
Australia
4.797,1
ASEAN
11.881,2
EU
14.625
Hàn Quốc
2.761
Hoa Kỳ
15.768
Nhật Bản
12.235,2
Trung Quốc
5.950,2
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
Khảo sát ý kiến do Cục Xúc tiến thương mại tổ chức tháng 11 năm 2009 đã thu được một số dự báo về tình hình thị trường nhập khẩu của thế giới và cơ hội cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Theo đó, trong 2‐3 năm tới, các thị trường truyền thống của Việt Nam vẫn sẽ có xu hướng tiếp tục nhập khẩu các mặt hàng đang là thế mạnh của Việt Nam như: dệt may, da giày, gạo, máy tính và sản phẩm điện tử, dầu thô, cao su… Ngoài ra, một số mặt hàng như: đồ gỗ, hóa chất, đồ gốm sứ, thủy hải sản… cũng có nhiều tiềm năng mở rộng thị trường xuất khẩu. Cụ thể, cơ hội cho hàng xuất khẩu Việt Nam ở một số thị trường lớn như sau: Thị trường Trung Quốc: Dự báo trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ tăng cường nhập khẩu những mặt hàng như mạng tích hợp và tổ hợp vi điện tử; dầu thô; tấm màn hình tinh thể lỏng; quặng sắt; chất dẻo sơ chế; thiết bị xử lý số liệu tự động và bộ kiện; thép; xăng dầu; thiết bị mạch bảo vệ đóng ngắt và linh kiện; đồng vật liệu và phôi. Trong đó, dầu thô, quặng sắt và xăng dầu được dự báo là có tốc độ tăng nhập khẩu cao (60‐70% trong giai đoạn 2010‐2012 và 80‐ 85% trong giai đoạn 2013‐2015). Tuy nhiên, trong số các mặt hàng này, chỉ có một số ít mặt hàng thuộc nhóm mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Còn lại, những mặt hàng Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu từ Việt Nam sẽ bao gồm 20 68 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
mặt hàng chính30: (1). Động vật sống, sản phẩm động vật; (2). Sản phẩm thực vật, nông sản; (3). Dầu,mỡ động thực vật; (4). Thực phẩm, đồ uống, rượu, thuốc lá; (5). Khoáng sản; (6). Hóa chất; (7). Chất dẻo và chế phẩm, cao su; (8). Da và chế phẩm, va li túi xách; (9). Gỗ và chế phẩm; (10). Bột giấy, giấy; (11). Nguyên liệu dệt và sản phẩm; (12). Giày dép,mũ, ô dù, hoa nhân tạo; (13). Chế phẩm từ khoáng chất, đồ gốm sứ, kính; (14). Vàng bạc, đá quý, ngọc trai, đồ trang sức; (15). Kim loại và chế phẩm; (16). Sản phẩm cơ điện; (17). Xe cộ, tàu thuyền và thiết bị vận tải; (18). Thiết bị quang học, thiết bị y tế, đồng hồ, nhạc khí; (19). Vũ khí, thuốc nổ; (20). Tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm, đồ cổ. Một số mặt hàng như khoáng sản, hóa chất, da và chế phẩm, nguyên liệu dệt và sản phẩm, giày dép, mũ ô dù, hoa nhân tạo, chế phẩm từ khoáng chất, đồ gốm sứ, kính, sản phẩm cơ điện được dự báo có tốc độ tăng cao hơn cả, tuy nhiên cũng chỉ từ 20‐ 40%; các mặt hàng khác tốc độ tăng chỉ từ 2‐10% trong 3 năm tới và 8‐15% trong giai đoạn 2013 ‐ 2015. Thị trường Hoa Kỳ sẽ tăng cường nhập khẩu các mặt hàng may mặc, giày dép các loại, chế biến nông sản thực phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp, công nghệ thông tin (máy tính, các loại máy có công nghệ như máy ghi hình…), đồ nội thất, dụng cụ thể thao để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Giai đoạn 2013‐2015, khả năng kinh tế Hoa Kỳ sẽ hồi phục và tỷ lệ thất nghiệp có thể quay về mức khoảng trên 5%. Như vậy, chi tiêu tiêu dùng chiếm 70% nền kinh tế có khả năng được hồi phục và tăng trưởng. Cùng với khả năng mở rộng và phát triển sản xuất, cũng như quen thị trường, các dự án đầu tư của Hoa Kỳ đi vào hoạt động, các nhóm hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam sẽ tăng và một số nhóm hàng mới sẽ xuất hiện như cơ khí, công nghệ. Dựa trên dự báo của các nhà kinh tế Hoa Kỳ về kinh tế Hoa Kỳ và khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại Hoa Kỳ đã ước tính kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong các giai đoạn như sau: 30
Cục XTTM (2009), Kết quả khảo sát ý kiến Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài tháng 11/ 2009 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 69
BẢNG 11. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
TT
1
2
Mức tăng trưởng bình quân hàng năm
Tên mặt hàng
Dệt may
Da giày
2010- 2012
2013- 2015
2%-3%
3%-5%
12%-14%
12%-14%
3
Đồ gỗ và nội thất
-2%
2%-5%
4
Nông sản
-1%
3%-5%
5
Thủy hải sản
- 3%
2%-4%
6
Các mặt hàng CN, thủ CN khác và mặt hàng khác
8%-10%
10%-12%
7
Dầu mỏ, khí đốt, hóa dầu
-8%
2%-4%
8
Các sản phẩm cơ khí, công nghệ
3%-5%
5%-8%
Nguồn: Cục XTTM (2009), Kết quả khảo sát ý kiến Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài tháng 11/ 2009
Thị trường Nhật Bản: Những mặt hàng Việt Nam có tiềm năng xuất sang Nhật Bản đều nằm trong những mặt hàng Nhật Bản sẽ tăng cường nhập khẩu trong giai đoạn sắp tới. BẢNG 12. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
TT
Tên mặt hàng
Mức tăng trưởng bình quân hàng năm
2012- 2012
2013- 2015
1
Dệt may
10%
15%
2
Giày da
10%
15%
3
Dầu thô
5%
7%
4
Đồ gỗ
10%
10%
5
Gốm sứ
10%
10%
6
Dây điện
7%
10%
Nguồn: Cục XTTM (2009), Kết quả khảo sát ý kiến Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài tháng 11/ 2009
Thị trường EU: Mỗi thành viên trong EU có nhu cầu với hàng nhập khẩu khác nhau và do đó, thị phần cho hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ khác nhau. Thị trường Đức: sẽ nhập khẩu những mặt hàng: giày dép, dệt may, cà phê, đồ gỗ, đồ da, cao su thiên nhiên, máy móc thiết bị văn phòng, hàng chất dẻo, hàng gốm sứ. Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Đức như giày dép, dệt may, máy móc thiết bị văn phòng dự báo sẽ giảm (lần lượt giảm 10%, 5% và 70 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
20%) trong khi các mặt hàng như cà phê, đồ gỗ, thủy sản, chất dẻo tăng mạnh 20‐30%, các mặt hàng như gốm sứ, cao su tăng 5‐10%. Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ: nhóm hàng tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2010‐2012 gồm: may mặc, sợi; sản phẩm chất dẻo; giày dép; cao su và các sản phẩm từ cao su; gia vị (tiêu); đồ gỗ; máy móc thiết bị phụ tùng; linh kiện điện tử; thép và sản phẩm từ thép; máy, phụ tùng cơ khí. Mức tăng trưởng trưởng bình quân đạt 10‐15%/năm. Thị trường Bỉ: 10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Bỉ đều là những mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. BẢNG 13. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Bỉ
TT
Tên mặt hàng
Mức tăng trưởng bình quân hàng năm
2012- 2012
2013- 2015
1
Thuỷ hải sản
5-7%
3-5%
2
Giày dép
2-4%
5-7%
3
Cà phê
8-12%
15%
4
Valy, túi xách các loại
7-9%
10%
5
Hàng may mặc
10-13%
11%
6
Đồ gỗ gia dụng
17-20%
18%
7
Đá xây dựng
7-9%
10%
8
Ghế & các loại đệm ghế
12%
15%
9
Hàng tiêu dùng ,CN nhẹ &TCMN
10%
17%
10
Kim cương
5-7%
6%
Nguồn: Cục XTTM (2009), Kết quả khảo sát ý kiến Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài tháng 11/ 2009
Với một số thị trường nhỏ khác, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng nằm trong nhóm các mặt hàng trên, tuy tốc độ tăng trưởng cao nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn còn khiêm tốn. Ở thị trường châu Phi, Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu sang Nigeria những mặt hàng như: sản phẩm dệt may; máy tính, sản phẩm điện tử; săm lốp ô tô, xe máy; sản phẩm sắt và thép, gạch ốp lát; gạo; thủy sản; thuốc tân dược; phụ tùng ô tô, xe máy; sản phẩm cao su. Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mỗi mặt hàng bình quân đều từ 15‐20%. Nam Phi cũng là một thị trường lớn và rất tiềm năng đối với xuất khẩu Việt Nam. Căn cứ vào nhu cầu nhập khẩu của thị trường này, Việt Nam có thể Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 71
xuất khẩu dầu thô, thiết bị điện, nhựa và các sản phẩm từ nhựa, hóa chất, sắt thép, cao su, giấy, đồ sứ, giày da, đồ gỗ…. Với thị trường Nam Mỹ, Braxin là một đại diện nhập khẩu tiêu biểu của Việt Nam. Dự đoán mức (tỷ lệ) tăng trưởng hàng năm (2010 – 2015) về nhóm hàng có tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Braxin không cao chỉ từ 5‐
10% trong 3 năm tới và 5‐15% trong 3 năm tiếp theo. BẢNG 14. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Braxin
TT
Sản phẩm
2010 – 2012
(Tỷ lệ tăng trưởng)
2013 – 2015
(Tỷ lệ tăng trưởng)
1
Giày dép
Từ 5 đến 8 %
Từ 5 đến 8 %
2
Cơ khí, hàng điện tử
Từ 6 đến 10 %
Từ 6 đến 10 %
3
Hàng dệt may
Từ 5 đến 8 %
Từ 5 đến 8 %
4
Cao su
Từ 6 đến 15 %
Từ 8 đến 18 %
5
Valy, túi sách
Từ 5 đến 8 %
Từ 5 đến 8 %
6
Săm lốp
Từ 6 đến 15 %
Từ 8 đến 18 %
7
Sản phẩm nhựa, đồ chơi trẻ em
Từ 3 đến 5 %
Từ 5 đến 7 %
8
Bánh kẹo, hàng thực phẩm
Từ 3 đến 6 %
Từ 5 đến 8 %
9
Hàng thủ công, mỹ nghệ
Từ 6 đến 15 %
Từ 8 đến 18 %
10
Hoá chất
Từ 6 đến 15 %
Từ 8 đến 18 %
11
Gốm, sứ
Từ 6 đến 10 %
Từ 8 đến 15 %
12
Các loại khác
Từ 5 đến 10 %
Từ 5 đến 10 %
Nguồn: Cục XTTM (2009), Kết quả khảo sát ý kiến Cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài tháng 11/ 2009
Ngoài Braxin, Argentina cũng là một thị trường xuất khẩu mà Việt Nam cần quan tâm trong khu vực Nam Mỹ. Ngày 17/8/2007, Tổng cục Hải quan Argentina đã công bố Quyết định N°57/2007 về kiểm tra hàng hóa nhập khẩu để tránh hiện tượng gian lận thuế đối với hàng nhập khẩu bán phá giá hoặc đối với những sản phẩm không được hưởng ưu đãi thương mại xuất xứ từ Trung Quốc và các nước và vùng lãnh thổ nhóm G.4 (Grupo 4) bao gồm: CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Philippin, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Pakistan, Đài Loan, Thái Lan, Singapore và Việt Nam với mục đích ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu từ các thị trường này vào Argentina. Những mặt hàng bị hạn chế nhập khẩu bao gồm: Hàng dệt may, đồ chơi, túi xách, cặp, ví bằng vải hoặc nhựa, xe đạp và phụ tùng, lốp xe, bánh xe, mũi giày, hàng công nghệ thông tin, đồ điện tử, đồng hồ, hàng kim khí và dụng cụ. Như vậy, danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Argentina bị ảnh hưởng rất nhiều do những khó khăn 72 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
trong việc xuất khẩu những mặt hàng thuộc nhóm hạn chế trên. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Argentina những mặt hàng sau: dầu và khí thiên nhiên, máy móc, xe động cơ, hóa chất hữu cơ, nhựa…. Tóm lại, bảng tổng hợp ý kiến cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài cho thấy, trong thời gian ngắn hạn (2‐3 năm tới) cũng như trung hạn (5‐6 năm tới), dự báo hàng xuất khẩu Việt Nam không những vẫn duy trì được những mặt hàng truyền thống mà còn có cơ hội mở rộng danh mục hàng xuất khẩu. Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhìn chung cũng sẽ tăng đều đặn qua các năm trên tất cả các nhóm hàng, ngoại trừ một số mặt hàng sẽ có tốc độ tăng trưởng giảm như: đồ gỗ, nội thất; nông sản, thủy hải sản; dầu mỏ, khí đốt, hóa dầu (thị trường Hoa Kỳ) hay giày dép, dệt may, máy móc thiết bị văn phòng (thị trường Đức). Điều này được lý giải một mặt do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế dẫn tới sức cầu giảm, mặt khác do tác động từ những hàng rào phi thuế quan nhằm bảo hộ sản xuất nội địa của quốc gia nhập khẩu. 4. DỰ BÁO VỀ KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp trung bình trượt để bước đầu tiến hành dự báo về tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực (như hàng dệt may, hàng da giày, hàng thủy sản…) trong khoảng thời gian 2010‐2020 như sau: Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 73
74 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu sử dụng kết quả nghiên cứu từ trang web http://www.marketlineinfo.com để có được dự báo về tình hình xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2015. Theo đó, vượt qua khủng hoảng năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tìm được đà tăng trưởng mới và kim ngạch cũng như tốc độ tăng trưởng sẽ tăng lên đều đặn qua các năm. Đến năm 2015, dự tính kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt con số hơn 120 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng trung bình 18%/ năm. Nhóm nghiên cứu sử dụng dự báo nhận thấy tính chính xác trong dự báo này do cả lý do chủ quan và khách quan được nêu rõ trong dự báo của trang web http://www.marketlineinfor.com. Về chủ quan, sự hỗ trợ từ các hoạt động xúc tiến thương mại, các hiệp định thương mại và những cải tiến từ bản thân doanh nghiệp xuất khẩu đã giúp nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp, mở rộng thị trường và tăng kim ngạch. Về khách quan, kinh tế phục hồi và gia tăng dân số tại nước nhập khẩu là nguyên nhân làm tăng cầu nhập khẩu. BIỂU ĐỒ 8. Dự báo tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tới năm 2015
Nguồn: Marketlineinfo: http://www.marketlineinfo.com
5. CÁC KHUYẾN NGHỊ THAY ĐỔI CẦN THIẾT VỀ CHÍNH SÁCH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
XUẤT KHẨU
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, nhóm nghiên cứu đưa ra một số khuyên nghị thay đổi cần thiết như sau: Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 75
-
Khuyến nghị về các chính sách của Nhà nước -
Khuyến nghị về chính sách xúc tiến xuất khẩu -
Khuyến nghị về thị trường mục tiêu -
Khuyến nghị về việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu 5.1 Khuyến nghị về các chính sách của Nhà nước
Để nâng cao năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp, Nhà nước cần có các chính sách phù hợp nhằm tạo động lực cho các doanh nghiệp đầu tư, xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, cụ thể: • Nhà nước cần sớm ban hành chính sách và cơ chế tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư, xuất khẩu vào các thị trường mới hoặc các thị trường nhiều rủi ro. • Nhà nước nên đẩy mạnh cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài và buôn bán quốc tế, nhất là đầu tư vào những nước có tiềm năng sản xuất hàng hóa không chỉ phục vụ thị trường nước sở tại mà còn xuất khẩu ra thị trường thế giới, nhằm tạo ra bộ phận kinh tế mềm của nước ta ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. • Ngoài ra, Nhà nước cũng cần xây dựng bộ cơ sở dữ liệu thống nhất và đầy đủ về các doanh nghiệp Việt Nam nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin về đối tác và/hoặc các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội để tìm hiểu nguồn thông tin chính thống về đối tác Việt Nam, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động phát triển kinh doanh trong nước cũng như quốc tế, đồng thời giúp minh bạch hóa hệ thống thông tin doanh nghiệp. 5.2 Khuyến nghị về chính sách xúc tiến xuất khẩu
Xúc tiến xuất khẩu được coi là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong quá trình tiếp cận thị trường của sản phẩm xuất khẩu. Công tác xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam tính đến năm 2009 được đánh giá là tương đối hiệu quả. Các sự kiện xúc tiến xuất khẩu cấp quốc gia được tổ chức ngày càng chuyên nghiệp hơn, mang lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh quốc tế gay gắt như hiện nay, công tác xúc tiến xuất khẩu vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, làm giảm tính cạnh tranh 76 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế như đã chỉ ra ở phần 2 của báo cáo nghiên cứu này. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế này, nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyên nghị như sau: • Nâng cao hiệu quả và chất lượng của các chương trình xúc tiến thương mại cấp quốc gia, ưu tiên việc tuyên truyền, tìm kiếm hợp đồng và khách hàng lớn, lâu dài, tránh việc chỉ tập trung vào bán hàng trực tiếp tại các hội chợ triển lãm; Tiến tới xây dựng tiêu chí và quy chế xây dựng gian hàng chuẩn quốc gia trong các sự kiện xúc tiến xuất khẩu; Cải tiến công tác xúc tiến thương mại, không làm diện rộng và tuyên truyền chung chung mà cần làm sâu từng trọng điểm, chuyên ngành, chuyên đề sản phẩm; Nâng cao khả năng thu thập thông tin, phân tích thị trường của các cơ quan đại diện thương mại ở nước nước ngoài, các tổ chức xúc tiến thương mại cũng như của doanh nghiệp tham gia. • Thay đổi, đổi mới cách tiếp cận thị trường truyền thống như tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, giảm chi phí... Nên áp dụng hình thức này với những thị trường mới, kinh tế chưa phát triển, thiếu thông tin hoặc tháp tùng các đoàn cấp cao của nhà nước đi công tác nước ngoài. Không nên tổ chức quá nhiều đoàn xúc tiến thương mại theo cách tổ chức hội thảo giới thiệu tiềm năng, tìm hiểu cơ hội giao thương vào một thị trường trong một thời gian quá gần nhau vì nội dung mặt hàng giới thiệu của Việt Nam đa phần là giống nhau (may mặc, giày dép, nông sản, thủ công mỹ nghệ…). Nên kết hợp tham gia triển lãm quốc tế tại nước sở tại nhiều hơn vì đây là cơ hội tốt để giao lưu với khách hàng, giới thiệu hàng hóa Việt Nam, không chỉ có nước sở tại mà còn có các doanh nghiệp ở nước khác tới tham dự. • Các chương trình xúc tiến thương mại cần phải được xây dựng ổn định trước 1‐2 năm để các doanh nghiệp trong và nước ngoài biết trước, lập kế hoạch chủ động tham gia. Ngoài ra, việc duyệt kinh phí các chương trình xúc tiến thương mại hàng năm nên theo cơ chế “mềm”, nghĩa là không nhất thiết các chương trình phải được duyệt từ cuối năm trước, mà trong năm nên có bổ sung cho phù hợp. Chương trình nào không kịp thực hiện trong năm thì có thể chuyển sang năm sau, tránh việc buộc phải thực hiện trước khi hết năm. Yêu cầu Bộ Công Thương chủ động trao đổi với Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính sớm xác lập cơ chế sử dụng Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 77
kinh phí dành cho chương trình xúc tiến thương mại đối với các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài. • Xem xét việc thiết lập mục giới thiệu năng lực sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trên trang web của Bộ Công Thương, Cục Xúc tiến Thương mại nhằm giới thiệu cho khách hàng quốc tế, khách hàng trong nước cũng như cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài về doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước , từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quảng bá hàng xuất khẩu của Việt Nam. • Nâng cao năng lực của các cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài là công tác rất quan trọng, yêu cầu từng bước phải có chiến lược nâng cao năng lực của đội ngũ tham tán, tùy viên thương mại. Bằng cách đạo tạo chuyên môn hóa đội ngũ thay nhau chuyên làm công tác này, có chuyên môn cao về hoạt động thuơng mại quốc tế, nắm rõ luật lệ chính sách thương mại mang tính toàn cầu, ngoại ngữ giỏi. Do vậy, cần bổ sung thêm lực lượng cán bộ ở các cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài để có thể có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu, khảo sát nhu cầu thị trường. • Tiếp tục triển khai thành lập các Trung tâm xúc tiến thương mại và giới thiệu sản phẩm tại các thị trường trọng điểm để cung cấp thông tin hai chiều cho các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp các nước sở tại; Quảng bá hình ảnh quốc gia và thương hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam. Các trung tâm này giữ vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp sở tại, là địa chỉ tin cậy của Việt Nam với các cơ quan nhà nước, các hiệp hội, doanh nghiệp Việt Nam tại các thị trường này. • Cần hoàn thiện và ban hành cơ chế tài chính ổn định cho hoạt động xúc tiến thương mại, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của xúc tiến xuất khẩu. Đây là cách thức hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn tuân thủ theo các quy định của WTO là không hỗ trợ xuất khẩu một cách trực tiếp. Hàng năm nhà nước cần phải cân đối một tỉ lệ ngân sách nhà nước nhất định và ổn định cho hoạt động xúc tiến thương mại. Kinh phí cần giao trực tiếp cho Bộ Công Thương, cơ quan được nhà nước giao trách nhiệm quản lý và điều hành hoạt động xúc tiến thương mại trên toàn quốc nhằm tăng tính chủ động và đảm bảo việc điều hành kịp thời về thị trường, mặt hàng xuất khẩu theo sự biến động liên tục của thực tiễn. 78 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
• Nâng cao hiệu quả của các đoàn doanh nghiệp tháp tùng lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ… đi công tác nước ngoài. Cần sớm lập kế hoạch về công tác xúc tiến thương mại và đầu tư và chuẩn bị đầy đủ thông tin cần thiết để có thể cung cấp cho đối tác một cách chính xác và hiệu quả. • Cần kết hợp các hoạt động xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư và xúc tiến du lịch trong các hoạt động mang tầm quốc gia tại các thị trường. 5.3 Khuyến nghị về hàng hóa xuất khẩu và thị trường mục tiêu
Như đã phân tích trong phần dự báo về thị trường xuất khẩu, trong thời gian tới, các quốc gia Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc sẽ trở thành một nền kinh tế tiêu dùng mới nổi. Điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc sẽ tăng cao. Tình hình tương tự cũng sẽ xảy ra tại Ấn Độ hay Indonesia. Như vậy, bên cạnh những khách hàng truyền thống với kim ngạch nhập khẩu lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, việc xuất hiện một loạt thị trường Châu Á mới nổi rõ ràng là một tín hiệu tốt cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu sang các quốc gia và vùng lãnh thổ này, Việt Nam sẽ tận dụng được lợi thế về khoảng cách địa lý và nhiều nét tương đồng về văn hóa. Do đó sẽ mang lại một số thuận lợi trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu. Chính vì vậy, khuyến nghị của nhóm nghiên cứu đưa ra cho xuất khẩu Việt Nam trong tương lai gần là hướng về thị trường Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của các quốc gia này. Với ba thị trường lớn là Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, Việt Nam nên chú trọng các mặt hàng sau: -
Thị trường Hoa Kỳ: các mặt hàng như: dệt may, da giày, đỗ gỗ và sản phẩm nội thất, nông sản, thủy hải sản, dầu mỏ, khí đốt… -
Thị trường Nhật Bản: dệt may, giầy da, dầu thô, đồ gỗ, gốm sứ, dây điện… -
Thị trường EU: giày dép, dệt may, cà phê, đồ gỗ, đồ da, thủy hải sản, cao su thiên nhiên, máy móc thiết bị văn phòng, hàng chất dẻo, hàng gốm sứ… Ngoài ba thị trường lớn này, cơ hội mở ra cho xuất khẩu Việt Nam ở các thị trường mới nổi Châu Á gồm những mặt hàng sau: Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 79
-
Trung Quốc: Động vật sống, sản phẩm động vật; Sản phẩm thực vật, nông sản; Dầu, mỡ động thực vật; Thực phẩm, đồ uống, rượu, thuốc lá; Khoáng sản; Hóa chất; Chất dẻo và chế phẩm, cao su; Da và chế phẩm, va li túi xách; Gỗ và chế phẩm; Bột giấy, giấy; Nguyên liệu dệt và sản phẩm; Giày dép,mũ, ô dù, hoa nhân tạo; Chế phẩm từ khoáng chất, đồ gốm sứ, kính; Vàng bạc, đá quý, ngọc trai, đồ trang sức; Kim loại và chế phẩm; Sản phẩm cơ điện; Xe cộ, tàu thuyền và thiết bị vận tải; Thiết bị quang học, thiết bị y tế, đồng hồ, nhạc khí; Vũ khí, thuốc nổ; Tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm, đồ cổ… -
Ấn Độ: Gạo, cà phê, hạt tiêu, đường, hóa chất, dầu thô… -
Indonesia: máy móc thiết bị, hóa chất, nhiên liệu, thực phẩm, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, vải sợi các loại, máy tính và sản phẩm linh kiện điện tử… 5.4 Khuyến nghị về việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (Global value chain)
Hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản, dệt may, khi tham gia xuất khẩu vẫn bị xếp vào nhóm hàng gia công, sơ chế hoặc nguyên liệu thô, tức là giá trị thấp nên mặc dù khối lượng xuất khẩu lớn nhưng giá trị gia tăng không nhiều, dẫn đến giá trị xuất khẩu không cao. Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu Việt Nam, các cơ quan nhà nước nên tập trung cho việc cung cấp thông tin thị trường và thực hiện các chương trình xúc tiến mang tầm cỡ quốc gia, tập trung vào chiến lược xây dựng thương hiệu đối với những mặt hàng Việt Nam đã xuất khẩu và được thị trường thế giới chấp nhận như gạo, cà phê, thủ công mỹ nghệ…; Từng bước thiết lập hệ thống phân phối tại các nước và khu vực trên thế giới để mang lại giá trị xuất khẩu cao. Hiện nay, chúng ta chưa có hệ thống phân phối nên các nhà sản xuất Việt Nam chỉ như các đại lý sản xuất và cung cấp cho các nhà phân phối nước ngoài mà hoàn toàn không chủ động và điều hành được giá xuất khẩu, trong khi Việt Nam có thể làm được tốt hơn so với thực tế hiện tại. 5.5 Khuyến nghị chương trình hành động
80 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 81
82 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 83
84 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
PHỤ LỤC 1
MÔ TẢ MÔ HÌNH TRỌNG LỰC
MÔ HÌNH TRỌNG LỰC – GRAVITY MODEl
Mô hình có dạng như sau: Lnexp = βo+ β1 lnYi + β2lnYj + β3 D j + β4 tai + β5 Border + β6 lnPj + eij Trong đó: - Xij là kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường j - Yi là GDP của Việt Nam - Yj là GDP của nước mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa - Dj là khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và nước mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa. Biến khoảng cách được lấy căn bậc hai nhằm chuẩn hóa phân phối của biến khoảng cách. - Pj là dân số của nước j - TA (Trade Agreement) là biến giả, nhận giá trị 1 nếu Việt Nam có hiệp định thương mại song phương với nước mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa, tại thời điểm mà số liệu được thu thập, nhận giá trị 0 nếu Việt Nam không có hiệp định thương mại song phương với các nước mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa, tại thời điểm mà số liệu được thu thập. Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 85
- Border là biến giả, nhận giá trị 1 nếu Việt Nam có chung đường biên giới với nước mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa, nhận giá trị 0 nếu Việt Nam không có chung đường biên giới với nước mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa. - eij là sai số có phân phối chuẩn với trung bình cộng bằng 0 và phương sai không đổi. Kết quả phân tích sử dụng mô hình trọng lực
Chỉ số của các biến giải thích trong mô hình trọng lực
Chỉ số
Chỉ số thống kê t31
Khoảng tin cậy ở mức 95%
lnGDP
1,2
24,5
1,1 đến1,3
lnP
-0,7
-12,4
-0,86 đến -0,62
Hiệp định thương mại
0,7
3,9
0,34 đến1,05
Biên giới
2,1
10,8
1,7 đến 2,5
Căn bậc hai khoảng cách
0,02
-6,0
-0,03 đến -0,01
Chỉ số chặn
-12,6
-4,2
-6,7 đến -2,4
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
31
Có tính chất thống kê ở mức trên 99% 86 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
PHỤ LỤC 2
MÔ TẢ PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO
TRUNG BÌNH TRƯỢT
PHƯƠNG PHÁP THỨ NHẤT:
- Dự báo được đưa ra bằng cách tính trung bình cộng giản đơn của kim ngạch xuất khẩu 3 năm liên tiếp trước đó. B4 = [B3 + B2 + B1)]/3 Ở đó: + B4: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 4 + B3: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 3 + B2: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 2 + B1: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 1 - Sai lệch được xác định là phần chênh lệch giữa kết quả dự báo và thực tế diễn ra. - Độ lệch chuẩn được xác định là bình phương của sai lệch qua các năm PHƯƠNG PHÁP THỨ HAI:
- Việc xác định kim ngạch dự báo cho năm thứ 4 sẽ được xác định căn cứ vào kim ngạch xuất khẩu của 3 năm liên tiếp trước đó. Công thức cụ thể như sau: Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 87
B4 = B3 + [(B3‐B2) + (B2‐B1)]/2 Ở đó: + B4: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 4 + B3: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 3 + B2: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 2 + B1: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 1 - Sai lệch được xác định là phần chênh lệch giữa kết quả dự báo và thực tế diễn ra. - Độ lệch chuẩn được xác định là bình phương của sai lệch qua các năm. PHƯƠNG PHÁP THỨ BA:
- Việc xác định kim ngạch dự báo cho năm thứ 4 sẽ được xác định căn cứ vào kim ngạch xuất khẩu của 3 năm liên tiếp trước đó. Công thức cụ thể như sau: B4 = B3+((B3‐B2)/B2+(B2‐B1)/B1)/2 Ở đó: + B4: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 4 + B3: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 3 + B2: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 2 + B1: Kim ngạch xuất khẩu của năm thứ 1 - Sai lệch được xác định là phần chênh lệch giữa kết quả dự báo và thực tế diễn ra. - Độ lệch chuẩn được xác định là bình phương của sai lệch qua các năm. 88 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
PHỤ LỤC 3
KẾT QUẢ KHẢO SÁT DOANH NGHIỆP
BAN ĐẦU
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, trong năm 2009, Cục Xúc tiến thương mại‐ Bộ Công Thương và Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển đã khảo sát 49 doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu. Nội dung khảo sát gồm thông tin về các mặt hàng chủ lực của các doanh nghiệp, sự đánh giá của doanh nghiệp về tính cạnh tranh của sản phẩm trong nước cũng như những yếu tố thuận lợi hoặc cản trở hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Nội dung điều tra nhằm mục đích có cái nhìn tổng quan về điều kiện, tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như những khó khăn và kiến nghị của doanh nghiệp đối với nhà nước trong hoàn cảnh Việt Nam hội nhập thế giới. Do thời gian hạn hẹp, lượng phiếu thu về trong năm 2009 mới chỉ dừng ở con số 49, nên những thông tin nêu trong phụ lục này mang ý nghĩa tham khảo ban đầu. Trong nhóm doanh nghiệp được khảo sát có sáu loại hình kinh doanh chính, trong đó doanh nghiệp dệt may chiếm tỷ lệ cao nhất 23,7%, thủ công mỹ nghệ chiếm 27,1%, thủy sản chiếm 15,3% , cao su chiếm 11,9%, còn lại là thực phẩm và đồ uống cùng là 6,8%, nông lâm sản là 3,4%. Ngoài ra còn một số doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực khác như bóng thể thao, sản xuất hàng gia dụng (số lượn phiếu nhỏ nên tỷ lệ % ít ý nghĩa). Số năm trung bình hoạt động của các doanh nghiệp là 15 năm. Đa số các doanh nghiệp đều tham gia hoạt động xuất khẩu (50,8% số doanh nghiệp trả Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 89
lời) ngay sau khi thành lập, từ sau 3‐5 năm có 33,9%. Trong đó, tham gia xuất khẩu ngay sau khi thành lập ở doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm và đồ uống là 33,3%, các doanh nghiệp kinh doanh thủ công mỹ nghệ là 57,1%, doanh nghiệp kinh doanh nông lâm sản là 100%, doanh nghiệp dệt may là 30.8%, doanh nghiệp thủy sản là 77,8%, doanh nghiệp cao su là 66,7%. Có 18/49 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung cấp trên thị trường thế giới trong khi đó có tới 31/49 doanh nghiệp không tham gia những chuỗi cung cấp dạng này. Cách thức mà các doanh nghiệp tham gia thị trường cung cấp khá đa dạng, như: đặt văn phòng chi nhánh tại nước ngoài, trực tiếp là nhà sản xuất tham gia vào chuỗi, cung ứng hàng cho các nhà hàng, siêu thị, cung cấp nguyên vật liệu, tham gia bán lẻ vào các nhà hàng, quán ăn hay tham gia như một nhà cung cấp. Dưới đây là một số thông tin thu được ban đầu: Đánh giá sản phẩm cạnh tranh cùng loại từ nước khác
Đối với hầu hết các tiêu chí so sánh, các doanh nghiệp trả lời đều đánh giá sản phẩm trong nước tương đương với các sản phẩm đến từ nước ngoài về nhiều mặt. Chất lượng và tính đa dạng mẫu mã sản phẩm của hàng hóa Việt Nam được đánh giá là tốt hơn hẳn so với hàng hóa từ bên ngoài. Có đến 57,4% doanh nghiệp khẳng định điều này. Các yếu tố khác như là giá cả, khả năng, quy mô cung ứng cũng được xem là ưu thế hơn hàng ngoại. Tuy nhiên hoạt động xúc tiến thương mại, dịch vụ bán hàng và các yếu tố khác của hàng nội được đánh giá là kém hơn so với hàng ngoại. Nhưng nhìn chung lại, các doanh nghiệp đều có cái nhìn khả quan về tính cạnh tranh của hàng trong nước. Các yếu tố tạo nên sự thành công của các sản phẩm của doanh nghiệp
Biểu đồ thứ tự các yếu tố tạo nên thành công cho sản phẩm
%
100
90
100
,
82.4
80
70
,
60
47.1
50
40
30
,
56.9
50
,
41.2
,
13.3
20
10
0
Giá cả
Chất
lượng
90 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Dịch vụ Công
Quảng Yếu tố
Thiết
kế/phát đi kèm nghệ/ kỹ cáo, xúc khác
thuật
tiến
triển sản
thương
phẩm
mại
Theo sự đánh giá của các doanh nghiệp, để tạo nên sự thành công cho một sản phẩm cần rất nhiều yếu tố như giá cả, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, quảng cáo…, nhưng chất lượng, giá cả và công nghệ/kỹ thuật luôn là những yếu tố hàng đầu. Chất lượng tốt, giá thành phải chăng luôn được mọi người tiêu dùng trong nước cũng như ngoài nước đánh giá cao. Để có sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hạ thì việc đổi mới công nghệ, kỹ thuật là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, các dịch vụ đi kèm với sản phẩm (khuyến mãi, bảo hành….) hay đổi mới, phát triển sản phẩm hoặc quảng cáo, xúc tiến thương mại cũng là những yếu tố rất cần thiết để tạp nên thành công cho sản phẩm xuất khẩu. Theo các doanh nghiệp, có nhiều yếu tố tạo nên sức cạnh tranh cho sản phẩm, hàng hóa. Dưới đây là bảng xếp hạng các yếu tố tạo nên thế mạnh cạnh tranh. Các yếu tố tạo nên thế mạnh cạnh tranh cho sản phẩm
70
58
60
61,2
61,2
49
50
42
40
32,7
30
17,9
20
10
0
Nguồn gốc,
xuất xứ
Chất lượng
Sự đa dạng của
sản phẩm
Dịch vụ bán
hàng
Khả năng, quy
mô cung cấp
Các hoạt động
XTTM
Yếu tố khác
Chất lượng là yếu tố hàng đầu quyết định đến sự thành công của sản phẩm. Tuy nhiên để hàng hóa có sức cạnh tranh cao thì chất lượng thôi chưa đủ. Theo các doanh nghiệp để vượt qua được đối thủ đến với thị trường rộng lớn hơn và khó tính thì sự đa dạng của sản phẩm cũng như khả năng quy mô, cung cấp hàng hóa của doanh nghệp mới là những yếu tố quyết định đầu tiên (61,2%). Chất lượng của sản phẩm đứng thứ 3 (58%), các hoạt động xúc tiến đứng thứ 4 (49%). Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 91
Các khó khăn các doanh nghiệp xuất khẩu gặp phải
Việc tiếp xúc với thị trường xuất khẩu lần đầu tiên của các doanh nghiệp thường là do đối tác tự tìm kiếm (67,4%), qua tiếp cận thông qua triển lãm hội chợ (59,6%) hoặc qua các kênh thông tin hỗ trợ xuất khẩu (37%). Do đó các doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn khi tham gia thị trường xuất khẩu thế giới. Đánh giá các yếu tố khó khăn trên thị trường xuất khẩu
,
42.9
Khá khăn khác
Điều kiện trước bán hàng, sau bán hàng
,
13.5
Dịch vụ vận tải, giá cước
39
,
71.1
Sự cạnh tranh
,
53.3
Quy định về chất lượng, kỹ thuật,…
Quy định thương hiệu bản quyền
,
12.8
,
42.9
Quy định về y tế, an toàn
Chính sách thuế, hạn ngạch
,
27.5
%
Qua biều đồ trên ta nhận thấy rõ các yếu tố gấy khó khăn cho sản phẩm hàng hóa của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, sự cạnh tranh của các hàng hóa khác là cản trở nhiều nhất (71,1%), các quy định về chất lượng, kỹ thuật cũng là khó khăn không nhỏ (53,3%). Các quy định về y tế và an toàn cũng là yếu tố gây cản trở nhiều trên thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Gần 40% số doanh nghiệp được hỏi cũng cho rằng dịch vụ vẩn tải và giá cước cũng là cản trở với hàng xuất khẩu. Trong khi đó vấn đề thương hiệu, bản quyền dường như không phải là một khó khăn lớn của doanh nghiệp trên thị trường thế giới (12,8%). 92 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bandyopadhyay (2009), Effects of “Export Promotion” and “Import Substitution” on Poverty, Inequality and Growth in India: An analysis in ʺclosed loopʺ Input‐
Output framework, Văn phòng thống kê, Đại học KALYANI, Ấn Độ. 2.
Boumellassa, Houssein & Valin Hugo (2008). Vietnam’s accession to WTO: Ex‐
post evaluation in a dynamic perspective. CEPPI working paper, no 2008‐31 December. 3.
Bộ Công thương (2009) Báo cáo tóm tắt tình hình hoạt động công nghiệp và thương mại 11 tháng đầu năm 2009 4.
Bộ Thương mại (2006) Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 5 năm 2006‐2010. 5.
Bùi Ngọc Sơn (2009), Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường. Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông. 6.
CISDOMA (2003) Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Lao động Xã hội. Cục XTTM (2008) Báo cáo chương trình xúc tiến thương mại quốc gia ba năm 2006‐2008, Bộ Công thương. David Camino (1992) Export Promotion Policies in Spain and other EEC countries: System and the Performance. 7.
8.
9.
Dollar, David (2002). Reform, growth and poverty in Vietnam. The paper presented at the workshop on “Economic growth and Household welfare: Policy lesson for Vietnam”, Hanoi 2001. 10. Đỗ Trọng Khanh (2008), Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa của Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế và Tài chính lần 7, 26‐27/02/2008 Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 93
11. Eric Beinhocker & Elizabeth Stephenson, Trend to Watch: Shifting Consumption Patterns, Harvard Business Review, 28 August 2009 12. Fukase, E. and W. Martin (1999a) The Effect of the United States’ Granting Most Favored Nation Status to Vietnam, World Bank Policy Research Working Paper 2219. 13. Fukase, E. and W. Martin (1999b) A Quantitative Evaluation of Vietnam’s Accession to the ASEAN Free Trade Area, World Bank Policy Research Working Paper 2220. 14. Gujarati D., N. (2003) Basic Econometrics, New York 15. Parker, S., Phan, Vinh Quang., and Ngoc Anh, Nguyen. Has the US‐Vietnam Bilateral Trade Agreement led to higher FDI into Vietnam? International Journal of Applied Economics, 2(2), September 2002, pp199‐223. 16. Phạm Thu Hương (2007) Xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam – Cơ hội và thách thức khi hội nhập WTO, Nhà xuất bản Lý luận chính trị. 17. Tổng cục hải quan (2009) Tình hình triển khai dự án hiện đại hóa Hải quan, Tổng cục Hải quan 18. Trần Sửu (2006), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa, Nhà xuất bản lao động 19. VBF (2007) Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam: Có cấn phải kiểm soát chặt, Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam. 20. Verbeek (2004) A guide to modern Econometrics, Chichester, Wiley 21. Vnexpress (2009) Việt Nam tăng bậc trong xếp hạng chống tham nhũng, Báo Vnexpress, http://vnexpress.net/GL/The‐gioi/2009/11/3BA15C6A/ (lần truy cập gần đây nhất 19/11/2009). 22. World Bank (2007) Export Promotion Agencies: What Works and What Doesn’t, Policy Research Working Paper http://econ.worldbank.org/external/default/main?pagePK=64165259&theSite
PK=469382&piPK=64165421&menuPK=64166093&entityID=000016406_2007
0323095724 (lần truy cập gần đây nhất 13/11/1009). 94 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009-2010
Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) 95
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG ‐ XÃ HỘI Ngõ Hòa Bình 4 ‐ Minh Khai ‐ Hai Bà Trưng ‐ Hà Nội Điện thoại: (84‐4) 3 624 6921 ‐ Fax: (84‐4) 3 624 6915 BÁO CÁO XÚC TIẾN XUẤT KHẨU 2009 ‐ 2010 Chịu trách nhiệm xuất bản: HÀ TẤT THẮNG Biên tập: ĐINH THANH HÒA Trình bày: NGUYỄN THỊ HÀ Bìa: TRẦN VĂN PHƯỢNG Sửa bản in: TRẦN THANH THỦY In 1.000 bản, khổ 20 x 28 cm tại Công ty Cổ phần in Thương mại ‐ Prima. Số đăng ký kế hoạch xuất bản 1157‐2009/CXB/08‐415/LĐXH Quyết định xuất bản số 800/QĐ‐NXBLĐXH.