ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA GIỐNG
Transcription
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA GIỐNG
ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM BÙI VĂN LỢI ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA GIỐNG CỪU PHAN RANG NUÔI Ở THỪA THIÊN HUẾ LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP HUẾ - NĂM 2014 ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM BÙI VĂN LỢI ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA GIỐNG CỪU PHAN RANG NUÔI Ở THỪA THIÊN HUẾ Chuyên ngành: Chăn nuôi Mã số: 62.62.01.05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. LÊ ĐỨC NGOAN 2. PGS.TS. NGUYỄN XUÂN BẢ HUẾ - NĂM 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của chính bản thân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, khách quan, chính xác và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Các tài liệu tham khảo trong luận án đã được trích dẫn đầy đủ, rõ ràng, đúng quy định. Huế, ngày tháng năm 2014 Tác giả luận án NCS. Bùi Văn Lợi LỜI CÁM ƠN Hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình và sự quan tâm giúp đỡ quý báu của tập thể thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS. Lê Đức Ngoan, PGS.TS. Nguyễn Xuân Bả, Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm – Đại học Huế. Tôi cũng đã nhận được những ý kiến góp ý có giá trị về khoa học của PGS.TS. Nguyễn Tiến Vởn, PGS.TS. Nguyễn Hữu Văn, TS. Lê Văn Phước, PGS.TS. Đàm Văn Tiện, PGS.TS. Lê Đình Phùng và quý thầy cô giáo trong Hội đồng tư vấn nghiên cứu sinh Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm – Đại học Huế. Trong quá trình nghiên cứu, tôi cũng đã nhận được sự giúp đỡ tận tình và tạo điều kiện về mọi mặt của quý thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Đại học Huế. Nhân dịp này, tôi xin trân trọng cám ơn: - Ban Giám đốc, Ban Đào tạo, Ban Công tác học sinh, sinh viên Đại học Huế; - Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học; Lãnh đạo khoa Chăn nuôi Thú y, Bộ môn Chăn nuôi chuyên khoa, Bộ môn Sinh hóa - Dinh dưỡng động vật, Trung tâm phân tích thuộc khoa Chăn nuôi Thú y; Ban quản lý và cán bộ Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An, Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Huế; - Ban Giám hiệu, Lãnh đạo Khoa Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế; - Khoa Huyết học truyền máu Bệnh viện trường Đại học Y Dược - Đại học Huế; - Phòng Phân tích thức ăn và các sản phẩm chăn nuôi thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia Hà Nội; Ban Lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu dê, thỏ Sơn Tây, Hà Nội; Ban lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm dê, cừu Ninh Thuận thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia Hà Nội. Tôi cũng đã nhận được sự hợp tác, giúp đỡ, động viên quý báu của các anh chị em học viên cao học khóa 14 và các sinh viên khóa 39, 40, 41 khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm; sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế; đặc biệt là sự động viên, cỗ vũ, giúp đỡ của gia đình, anh chị em, bạn bè và đồng nghiệp. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của mình đối với mọi sự quan quan tâm giúp đỡ quý báu đó. Nghiên cứu sinh Bùi Văn Lợi CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Chữ viết tắt ADF Dịch nghĩa Axit Detergent Fibre Xơ không tan trong môi trường a xit (xơ axit) ADG Average Daily Gain - Tăng trọng trung bình ngày ANOVA Analysis of Variance - Phân tích phương sai Ash Khoáng BV Biological Value - Giá trị sinh học CF Crude Fibre - Xơ thô CP Crude Protein - Protein thô CS Cộng sự CV Cao vây DE Digestible Energy - Năng lượng tiêu hóa DM Dry Matter - Vật chất khô DMI Dry Matter Intake - Vật chất khô ăn vào DTC Dài thân chéo GE Gross Energy - Năng lượng thô GLM General Linear Model - Mô hình phân tích tuyến tính tổng quát Hb Hemoglobin - Huyết sắc tố Hem Hematocrit LW Liveweight - Khối lượng cơ thể sống M Mean - Giá trị trung bình ME Metabolisable Energy - Năng lượng trao đổi ML Mùa lạnh MN Mùa nóng N Nitrogen - Nitơ NDF Neutral Detergent Fibre Xơ không tan trong môi trường trung tính (xơ trung tính) NE Net Energy - Năng lượng thuần NPN Non Protein Nitrogen - Nitơ phi protein OM Organic matter - Chất hữu cơ P Probability - Xác suất R Regression coefficient - Hệ số hồi quy RBC Red Blood Cell - Hồng cầu RH Relative Humidity - Ẩm độ tương đối SD Standard Deviation - Độ lệch chuẩn SEM Standard Error of Mean - Sai số của giá trị trung bình SL Số lượng T Temperature - Nhiệt độ TA Thức ăn THI Temperature Humidity Index - Chỉ số nhiệt ẩm TL Tỷ lệ UBND Ủy ban nhân dân VN Vòng ngực WBC White Blood Cell - Bạch cầu MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN LỜI CÁM ƠN CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH MỞ ĐẦU 1 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1 2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 4 3. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 4 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5 1.1. 5 TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI CỪU TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC 1.1.1. Vai trò của ngành chăn nuôi cừu 5 1.1.2. Tình hình phát triển chăn nuôi cừu trên thế giới 6 1.1.2.1. Số lượng và sự phân bố đàn cừu 6 1.1.2.2. Sản phẩm chăn nuôi cừu 7 1.1.2.3. Giống và công tác giống cừu 7 1.1.2.4. Chăn nuôi cừu ở châu Á 9 1.1.3. Tình hình phát triển chăn nuôi cừu ở Việt Nam 10 1.1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển chăn nuôi cừu 10 1.1.3.2. Số lượng và sự phân bố đàn cừu 11 1.1.3.3. Sản phẩm chăn nuôi cừu 13 1.1.3.4. Giống và công tác giống cừu 13 1.1.3.5. Đặc điểm chăn nuôi cừu ở Việt Nam 13 1.1.3.6. Nghiên cứu về sinh lý, sinh trưởng, sinh sản và dinh dưỡng của 15 cừu Phan Rang 1.2. QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VỚI CÁC CHỈ TIÊU 17 SINH LÝ CỦA CỪU 1.2.1. Trao đổi nhiệt của cừu với môi trường 17 1.2.2. Nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm 18 1.2.2.1. Nhiệt độ không khí 18 1.2.2.2. Độ ẩm không khí 19 1.2.2.3. Chỉ số nhiệt ẩm 20 1.2.3. 26 Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý của cừu 1.2.3.1. Thân nhiệt 26 1.2.3.2. Tần số hô hấp 28 1.2.3.3. Nhịp tim 29 1.2.3.4. Nhiệt độ da 30 1.2.4. 31 Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý máu của cừu 1.2.4.1. Hồng cầu 31 1.2.4.2. Hemoglobin 31 1.2.4.3. Hematocrit 32 1.2.4.4. Bạch cầu 33 1.3. 34 QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VỚI KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA CỪU 1.3.1. Quan hệ giữa môi trường với khả năng sinh trưởng của cừu 34 1.3.2. Quan hệ giữa môi trường với khả năng sinh sản của cừu 37 1.4. QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VỚI LƯỢNG THỨC 39 ĂN THU NHẬN CỦA CỪU 1.4.1. Lượng thức ăn thu nhận của cừu 39 1.4.2. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với lượng thức ăn thu 41 nhận của cừu 1.5. MỘT SỐ THỨC ĂN CHO CỪU 43 1.5.1. Cỏ tự nhiên 43 1.5.2. Cỏ voi 44 1.5.3. Cây mít 46 1.5.4. Cây duối 46 1.6. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ 48 NHIÊN VÀ KHÍ HẬU THỜI TIẾT Ở CÁC ĐIỂM NGHIÊN CỨU 1.6.1. Điều kiện tự nhiên và khí hậu thời tiết ở tỉnh Ninh Thuận 48 1.6.1.1. Điều kiện tự nhiên 48 1.6.1.2. Khí hậu, thời tiết 48 1.6.2. 49 Điều kiện tự nhiên và khí hậu thời tiết ở tỉnh Thừa Thiên Huế 1.6.2.1. Điều kiện tự nhiên 49 1.6.2.2. Khí hậu, thời tiết 49 CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 53 2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 53 2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 54 2.3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 55 2.3.1. Nội dung 1. Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm ở 55 Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận 2.3.1.1. Xác định nhiệt độ và ẩm độ 55 2.3.1.2. Xác định chỉ số nhiệt ẩm 56 2.3.1.3. Phương pháp xử lý số liệu 56 2.3.2. 56 Nội dung 2. Xác định quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm với các chỉ tiêu sinh lý 2.3.2.1. Nuôi dưỡng 56 2.3.2.2. Xác định các chỉ tiêu sinh lý 57 2.3.2.3. Xác định các chỉ tiêu sinh lý máu 58 2.3.2.4. Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm 58 2.3.2.5. Phương pháp xử lý số liệu 59 2.3.3. 59 Nội dung 3. Xác định quan hệ giữa nhiệt độ và THI với lượng thức ăn thu nhận 2.3.3.1. Nuôi dưỡng 59 2.3.3.2. Xác định lượng thức ăn thu nhận của cừu 60 2.3.3.3. Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm 60 2.3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu 60 2.3.4. 61 Nội dung 4. Đánh giá khả năng sinh trưởng và sinh sản 2.3.4.1. Nuôi dưỡng 61 2.3.4.2. Đánh giá khả năng sinh trưởng và sản xuất thịt 62 2.3.4.3. Đánh giá khả năng sinh sản 63 2.3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu 64 2.3.5. 65 Nội dung 5. Đánh giá giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn thô xanh 2.3.5.1. Vật liệu thí nghiệm 65 2.3.5.2. Thiết kế thí nghiệm 65 2.3.5.3 Quản lý nuôi dưỡng 65 2.3.5.4 Quy trình xử lý và phân tích mẫu 66 2.3.5.5. Phân tích hoá học 67 2.3.5.6. Phương pháp xử lý số liệu 67 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 68 3.1. 68 DIỄN BIẾN NHIỆT ĐỘ, ẨM ĐỘ VÀ THI Ở ĐIỂM NGHIÊN CỨU 3.1.1. Diễn biến nhiệt độ, ẩm độ, THI hàng tháng ở Thừa Thiên Huế 68 và Ninh Thuận 3.1.2. Nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi theo giờ đo trong ngày 71 qua các mùa thí nghiệm 3.1.2.1. Nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi theo giờ đo trong ngày 71 qua các mùa thí nghiệm 3.1.2.2. Nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi trong mùa nóng 72 3.1.2.3. Nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi trong mùa lạnh 74 3.1.2.4. THI theo các giờ đo trong ngày 75 3.2. 78 QUAN HỆ GIỮA NHIỆT ĐỘ, ẨM ĐỘ VÀ THI VỚI CÁC CHỈ TIÊU SINH LÝ 3.2.1. Các chỉ tiêu sinh lý 78 3.2.2. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với thân nhiệt 80 3.2.2.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với thân nhiệt 80 3.2.2.2. Quan hệ giữa ẩm độ với thân nhiệt 82 3.2.2.3. Quan hệ giữa THI với thân nhiệt 84 3.2.3. 86 Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với tần số hô hấp 3.2.3.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với tần số hô hấp 86 3.2.3.2. Quan hệ giữa ẩm độ với tần số hô hấp 88 3.2.3.3. Quan hệ giữa THI với tần số hô hấp 89 3.2.4. 91 Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ, THI với nhịp tim 3.2.4.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với nhịp tim 91 3.2.4.2. Quan hệ giữa ẩm độ với nhịp tim 93 3.2.4.3. Quan hệ giữa THI với nhịp tim 94 3.2.5. Quan hệ giữa nhiệt độ, độ ẩm và THI với nhiệt độ da 96 3.2.5.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với nhiệt độ da 96 3.2.5.2. Quan hệ giữa ẩm độ với nhiệt độ da 98 3.2.5.3. Quan hệ giữa THI với nhiệt độ da 99 3.2.6. Quan hệ giữa mùa với các chỉ tiêu sinh lý máu 101 3.2.6.1. Các chỉ tiêu sinh lý máu 101 3.2.6.2. Quan hệ của mùa với các chỉ tiêu sinh lý máu 103 3.3. QUAN HỆ GIỮA NHIỆT ĐỘ VÀ THI VỚI LƯỢNG 105 THỨC ĂN THU NHẬN 3.3.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với lượng thức ăn thu nhận 105 3.3.2. Quan hệ giữa THI với lượng thức ăn thu nhận 108 3.4. KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA CỪU 110 PHAN RANG NUÔI Ở THỪA THIÊN HUẾ 3.4.1. Một số chỉ tiêu sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt 110 3.4.1.1. Khả năng sinh trưởng 110 3.4.1.2. Kết quả mổ khảo sát một số chỉ tiêu sản xuất thịt của cừu 117 3.4.2. Khả năng sinh sản của cừu cái 119 3.5. ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA MỘT SỐ 121 LOẠI THỨC ĂN THÔ XANH 3.5.1. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn 121 3.5.2. Lượng thức ăn và chất dinh dưỡng thu nhận của cừu đối với các 123 loại thức ăn 3.5.3. Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của cừu đối với các loại 125 thức ăn 3.5.4. Hàm lượng dinh dưỡng của các loại thức ăn tiêu hóa trên cừu 126 3.5.5. Tích lũy nitơ của cừu 127 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 129 1. KẾT LUẬN 129 2. ĐỀ NGHỊ 130 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 131 TÀI LIỆU THAM KHẢO 132 PHẦN PHỤ LỤC 153 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU BẢNG TÊN BẢNG TRANG Bảng 1.1. Phân bố đàn cừu ở Ninh Thuận 12 Bảng 1.2. Bảng tính sẵn THI (dựa trên Thom, 1959) đánh giá bất lợi 21 thời tiết trong chăn nuôi (LWSI; LCI, 1970) Bảng 1.3. Phương trình tính các loại chỉ số nhiệt và môi trường 23 Bảng 1.4. Phân tích phương sai ảnh hưởng của các chỉ số môi trường 24 đến nhiệt độ tại các vị trí trên cơ thể cừu Bảng 1.5. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với thân nhiệt của cừu 27 Bảng 1.6. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với tần số hô hấp của cừu 28 Bảng 1.7. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý 33 máu của cừu Bảng 1.8. Đặc điểm thân thịt cừu nuôi ở Ninh Thuận và Ba Vì 36 Bảng 1.9. Các chỉ tiêu sinh sản của cừu cái nuôi ở các vùng khác nhau 37 Bảng 1.10. Lượng thức ăn thu nhận của cừu 40 Bảng 1.11. Tóm tắt đặc điểm khí hậu thời tiết một số vùng nghiên cứu 52 Bảng 2.1. Sơ đồ thiết kế thí nghiệm 65 Bảng 3.1. Tần suất nhiệt độ và ẩm độ không khí chuồng nuôi trong 73 mùa nóng Bảng 3.2. Tần suất nhiệt độ và ẩm độ không khí chuồng nuôi trong 75 mùa lạnh Bảng 3.3. Tần suất THI các giờ trong ngày theo thang đánh giá stress 76 nhiệt của Marai và CS. (2000) Bảng 3.4. Tần suất xuất hiện THI theo các giờ trong ngày ở mùa nóng 77 và mùa lạnh Bảng 3.5. Các chỉ tiêu sinh lý của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên 78 Huế và Ninh Thuận Bảng 3.6. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến thân nhiệt 81 Bảng 3.7. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến thân nhiệt 83 Bảng 3.8. Các mốc THI ảnh hưởng đến thân nhiệt 85 Bảng 3.9. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến tần số hô hấp 87 Bảng 3.10. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến tần số hô hấp 89 Bảng 3.11. Các mốc THI ảnh hưởng đến tần số hô hấp 90 Bảng 3.12. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến nhịp tim 93 Bảng 3.13. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến nhịp tim 94 Bảng 3.14. Các mốc THI ảnh hưởng đến nhịp tim 95 Bảng 3.15. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến nhiệt độ da 97 Bảng 3.16. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến nhiệt độ da 99 Bảng 3.17. Các mốc THI ảnh hưởng đến nhiệt độ da 100 Bảng 3.18. Các chỉ tiêu sinh lý máu của cừu Phan Rang 101 Bảng 3.19. Quan hệ giữa mùa đến các chỉ tiêu sinh lý máu ở cừu 104 Bảng 3.20. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận 106 Bảng 3.21. Các mốc THI ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận 109 Bảng 3.22. Khối lượng (kg) của cừu Phan Rang qua các tháng tuổi 110 Bảng 3.23. Tốc độ sinh trưởng của cừu qua các giai đoạn 113 Bảng 3.24. Cao vây (cm) của cừu qua các tháng tuổi 114 Bảng 3.25. Vòng ngực (cm) của cừu qua các tháng tuổi 115 Bảng 3.26. Dài thân chéo (cm) của cừu qua các tháng tuổi 116 Bảng 3.27. Thành phần thân thịt của cừu Phan Rang 118 Bảng 3.28. Các chỉ tiêu sinh sản của cừu cái nuôi ở Thừa Thiên Huế 119 Bảng 3.29. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn 122 Bảng 3.30. Lượng thức ăn và chất dinh dưỡng thu nhận của cừu 124 Bảng 3.31. Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng ở cừu (%) 125 Bảng 3.32. Hàm lượng chất dinh dưỡng của các loại thức ăn tiêu hóa 127 trên cừu Bảng 3.33. Tích lũy nitơ ở cừu 128 DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ ĐỒ THỊ TÊN ĐỒ THỊ TRANG Đồ thị 1.1. Phân bố đàn cừu trên thế giới năm 2011 6 Đồ thị 1.2. Diễn biến đàn cừu ở Ninh Thuận giai đoạn 1995 - 2011 12 Đồ thị 3.1. Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ và THI bình quân tháng ở Thừa 68 Thiên Huế và Ninh Thuận (2007 - 2011) Đồ thị 3.2. Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi theo giờ 71 trong mùa nóng và mùa lạnh ở Thừa Thiên Huế Đồ thị 3.3. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với thân nhiệt của cừu 81 Đồ thị 3.4. Quan hệ bậc hai giữa ẩm độ với thân nhiệt của cừu 83 Đồ thị 3.5. Quan hệ bậc hai giữa THI với thân nhiệt của cừu 84 Đồ thị 3.6. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với tần số hô hấp của cừu 86 Đồ thị 3.7. Quan hệ bậc hai giữa ẩm độ với tần số hô hấp của cừu 88 Đồ thị 3.8. Quan hệ bậc hai giữa THI với tần số hô hấp của cừu 90 Đồ thị 3.9. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với nhịp tim của cừu 92 Đồ thị 3.10. Quan hệ bậc hai giữa độ ẩm với nhịp tim của cừu 93 Đồ thị 3.11. Quan hệ bậc hai giữa THI với nhịp tim của cừu 95 Đồ thị 3.12. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với nhiệt độ da của cừu 96 Đồ thị 3.13. Quan hệ bậc hai giữa ẩm độ với nhiệt độ da của cừu 98 Đồ thị 3.14. Quan hệ bậc hai giữa THI với nhiệt độ da của cừu 99 Đồ thị 3.15. Quan hệ giữa nhiệt độ với lượng thức ăn thu nhận của cừu 105 Đồ thị 3.16. Quan hệ giữa THI với lượng thức ăn thu nhận của cừu 108 DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH HÌNH TÊN HÌNH TRANG Hình 1. Xác định các chỉ tiêu sinh lý của cừu 154 Hình 2. Xác định các chỉ tiêu sinh trưởng và sinh sản 155 Hình 3. Thí nghiệm tiêu hóa thức ăn 156 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Cừu (Ovis aries) là gia súc nhai lại nhỏ được nuôi ở nhiều nước trên thế giới; cung cấp một lượng lớn thịt và sữa - là nguồn protein động vật có chất lượng cao cho đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người; da và lông là nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp may mặc, sản xuất đồ da, góp phần vào kim ngạch xuất khẩu (Acharya, 2009; Afzal và Naqvi, 2004 Devendra, 2001; Ngategize, 1989). Ngoài ra, cừu còn cung cấp một khối lượng lớn phân bón cho cây trồng, làm thức ăn cho cá, giun đất và góp phần cải tạo đất (Devendra, 2005). Cừu cũng có nhiều đóng góp vào đời sống văn hóa, xã hội của con người; là con vật hiến tế, được dùng cho các nghi lễ, phong tục đời sống của những người theo đạo Hồi (Ozung và CS., 2011; Acharya, 2009; Srikandakumar và CS., 2003). Chăn nuôi cừu có nhiều ưu việt so với các ngành chăn nuôi khác là cần ít vốn, quay vòng vốn nhanh, tận dụng được lao động và điều kiện tự nhiên ở mọi vùng sinh thái. Ngành chăn nuôi cừu phát triển góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tăng tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, giảm nghèo, ổn định kinh tế và xã hội (Otchere, 2009; Hassan và CS., 2008). Phát triển chăn nuôi cừu là định hướng hợp lý, là cuộc cách mạng thích hợp cho sự phát triển chăn nuôi của nông dân nghèo trên thế giới, trong đó có Việt Nam (Binh và Lin, 2005; Devendra, 2005). Cừu được du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ 20, trải qua hàng trăm năm đã thích nghi và phát triển rất tốt ở Ninh Thuận và Bình Thuận - vùng nam Trung bộ, nắng nóng quanh năm, không có mùa lạnh. Mặc dù khối lượng của cừu không lớn lắm, nhưng ít bệnh tật và sinh trưởng tốt (Đoàn Đức Vũ và 2 CS., 2006). Chăn nuôi cừu là sinh kế và mang lại nhiều lợi nhuận cho những gia đình chăn nuôi cừu ở Ninh Thuận, chiếm khoảng 32% nguồn thu nhập trong chăn nuôi nông hộ (Nguyễn Phú Son và CS., 2012). Tuy nhiên, cừu không dễ dàng phát triển rộng rãi trên các vùng sinh thái trong cả nước như các vật nuôi truyền thống vì sự nhạy cảm của chúng với môi trường sống. Con cừu cũng như nhiều loại vật nuôi khác chịu tác động của nhiều yếu tố môi trường; trong đó, nhiệt độ và ẩm độ là hai yếu tố có tác động mạnh đến trạng thái sinh lý, sinh trưởng và sinh sản (Bhatta và CS., 2005; Srikandakumar và CS., 2003). Chỉ số nhiệt ẩm (THI - Temperature Humidity Index) biểu thị sự tương tác giữa nhiệt độ và ẩm độ không khí, có thể sử dụng để đánh giá stress nhiệt của cừu (Paim và CS., 2012; Marai và CS., 2009; McManus và CS., 2008). Gần đây, các nghiên cứu ảnh hưởng nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm trên cừu đã được nhiều tác giả trên thế giới quan tâm; trong đó, có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh lý (Alhidary và CS., 2012; Marai và CS., 2009; McManus và CS., 2008; Bhatta và CS., 2005); sinh trưởng (Baneh và Hafezian, 2009; Lavvaf và CS., 2007; Behzadi và CS., 2007; Saghi và CS., 2007; Singh và CS., 2006…); sinh sản (Gül, 2012; Saab và CS., 2011; Finocchiaro và CS., 2005; Maurya và CS., 2005…) và thu nhận thức ăn (Alhidary và CS., 2012; Savage và CS., 2008; Kamalzadeh, 2005; Goetsch và Johnson, 1999...). Ở Việt Nam, nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm trên cừu chưa có công trình nào được công bố. Ở nước ta, ngoài Ninh Thuận và một số tỉnh đã có chăn nuôi cừu là Bình Thuận (3,3 ngàn con), Bến Tre (2,5 ngàn con), Khánh Hòa (2,1 ngàn con)..; cừu được nuôi thử nghiệm ở một số địa phương khác, tuy số lượng còn ít song bước đầu cho thấy khả năng thích ứng của chúng (Cục chăn nuôi, 2009). Ở Ba Vì, với nhiệt độ trung bình là 250C, ẩm độ không khí là 84% và 3 lượng mưa 1.800 mm/năm; cừu sinh trưởng, sinh sản bình thường, lúc 12 tháng tuổi cừu đực đạt khối lượng 29,09 - 29,32kg, cừu cái 181 ngày tuổi đã xuất hiện động dục; các chỉ tiêu sinh lý (thân nhiệt, hô hấp, nhịp tim, hồng cầu, hemoglobin, bạch cầu) bình thường (Đinh Văn Bình và CS., 2007). Trong khi ở Tây Nguyên, với nhiệt độ không khí trung bình là 240C, ẩm độ không khí là 81% và lượng mưa 2.000 - 2.500 mm/năm; cừu sinh trưởng, sinh sản bình thường, lúc 12 tháng tuổi cừu đực đạt khối lượng 46,11kg, cừu cái động dục ở 191,6 ngày tuổi; các chỉ tiêu sinh lý ổn định (Trần Quang Hân, 2007a,b). Thừa Thiên Huế có điều kiện khí hậu, thời tiết khác biệt; lượng mưa hàng năm lớn (trung bình 3.877 mm/năm), kéo dài và phân phối không đều, tập trung vào tháng 9 - 12 (300 - 800 mm/tháng); nhiệt độ không khí trung bình 24,70C; đặc biệt, ẩm độ không khí luôn cao (trung bình 87,3%) (Cục Thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). Thừa Thiên Huế có diện tích đất đồi núi chiếm hơn 75% diện tích đất tự nhiên, trong đó có nhiều vùng đồi núi có thể phù hợp với đặc tính sinh thái và điều kiện sống của cừu. Hệ thống sản xuất nông nghiệp phong phú với nhiều loài cây bụi sẵn có, là nguồn thức ăn tiềm năng (Võ Thị Kim Thanh, 2008; Nguyễn Xuân Bả và CS., 2002) và nguồn phụ phẩm đa dạng (Nguyễn Hữu Văn và CS., 2008) chưa được tận dụng triệt để. Tuy nhiên, chăn nuôi cừu ở Thừa Thiên Huế hoàn toàn chưa có. Vì vậy, để phát triển chăn nuôi cừu ở Thừa Thiên Huế, nghiên cứu đánh giá thích ứng của cừu với điều kiện môi trường (nhiệt độ, ẩm độ) là bước đi ban đầu rất cần thiết. 4 2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Mục tiêu chung Nhằm đánh giá khả năng thích ứng của cừu Phan Rang nuôi trong điều kiện ở Thừa Thiên Huế thông qua các chỉ tiêu sinh lý, sinh trưởng, sinh sản và thu nhận thức ăn của chúng. 2.2. Mục tiêu cụ thể Xác định quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm với các chỉ tiêu sinh lý của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế. Xác định quan hệ giữa nhiệt độ và chỉ số nhiệt ẩm với lượng thức ăn thu nhận của cừu. Xác định khả năng sinh trưởng và sinh sản của cừu Phan Rang nuôi trong điều kiện ở Thừa Thiên Huế. Đánh giá giá trị dinh dưỡng một số thức ăn thô xanh làm thức ăn cho cừu ở Thừa Thiên Huế. 3. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Kết quả nghiên cứu bước đầu xác định sự thích ứng của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế thông qua các chỉ tiêu sinh lý, thu nhận thức ăn, sinh trưởng và sinh sản. Xác định được quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm với tần số hô hấp, hàm lượng hemoglobin và lượng thức ăn thu nhận của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế. Từ đó, luận án đã đóng góp thêm tư liệu về các chỉ tiêu sinh lý, sinh trưởng, sinh sản của cừu Phan Rang nuôi ở các vùng miền khác nhau trong cả nước. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI CỪU TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC 1.1.1. Vai trò của ngành chăn nuôi cừu Ngành chăn nuôi cừu đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người và sự phát triển xã hội. Thịt cừu là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, thành phần protein và lipit lần lượt là 21,5 và 3,8% ở cừu Dorset (Pouliot và CS., 2009); 20,99 và 1,43% ở cừu Phan Rang (Đinh Văn Bình và CS., 2007). Sữa cừu đã thay thế một phần sữa bò, với năng suất trung bình 190 kg/con/năm (dao động 95 - 255 kg/con/năm) góp phần vào nguồn sữa cung cấp cho người dân ở các nước trên thế giới (Ozung và CS., 2011; Hosri và Nehme, 2009). Chăn nuôi cừu phát triển thúc đẩy các ngành sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển, góp phần vào nguồn kim ngạch xuất khẩu (Devendra, 2005; Afzal và Naqvi, 2004). Cừu cung cấp nguyên liệu cho ngành sản xuất công nghiệp (da, lông) và nông nghiệp (phân, nước tiểu) (Devendra, 2001). Theo Savage và CS. (2008), lượng phân cừu thải ra là 447 - 608 g/con/ngày và lượng nước tiểu là 2.298 - 4.606 ml/con/ngày. Ngành chăn nuôi cừu góp phần ổn định kinh tế, xã hội cho đất nước. Theo Hassan và CS. (2008), ngành chăn nuôi cừu chiếm khoảng 1/4 tỷ trọng chăn nuôi các nước vùng khô hạn và bán khô hạn ở Tây Á và Bắc Phi. Chăn nuôi cừu tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt đối với người dân nghèo, những người không có đất sản xuất hoặc sinh sống ở những vùng đồi núi, đất xám bạc màu không có khả năng canh tác (Otchere, 2009; Devendra, 2005; Rafiq, 1995; Ngategize, 1989). 6 Cừu dễ nuôi, dễ quản lý, ít tốn công chăm sóc, ít bệnh tật, không cạnh tranh lương thực với con người, quay vòng vốn nhanh, dễ vận chuyển, chuồng trại đơn giản và rẻ tiền, phù hợp với hệ thống trang trại nhỏ (Devendra, 2005; Mai và CS., 2005; Ngategize, 1989). Cừu là gia súc thích hợp với mô hình chăn nuôi kết hợp với trồng cây công nghiệp, cây lâu năm, cây ăn quả nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng đất (Devendra, 2000). Vì vậy, chăn nuôi cừu phát triển nhằm xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước (Acharya, 2009; Cục chăn nuôi, 2007; Devendra, 2005). 1.1.2. Tình hình phát triển chăn nuôi cừu trên thế giới 1.1.2.1. Số lượng và sự phân bố đàn cừu Tốc độ tăng trưởng đàn cừu trên thế giới trong thời gian qua khá nhanh; theo số liệu của FAO (2012), Châu Đại dương 10% Châu Mỹ 9% Châu Á 45% tổng đàn cừu trên toàn thế giới năm 2011 là 1.043,7 triệu con, chiếm 26,3% số lượng đàn gia súc nhai lại; tỷ lệ tăng đàn hàng năm giai đoạn 2001 - 2011 trung bình là 1,03%. Châu Phi 24% Châu Âu 12% Đồ thị 1.1. Phân bố đàn cừu trên thế giới năm 2011 (FAO, 2012) Châu Á là châu lục phát triển mạnh về chăn nuôi cừu, với 463,6 triệu con, chiếm khoảng 45% số lượng cừu thế giới. Tiếp đến là châu Phi: 255,5 triệu con; châu Âu: 127,3 triệu con; châu Đại dương: 104,2 triệu con; số lượng cừu ít nhất là châu Mỹ: 93,1 triệu con (FAO, 2012). Các nước có số lượng cừu lớn là Trung Quốc 138,8 triệu con (chiếm 13,3% tổng số cừu thế giới và 30% tổng số cừu châu Á); tiếp đến là Ấn Độ 74,5 triệu con; Úc 73,1 triệu con; Iran 49 triệu con và Nigeria 38 triệu con. 7 Ngoài ra, một số nước ở châu Á cũng có số lượng cừu lớn là: Pakistan 28,1 triệu con, Thổ Nhĩ Kỳ 23 triệu con và Indonesia 11,4 triệu con. Các quốc gia trên đang chiếm lĩnh thị trường thế giới về khả năng cung cấp thịt và len (FAO, 2012). 1.1.2.2. Sản phẩm chăn nuôi cừu Tổng sản lượng thịt của thế giới năm 2011 là 297,1 triệu tấn; trong đó, sản lượng thịt cừu là 7,9 triệu tấn. Trung Quốc là nước có số lượng thịt cừu lớn nhất với 2,1 triệu tấn, tiếp đến là Úc: 0,5 triệu tấn, Ấn Độ: 0,3 triệu tấn, còn lại là một số quốc gia khác. Châu Á, tổng sản lượng thịt năm 2011 là 124,4 triệu tấn, chiếm 41,9% sản lượng thịt thế giới; trong đó thịt cừu 4,1 triệu tấn, chiếm 51,7% tổng sản lượng thịt cừu thế giới (FAO, 2012). Tổng sản lượng sữa của thế giới năm 2011 là 727,2 triệu tấn; trong đó sữa cừu là 9,6 triệu tấn (FAO, 2012). Sữa cừu là nguồn sữa chủ yếu ở các nước Afghanistan, Iran, Saudi Arabia, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ (Acharya, 2009). Sản lượng da và lông cừu của toàn thế giới năm 2011 là 1,074 triệu tấn; trong đó, các nước có sản lượng lớn là Úc là 89.607 tấn, Mông Cổ 20.136 tấn, Pakistan 17.841 tấn, Ấn Độ 666 tấn (FAO, 2012). Lông cừu là nguồn nguyên liệu sản xuất len quan trọng ở các nước khu vực Nam Mỹ như Argentina, Chile, Uruguay, Brazil, Bolivia và Peru (Cardellino và Mueller, 2010). 1.1.2.3. Giống và công tác giống cừu Cừu được thuần dưỡng từ cừu rừng cách đây khoảng 10.000 năm (Adams và McKinley, 2009). Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1.314 giống cừu; trong đó, châu Á có 233 giống, chiếm trên 17,7% so với thế giới và tập trung chủ yếu ở các nước Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan (Devendra, 2005). Trung Quốc có khoảng 50 giống cừu, trong đó 31 giống cừu bản địa, chủ yếu là các giống cừu cho thịt và lông. Trung Quốc đã nhập một số giống 8 cừu cho năng suất cao như giống cừu Merino của Úc để cải thiện các giống cừu bản địa nhằm nâng cao khả năng sản xuất (Waldron và CS., 2007; Ma và CS., 2006). Đồng thời các nhà chăn nuôi còn cải thiện năng suất đàn cừu bằng cách cho các giống cừu bản địa lai giống chéo với nhau. Kết quả các con lai đã đạt được tiến bộ nhanh chóng và cho kết quả khá tốt, khả năng sản xuất lông và chất lượng lông cũng được cải thiện (Acharya, 2009). Ấn Độ là nước có nguồn gen cừu khá phong phú và đa dạng (khoảng 40 giống), với đa dạng di truyền rộng, góp phần quan trọng về đa dạng nguồn gen cừu và cải thiện năng suất sản xuất của cừu trên thế giới (Acharya, 2009; Singh và CS., 2006; Bhatia và Arora, 2005). Ấn Độ có nhiều giống cừu cho lông, cho thịt năng suất cao, tập trung chủ yếu ở khu vực khô hạn và bán khô hạn, một số giống cừu tiêu biểu là Marwari, Deccani/ Bellary (Acharya, 2009; Singh và CS., 2006). Ấn Độ đã thành lập Ủy ban quốc gia nguồn gen động vật (NBAGR), nhằm đánh giá, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên di truyền của cừu cũng như các vật nuôi khác (Bhatia và Arora, 2005). Pakistan là quốc gia có nguồn tài nguyên di truyền phong phú (với 30 giống), chủ yếu là các giống cừu cho lông, thịt và sữa. Một số giống cừu tiêu biểu là Bucchi, Lohi, Thalli, Salt Range, Dumbi, Kachi, Balkhi, Baluchi, Bibrik, Harnai, Kajli (Sarwar và CS., 2010; Afzal và Naqvi, 2004). Ngoài ra, một số nước ở châu Á cũng có nhiều giống cừu như Afghanistan có 8 giống cừu, Karakul là giống cừu điển hình được nuôi nhằm sản xuất thịt và sản xuất da. Iraq có 6 giống cừu, Awassi là giống cừu quan trọng nhất của đất nước. Iran có 15 giống cừu, chủ yếu là các giống cừu cho thịt, sữa và lông, giống cừu Baluchi có đóng góp lớn nhất cho quốc gia. Thổ Nhĩ Kỳ có 11 giống cừu, chủ yếu là các giống Red, White Karaman, Karaman và Daglic có số lượng lớn nhất, một giống cho lông là Anatolia, Kilis (Acharya, 2009). 9 1.1.2.4. Chăn nuôi cừu ở châu Á Châu Á chiếm 20,5% diện tích đất tự nhiên, 31% đất canh tác của thế giới, chủ yếu là các vùng khô hạn và bán khô hạn phù hợp với điều kiện sinh thái của cừu (Acharya, 2009). Chăn nuôi cừu ở châu Á thường tập trung vào người dân nghèo nên hệ thống chăn nuôi chủ yếu là quảng canh, chăn thả tự do, tận dụng điều kiện sinh thái tự nhiên; chỉ có một số ít chăn nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh (Hosri và Nehme, 2005; Afzal và Naqvi, 2005). Ở các nước như Ấn Độ, Afghanistan, Nigeria, Iran, Pakistan và Li-băng phần lớn cừu (khoảng 60%) được nuôi theo phương thức quảng canh, chăn thả tự do, theo hệ thống du mục hoặc bán du mục ở những vùng duyên hải và vùng núi. Cừu được nuôi trên các ngọn núi, trước khi mùa mưa xuống mới được đưa về nuôi ở các bản làng. Hầu hết không có chuồng trại hoặc chuồng trại được dựng tạm thời để cừu trú ẩn mỗi lúc trời mưa. Thức ăn của cừu là cỏ tự nhiên và phụ phẩm nông nghiệp, chất lượng kém, cừu thiếu dinh dưỡng, năng suất và hiệu quả kinh tế không cao (Sarwar và CS., 2010; Hosri và Nehme, 2005). Công tác thú y, vệ sinh phòng bệnh cho cừu ít được chú trọng. Cừu bị bệnh thường được điều trị bằng các loại thuốc bản địa, theo kinh nghiệm dân gian nên tỷ lệ tử vong cao (Hosri và Nehme, 2005). Sản phẩm chăn nuôi cừu chủ yếu là tự cung, tự cấp, giá thành thấp (Acharya, 2009). Cừu còn được nuôi theo hệ thống sản xuất hỗn hợp cây trồng - vật nuôi (Devendra, 2000). Cừu được nuôi dưới những tán cây công nghiệp, cây ăn quả, cây trồng lâu năm, tận dụng tán cây làm nơi trú ẩn cho cừu. Ở các nông hộ, cừu được nuôi theo phương thức bán chăn thả, ban ngày thả ở các bãi chăn, ban đêm lùa về chuồng. Ngoài cỏ tự nhiên và phụ phẩm nông nghiệp, nhiều hộ chăn nuôi còn bổ sung thêm các loại thức ăn tinh cho cừu (Acharya, 2009). Chuồng trại thường đơn giản nằm tiếp giáp với nhà ở, chỉ có một số chuồng nuôi lớn được đầu tư (Hosri và Nehme, 2005; Afzal và Naqvi, 2005). 10 Cừu là đối tượng vật nuôi phổ biến trên thế giới, cừu dễ nuôi, chuồng trại đơn giản, phù hợp với các phương thức chăn nuôi khác nhau, là vật nuôi có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu đàn gia súc trên thế giới, đặc biệt đối với những vùng đồi núi, vùng khô hạn và bán khô hạn. 1.1.3. Tình hình phát triển chăn nuôi cừu ở Việt Nam 1.1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển nghề chăn nuôi cừu Cừu được du nhập vào Việt Nam cách đây hơn một trăm năm bởi các nhà truyền đạo từ Ấn Độ, Pakistan và châu Phi (Mai và CS., 2005). Tuy nhiên, những năm gần đây ngành chăn nuôi cừu mới được đầu tư phát triển, bước đầu đã đạt được một số kết quả quan trọng trong lĩnh vực chăn nuôi, góp phần tăng thu nhập, giảm nghèo cho nông dân (Cục chăn nuôi, 2007). Có thể sơ lược lịch sử chăn nuôi cừu qua một số mốc thời gian sau: Năm 1906, tại Suối Dầu cơ sở thí nghiệm của Viện Pasteur Nha Trang đã nhập vào giống cừu Kelantan (vùng Maclacca, tỉnh Kelantan, Malaysia); giống Berrichon de I’Indre, Dishley Merinos, Mérinos d’Arles, Caussinard và giống Bizet từ Pháp; giống Yunam và giống Chan Trung từ Trung Quốc (Đoàn Đức Vũ và CS., 2006). Năm 1927, cừu được nuôi và lai tạo giống ở An Khê để làm vật thí nghiệm thử các loại vacxin cho gia súc của Sở Thú y Trung Việt, nên quy mô rất nhỏ và vì thế chúng bị mai một (Nguyễn Trọng Trữ, 1967). Năm 1967, Việt Nam nhập 500 con cừu từ Mông Cổ; năm 1976 nhập 600 con cừu từ Trung Quốc về nuôi thử nghiệm ở Mộc Châu và Cao Bằng, nhưng chúng không tồn tại và nhanh chóng bị xóa sổ (Binh và CS., 2008). Trong thời gian này, nghề chăn nuôi cừu còn rất nhỏ bé, phát triển chậm, thị trường bấp bênh, sản xuất có tính tự cung tự cấp, cừu chỉ tồn tại ở Ninh Thuận với số lượng ít, tổng đàn cừu năm 1975 khoảng 14.000 - 15.000 con (Binh và CS., 2008). Sau 11 đó giảm dần chỉ còn 3.200 năm 1992, do giá thịt cừu thấp, nghề nuôi cừu tưởng chừng đỗ vỡ, cừu đứng trước nguy cơ mất giống (Mai và CS., 2005). Trước tình hình đó, năm 1994 Viện Chăn nuôi tiến hành đề tài về “Bảo tồn nguồn gen vật nuôi”, theo đó cừu Phan Rang đã được bảo tồn, phát triển và bùng phát về số lượng, năm 2006 lên 92,1 ngàn con (Mai và CS., 2005). Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển đàn cừu khá nhanh, quy mô chăn nuôi được đầu tư mở rộng, từ vài chục con lên hàng trăm con, có xu hướng phát triển thành kinh tế trang trại và phát triển ra một số tỉnh thành khác ngoài Ninh Thuận (Cục chăn nuôi, 2007, 2009; Mai và CS., 2005). 1.1.3.2. Số lượng và sự phân bố đàn cừu Căn cứ vào dữ liệu của Tổng Cục thống kê và Ngành chăn nuôi ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê riêng về số lượng cừu mà thường gộp chung hai đối tượng là dê và cừu, chỉ có số liệu không đầy đủ ở một số địa phương. Theo Tổng Cục thống kê (2012), số lượng dê và cừu ở Việt Nam năm 1995 là 550,5 ngàn con, đến năm 2011 là 1.267,8 ngàn con, tỷ lệ tăng đàn hàng năm trung bình 1,08%. Ninh Thuận là tỉnh có số lượng cừu lớn nhất, tiếp đến là Bình Thuận, Bến Tre, Khánh Hòa và một số nơi khác như Ba Vì, Đăk Lăk, Đồng Nai, Bình Phước... (Cục chăn nuôi, 2009; Đinh Văn Bình và CS., 2007). Ninh Thuận là tỉnh tiêu biểu cho chăn nuôi cừu ở Việt Nam. Số lượng cừu ở Ninh Thuận trong thời gian qua tăng/giảm bất thường theo từng giai đoạn khác nhau (đồ thị 1.2). Số lượng cừu tăng mạnh trong giai đoạn 2000 2006 và đạt cao nhất vào năm 2006. Tuy nhiên, sau đó số lượng cừu giảm mạnh đến năm 2010. Nguyên nhân là do hiệu quả cao của chăn nuôi cừu từ những năm trước nên người dân ồ ạt chăn nuôi làm cho số lượng cừu tăng nhanh. Trong lúc đó giá cừu bất ngờ giảm thấp, nhiều hộ chăn nuôi cừu bị phá sản, bỏ nghề làm cho số lượng cừu giảm nghiêm trọng. Từ năm 2010 đến nay, ngành chăn nuôi cừu phục hồi nhờ giá cừu tăng mạnh trở lại. 12 Số lượng cừu (ngàn con) 100 92,1 88,9 90 80 70 82,5 72,8 73,2 2008 2009 68,6 56,8 60 50 40 30 20 10 3,2 4,5 1995 2000 0 2005 2006 2007 2010 2011 Thời gian (năm) Đồ thị 1.2. Diễn biến đàn cừu ở Ninh Thuận giai đoạn 1995 - 2011 (Nguồn: UBND tỉnh Ninh Thuận, 2012) Ở Ninh Thuận, cừu được phân bố trên khắp địa bàn tỉnh nhưng tập trung nhiều nhất là huyện Thuận Nam (chiếm 34%) và ít nhất là huyện Bác Ái. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2009 - 2011 là 6,2%; trong đó, huyện Thuận Nam tăng trưởng cao nhất, huyện Ninh Phước giảm mạnh nhất (bảng 1.1). Bảng 1.1. Phân bố đàn cừu ở tỉnh Ninh Thuận Năm Vùng Toàn tỉnh 2009 2010 2011 Tốc độ tăng trưởng 2009 Số lượng TL Số lượng TL Số lượng TL 2011 (%) (ngàn con) (%) (ngàn con) (%) (ngàn con) (%) 73,2 100 68,6 100 82,5 100 6,2 3,8 5,2 3,1 4,5 3,6 4,4 -2,8 11,8 16,1 12,5 18,2 14,0 17,0 8,9 1,8 2,5 2,2 3,2 2,1 2,5 5,6 Ninh Hải 19,5 26,6 14,2 20,7 16,3 19,8 -8,6 Ninh Phước 32,7 44,7 11,8 17,2 14,8 17,9 -32,7 Thuận Bắc 3,6 4,9 3,7 5,4 4,1 5,0 5,0 - 21,1 30,8 27,8 33,7 14,7 Phan Rang - TC Ninh Sơn Bác Ái Thuận Nam - (Nguồn: UBND tỉnh Ninh Thuận, 2012) 13 1.1.3.3. Sản phẩm chăn nuôi cừu Sản lượng thịt dê, cừu tăng từ 3,6 ngàn tấn năm 2001 lên 11,1 ngàn tấn năm 2008 (Cục chăn nuôi, 2009). Theo đánh giá của Cục chăn nuôi (2009), sản lượng thịt cừu bình quân trên đầu người tuy còn rất ít, chưa được phổ biến nhưng cũng tăng qua các năm. Các sản phẩm lông, da cừu chưa theo dõi được do công tác quản lý việc giết mổ và chế biến lông, da cừu chưa được đầu tư, chưa có các nhà máy chế biến tập trung với quy mô lớn, chủ yếu vẫn là quy mô nông hộ nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp ở các địa phương (Cục chăn nuôi, 2007). 1.1.3.4. Giống và công tác giống cừu Giống cừu nuôi ở Việt Nam chủ yếu là cừu Phan Rang (chiếm 91,1%). Theo Cục chăn nuôi (2007), do phương thức chăn nuôi quảng canh, công tác lưu giữ và quản lý giống kém, việc sử dụng một đực giống chung cho nhiều thế hệ trong đàn với tỷ lệ đực cái là 1/50 con khá phổ biến (chiếm 45% số hộ chăn nuôi), đồng thời giá cừu giống cao nên cừu sinh ra thường được giữ lại làm giống mà không có chọn lọc, vì vậy giống cừu hiện đang suy giảm chất lượng. Việc trao đổi cừu đực giống giữa các hộ chăn nuôi để tránh sự suy thoái do đồng huyết đang được tiến hành nhưng vẫn còn hạn chế. Năm 2004, Ninh Thuận đã nhập 2 giống cừu Úc là Dopper và White Sufolk bước đầu nuôi thích nghi và cho kết quả tốt. Số cừu này sinh trưởng, phát triển tốt, cừu lai với cừu Phan Rang thể trạng chúng không kém gì bố mẹ, khả năng sinh sản tốt (Cục chăn nuôi, 2009; Mai và CS., 2005). 1.1.3.5. Đặc điểm chăn nuôi cừu ở Việt Nam Theo đánh giá của Cục chăn nuôi (2007), phương thức chăn nuôi cừu chủ yếu theo tập quán chăn thả quảng canh, cừu chủ yếu được chăn thả trên sườn núi, đồi trọc, bãi chăn thả tự nhiên, do đó tăng trọng của đàn cừu thấp. 14 Cừu nuôi chủ yếu bằng cỏ tự nhiên, do vậy người chăn nuôi không chủ động được nguồn thức ăn (Cục chăn nuôi 2009). Theo Nguyễn Phú Son và CS. (2012), có 84,6% số hộ chăn nuôi cừu ở Ninh Thuận tự đi cắt cỏ để làm thức ăn cho cừu nhằm lấy công làm lời. Ngoài ra, người chăn nuôi đã sử dụng một số phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp, trồng thêm cây thức ăn thô xanh để phục vụ chăn nuôi cừu như cỏ voi, cỏ sả, cỏ ruzi, cỏ paspalum nhưng năng suất và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn không cao (Nguyễn Thị Thu Hồng và CS., 2006). Việc bảo quản, chế biến và dự trữ thức ăn chưa được quan tâm và thiếu hướng dẫn kỹ thuật nên thức ăn dư thừa trong mùa thu hoạch nhưng lại thiếu trong mùa khô hạn và mưa lũ (Cục chăn nuôi, 2009). Chuồng trại chưa được xây đúng kỹ thuật; phân, rác thải chưa được xử lý tốt. Cừu còn chăn thả tập trung với nhiều loài gia súc khác như trâu, bò, dê nên hiện tượng cảm nhiễm ký sinh trùng lây lan từ loài này sang loài khác. Công tác thú y cơ sở còn yếu, vệ sinh phòng bệnh chưa được chú trọng, hiệu quả công tác tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm theo định kỳ đạt chưa cao (Nguyễn Thị Nga và CS., 2011; Cục chăn nuôi, 2007). Cừu chủ yếu nuôi lấy thịt, tuy nhiên hệ thống giết mổ tập trung và công nghệ chế biến thịt chưa có, chủ yếu sử dụng dưới dạng tươi sống. Giá cả thị trường thiếu ổn định, các sản phẩm chăn nuôi cừu chưa được phổ biến, thị trường tiêu thụ còn hạn chế, chủ yếu là ở một số tỉnh phía Nam (Nguyễn Phú Son và CS., 2012; Cục chăn nuôi, 2007). Ngành chăn nuôi cừu ở Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có, nhiều địa phương chưa chú trọng phát triển chăn nuôi cừu do thiếu thông tin. Một số mô hình phát triển chăn nuôi cừu nhằm xóa đói, giảm nghèo cho người dân được triển khai nhưng chưa phổ biến rộng rãi. Do đó, cần có các nghiên cứu nhằm phát triển đàn cừu, đưa ngành chăn nuôi cừu phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. 15 1.1.3.6. Nghiên cứu về sinh lý, sinh trưởng, sinh sản và dinh dưỡng của cừu Phan Rang Trong những năm qua, các nghiên cứu về con cừu, nhằm đưa ngành chăn nuôi cừu vào hệ thống nông nghiệp đã được thực hiện. Kết quả bước đầu đã khẳng định vai trò của ngành chăn nuôi cừu trong việc tạo thu nhập và giảm rủi ro trong sản xuất ở nông hộ nhỏ (Cục chăn nuôi, 2009). Nghiên cứu đã xác định được nguồn gốc, tiềm năng di truyền của cừu Phan Rang. Cừu Phan Rang là kết quả lai tạo của các giống nhập từ Malaysia (giống Kelantan vùng Maclacca), Trung Quốc (giống Yunam, giống Chan Toung) và từ Pháp (giống Dishley Merinos, Mérinos d’Arles, Berrichon del’Indre, Caussenard, Bizet). Đặc biệt, cừu Kelantan là giống cừu vùng Đông Nam Á, thích nghi rất tốt với điều kiện nuôi dưỡng tại địa phương. Giống cừu Kelantan được sử dụng làm nền để lai tạo với các giống cừu nhập từ Pháp để hình thành nên giống cừu Phan Rang hiện nay (Đoàn Đức Vũ và CS., 2006). Nghiên cứu về sinh trưởng, khả năng sản xuất thịt cho thấy, cừu Phan Rang có thể hình tốt hơn các giống cừu Đông Nam Á, tương đương với cừu Ấn Độ, nhỏ hơn cừu các nước có ngành chăn nuôi cừu thịt phát triển như Úc, Pháp, Mỹ. Cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận lúc trưởng thành khối lượng con cái là 29,7kg và con đực là 42,4kg (Đoàn Đức Vũ và CS., 2006); nuôi ở Ba Vì, lúc 18 tháng tuổi con cái là 28,3kg và con đực là 36,1kg (Binh và CS., 2005); ở Tây Nguyên, con cái là 41,8kg và con đực là 51,37kg (Trần Quang Hân, 2007a). Tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của cừu nuôi ở Ninh Thuận lúc 9 tháng tuổi lần lượt là 41,8% và 30,2% (Đinh Văn Bình và CS., 2007). Cừu đực Phan Rang lúc 5 tháng tuổi đã có biểu hiện sinh dục, nhưng thường được sử dụng vào thời điểm 10 - 12 tháng tuổi (Đoàn Đức Vũ và CS., 2006). Cừu cái 5,5 - 6 tháng tuổi đã xuất hiện động dục, nhưng thường phối giống lần đầu lúc 9 - 10 tháng; chu kỳ động dục là 18 - 21 ngày, thời gian 16 mang thai 148 - 151 ngày, khoảng cách lứa đẻ 208 - 262 ngày. Một năm cừu đẻ 1,55 lứa, mỗi lứa 1 - 2 con (Mai và CS., 2005). Khi đưa ra nuôi ở Ba Vì (Đinh Văn Bình và CS., 2007) và Tây Nguyên (Trần Quang Hân, 2007a,b) khả năng sinh sản của cừu bình thường. Các nghiên cứu về dinh dưỡng và thức ăn cho cừu đã xác định được giá trị dinh dưỡng của một số loại cây thức ăn thô xanh ngoài cỏ tự nhiên như lá dâm bụt ủ chua (Nguyễn Xuân Bả và CS., 2004), cỏ voi (Vũ Chí Cương và CS., 2009, 2010), cây xương rồng (Opuntia elator) (Tien và Beynen, 2005), cỏ ghinê (Ngô Tiến Dũng và CS., 2004)... các phụ phẩm công, nông nghiệp như ngọn lá sắn phơi khô, rơm ủ urê - rỉ mật (Ngô Tiến Dũng và CS., 2004); bả sắn ủ chua (Nguyễn Hải Quân và Nguyễn Xuân Bả, 2008). Nghiên cứu đã xác định được công thức tảng đá liếm, nhằm bổ sung khoáng cho cừu sinh sản (Đào Đức Kiên và CS., 2006); cải thiện chế độ nuôi dưỡng, nhằm phát huy giá trị của giống cừu Phan Rang (Nguyễn Ngọc Tấn và CS., 2006). Ngoài ra, các nghiên cứu về tình hình dịch bệnh (Nguyễn Thị Nga và CS., 2011; Đinh Văn Bình và CS., 2007; Trần Quang Hân, 2007b); về tập tính của cừu cũng đã được tiến hành (Văn Tiến Dũng, 2010; Nguyễn Thị Mùi, 2006; Nguyễn Bá Mùi và Nguyễn Xuân Vỹ, 2009; Đàm Văn Tiện, 2006). Như vậy, các nghiên cứu bước đầu đã xác định được nguồn gốc của giống cừu Phan Rang, đánh giá được khả năng sinh trưởng, sinh sản của cừu khi nuôi ở Ninh Thuận, Ba Vì và Tây Nguyên. Tuy nhiên, chưa có các nghiên cứu cơ bản, có hệ thống về đánh giá khả năng thích ứng của cừu trong những điều kiện sống khác nhau, đặc biệt là môi trường ẩm độ cao. Vì vậy, cần có các nghiên cứu xác định ảnh hưởng nhiệt độ và ẩm độ môi trường sống đến sinh lý, sinh trưởng, sinh sản, thu nhận thức ăn của cừu. Các nghiên cứu về dinh dưỡng cho cừu chưa được đặt ra đúng mức, chủ yếu là sử dụng cừu làm đối tượng trong các nghiên cứu về dinh dưỡng cho gia súc nhai lại nói chung. 17 1.2. QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VỚI CÁC CHỈ TIÊU SINH LÝ CỦA CỪU 1.2.1. Trao đổi nhiệt của cừu với môi trường Cơ thể gia súc là một khối thống nhất, hoàn chỉnh và thường xuyên tương tác với môi trường sống. Mọi biến động của môi trường sống đều tác động trực tiếp đến cơ quan nhận cảm của cơ thể bằng con đường thần kinh và thể dịch. Trong đó, nhiệt độ và ẩm độ không khí là những yếu tố môi trường có tác động trực tiếp đến đời sống của cừu. Tác động của nhiệt độ và ẩm độ dẫn đến cừu có những phản ứng trả lời các kích thích đó để duy trì cân bằng nhiệt của cơ thể, gọi là sự thích nghi của cừu với môi trường nhiệt (Paim và CS., 2012; Marai và CS., 2007; Silanikove, 2000). Sự thay đổi nhiệt độ và ẩm độ môi trường là yếu tố làm ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh lý, trạng thái sức khỏe của cừu (Alhidary và CS., 2012; McManus và CS., 2008; Bhatta và CS., 2005). Đặc biệt, khi nhiệt độ và ẩm độ thay đổi đột ngột hoặc khi nhiệt độ tăng quá cao cừu không thể thích ứng kịp thời dẫn đến stress nghiêm trọng và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của cừu (Srikandakumar và CS., 2003). Cừu và các loài động vật đẳng nhiệt khác, nhiệt độ cơ thể luôn được giữ ở mức ổn định nhờ hai quá trình sinh nhiệt - thải nhiệt xảy ra đồng thời và ở trạng thái cân bằng, quá trình đó theo phương trình sau (Berman và CS., 1985): M = HS + R + E + C + K Trong đó: M: tổng lượng nhiệt sản sinh của cơ thể; HS: nhiệt dự trữ; R: nhiệt trao đổi bức xạ; E: nhiệt trao đổi bằng cách bốc hơi nước; C: nhiệt trao đổi bằng đối lưu; K: nhiệt trao đổi bằng truyền dẫn. Trao đổi nhiệt bằng cách bốc hơi nước là phương thức thải nhiệt ra khỏi cơ thể của động vật qua đường hô hấp và qua da. Bốc hơi nước qua da 18 diễn ra từ bề mặt cơ thể, do hoạt động của tuyến mồ hôi, là phương thức thải nhiệt chủ yếu của động vật đẳng nhiệt nói chung và chiếm 75 - 85% tổng lượng nhiệt sinh ra, làm cho cơ thể mất nhiệt rất nhanh. Tuy nhiên, cừu là gia súc có tuyến mồ hôi kém phát triển so với các gia súc khác như trâu, bò; mặt khác, cừu có bộ lông dày đã hạn chế sự bốc hơi nước qua da, nên bốc hơi qua đường hô hấp là con đường chủ yếu để duy trì thân nhiệt của cừu trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao. Vì vậy, phản ứng đầu tiên của cừu trong điều kiện môi trường nóng ẩm là tăng tần số hô hấp (Marai và CS., 2009). Do đó, việc đánh giá khả năng thích ứng của cừu với nhiệt độ và ẩm độ trong môi trường sống mới thông qua các chỉ tiêu sinh lý là việc làm đầu tiên và hết sức cần thiết. Trong đó, tần số hô hấp là chỉ tiêu cần quan tâm chú ý trong môi trường nhiệt ẩm (Paim và CS., 2012; McManus và CS., 2008). 1.2.2. Nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm 1.2.2.1. Nhiệt độ không khí Nhiệt độ không khí luôn có sự biến đổi, dao động rất lớn giữa các mùa, các tháng, các ngày, cũng như các thời điểm trong ngày. Sự thay đổi nhiệt độ không khí có thể ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh lý (Marai và CS., 2009; McManus và CS., 2008); lượng thức ăn thu nhận (Alhidary và CS., 2012; Savage và CS., 2008); khả năng sinh trưởng (Pouliot và CS., 2009; Herrig và CS., 2006); khả năng sinh sản của cừu (Hassan, 2012; Rosa và Bryant, 2003). Thân nhiệt, tần số hô hấp của cừu bắt đầu tăng lên trên mức bình thường khi nhiệt độ môi trường >320C, ẩm độ <65% và cừu có thể chịu được nhiệt độ lên đến 430C trong 4 giờ nhờ quá trình điều tiết nhiệt bằng cách bốc hơi nước qua da và hô hấp (Srikandakumar và CS., 2003). Khi nhiệt độ môi trường cao, tần số hô hấp của cừu tăng lên để thải bớt nhiệt ra ngoài cơ thể (Alhidary và CS., 2012; Bhatta và CS., 2005). Nhịp tim của cừu cũng bị ảnh 19 hưởng bởi môi trường nhiệt độ cao, tuy nhiên nhịp tim không biến đổi nhiều như tần số hô hấp (McManus và CS., 2008; Marai và CS., 2007). Nhiệt độ môi trường cao còn ảnh hưởng tới nhiệt độ da của cừu (Marai và CS., 2009). Nhiệt độ môi trường cao là một trong những yếu tố hạn chế đến khả năng sinh trưởng, khả năng sản xuất của cừu. Nhiệt độ cao giảm lượng thức ăn thu nhận, giảm khả năng tiêu hóa, sự trao đổi chất chậm lại, ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng, sinh sản, sản xuất sữa, khả năng cho lông, thiệt hại đến kinh tế (McManus và CS., 2008; Thwaites, 1967). Nhiệt độ môi trường quá cao sẽ làm giảm khả năng sinh sản của cừu (Rosa và Bryant, 2003). Thời gian sinh sản của cừu thường ứng với những mùa có nhiệt độ ôn hòa, vào mùa xuân ấm áp và mùa thu mát mẽ (Acharya, 2009). Nhiệt độ môi trường cao, làm giảm kích thước các cơ quan sinh dục đực, giảm chất lượng tinh trùng (Hassan, 2012), giảm cường độ hành vi tình dục (Maurya và CS., 2005). 1.2.2.2. Độ ẩm không khí Độ ẩm không khí có sự dao động rất lớn giữa các mùa trong năm, giữa các tháng, các ngày và các thời điểm trong ngày. Sự thay đổi của độ ẩm không khí phụ thuộc sự bảo hòa hơi nước trong không khí, vào nhiệt độ và tốc độ chuyển động của không khí. Độ ẩm phụ thuộc vào vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu của từng địa phương, khu vực. Trong chuồng nuôi, độ ẩm và nhiệt độ có liên quan chặt chẽ với nhau. Khi nhiệt độ không khí càng cao, lượng hơi nước bão hòa trong không khí càng lớn. Ngược lại, nhiệt độ không khí giảm thấp làm hơi nước ngưng tụ lại khiến nền chuồng, tường, vách ẩm ướt, ảnh hưởng đến quá trình thải nhiệt bằng bốc hơi của vật nuôi. Ngoài độ ẩm không khí trong chuồng nuôi, còn có độ ẩm được xác định trên bề mặt da, trong lớp lông của cừu do sự bốc hơi nước qua da, gọi là độ ẩm sinh lý (Hahn và CS., 2009). 20 Độ ẩm không khí ảnh hưởng đến cân bằng nhiệt của động vật. Đặc biệt là ở môi trường quá nóng hoặc quá lạnh. Khi độ ẩm cao hoặc bảo hòa sự thải nhiệt bằng phương thức bốc hơi bị trở ngại; khi độ ẩm không khí cao kết hợp với nhiệt độ thấp thì tăng tỏa nhiệt gây nên cảm lạnh cho gia súc; khi độ ẩm không khí cao kết hợp nhiệt độ cao sẽ gây cản trở quá trình tỏa nhiệt ra môi trường làm thân nhiệt tăng lên (Marai và CS., 2007; Katoh và CS., 1989). 1.2.2.3. Chỉ số nhiệt ẩm Trong thực tế, để xác định ảnh hưởng riêng biệt giữa nhiệt độ và ẩm độ đến vật nuôi là rất khó khăn, đặc biệt trong điều kiện nhiệt đới ẩm. Vì vậy, để đánh giá mức độ khắc nghiệt của nhiệt độ và ẩm độ hàng ngày đối với vật nuôi các nhà khoa học đã sử dụng THI. THI là chỉ số có được bằng cách tính theo phương trình, kết hợp thông số giữa nhiệt độ và ẩm độ để xây dựng nên. THI như là một tiêu chí thực tế để phân loại môi trường nhiệt, áp dụng đánh giá trong sản xuất chăn nuôi (Hahn và CS, 2009). Trên cơ sở chỉ số không thoải mái (Discomfort Index) sử dụng cho người được phát triển bởi Thom (1959), các nhà khoa học đã xây dựng công thức tính THI và được áp dụng rộng rãi trong chăn nuôi (bảng 1.2, công thức 1), đến nay có khoảng 100 công thức tính THI và thang đánh giá khác nhau (Hahn và CS., 2009). Sau đây là một số công thức được sử dụng phổ biến để đánh giá ảnh hưởng của THI đến các chỉ tiêu sinh lý, sinh trưởng và sinh sản của cừu: (1) THI = 0,8Tdb + RH(Tdb - 14,4) + 46,4 Trong đó: Tdb: nhiệt độ bên khô (0C); RH: độ ẩm tương đối (%). Trên cơ sở tính toán này, thang đánh giá THI trong chăn nuôi được quy định: ≤74: bình thường; 75 - 78: cảnh báo; 79 - 83: nguy hiểm; ≥84: khẩn cấp. 21 Bảng 1.2. Bảng tính sẵn THI (dựa trên Thom, 1959) đánh giá bất lợi của thời tiết trong chăn nuôi (LWSI; LCI, 1970) (Hahn và CS., 2009) Nhiệt độ (0C) Độ ẩm tương đối (%) 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100 21 64 64 64 65 65 65 66 66 66 67 67 67 68 68 68 69 69 69 70 70 22 65 65 65 66 66 67 67 67 68 68 69 69 69 70 70 70 71 71 72 72 23 66 66 67 67 67 68 68 69 69 70 70 70 71 71 72 72 73 73 74 74 24 67 67 68 68 69 69 70 70 71 71 72 72 73 73 74 74 75 75 76 76 26 68 68 69 69 70 70 71 71 72 73 73 74 74 75 75 76 76 77 77 78 27 69 69 70 70 71 72 72 73 73 74 75 75 76 76 77 78 78 79 79 80 28 69 70 71 71 72 73 73 74 75 75 76 77 77 78 79 79 80 81 81 82 29 70 71 72 72 73 74 75 75 76 77 78 78 79 80 80 81 82 83 83 84 30 71 72 73 73 74 75 76 77 78 78 79 80 81 81 82 83 84 84 85 86 31 72 73 74 74 76 76 77 78 79 80 81 81 82 83 84 85 86 86 87 88 32 73 74 75 75 77 78 79 79 80 81 82 83 84 85 86 86 87 88 89 90 33 74 75 76 76 78 79 80 81 82 83 84 85 85 86 87 88 89 90 91 92 34 75 76 77 77 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 36 76 77 78 78 80 81 82 83 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 37 77 78 79 79 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 93 94 95 96 97 98 38 78 79 80 80 83 84 85 86 87 88 90 91 92 93 94 95 97 98 99 100 39 79 80 81 82 85 85 86 87 89 90 91 92 94 95 96 97 98 100 101 102 40 80 81 82 84 86 86 88 89 90 91 93 94 95 96 98 99 100 101 103 104 41 81 82 84 85 87 88 89 90 91 93 94 95 97 98 99 101 102 103 105 106 42 82 83 85 86 88 89 90 92 93 94 96 97 98 100 101 103 104 105 107 108 43 83 84 86 87 89 90 91 93 94 96 97 99 100 101 103 104 106 107 109 110 Công thức (1) được Herrig và CS. (2006) áp dụng để đánh giá ảnh hưởng của môi trường và các biện pháp nhằm nâng cao khả năng sinh trưởng của cừu. Alhidary và CS. (2012), áp dụng để đánh giá các phản ứng sinh lý, lượng nước uống, lượng thức ăn ăn vào của cừu Merino (Úc) với môi trường. Cừu Merino khi tiếp xúc với nhiệt độ môi trường cao (28 - 380C) thân nhiệt tăng 0,80C, tần số hô hấp tăng 66 lần/phút, lượng nước uống tăng 2,7 lít/ngày, lượng ăn vào giảm 22%, khối lượng giảm 5,2% (Alhidary và CS., 2012). Theo Kelly và Bond (1971) (trích dẫn bởi Saab và CS., 2011; Finocchiaro và CS., 2005) thì THI được tính theo công thức: (2) THI = Tdb - {(0,55 - 0,55RH)(Tdb - 14,4)} Trong đó: Tdb: nhiệt độ bên khô (0C); RH: độ ẩm tương đối (%). 22 Saab và CS. (2011), Finocchiaro và CS. (2005) đã sử dụng công thức (2) để nghiên cứu ảnh hưởng stress nhiệt đến khả năng sinh sản, sức sản xuất của cừu sữa ở Địa Trung Hải. Các tác giả thông báo, THI >23, cừu ở Địa Trung Hải bắt đầu giảm năng suất sữa. Theo Marai và CS. (2000) (trích dẫn bởi Marai và CS., 2009; McManus và CS., 2008) công thức tính THI như sau: (3) THI = Tdb - {(0,31 - 0,31RH)(Tdb - 14,4)} Trong đó: Tdb: nhiệt độ bên khô (0C); RH: độ ẩm tương đối (%). Các tác giả sử dụng thang đánh giá stress nhiệt như sau: THI≤22: không stress; 22,2<THI≤23,3: stress trung bình (nhẹ); 23,3<THI≤25,6: stress nghiêm trọng và THI≥25,6: stress cực kỳ nghiêm trọng (Marai và CS., 2000). Nghiên cứu hiện tại trong luận án đã sử dụng công thức và thang đánh giá của nhóm tác giả này. Marai và CS. (2009) áp dụng công thức (3) đánh giá ảnh hưởng stress nhiệt của môi trường nhiệt đới Ai Cập đến các chỉ tiêu sinh lý và sinh sản của cừu Suffolk. Theo Marai và CS. (2009), mùa đông (THI=14,5) cừu Suffolk không bị stress nhiệt, trong khi mùa hè (THI=25,6) cừu bị stress nhiệt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh lý và sinh sản của cừu. Theo McManus và CS. (2008), tần số hô hấp, nhịp tim, thân nhiệt, nhiệt độ da của cừu có tương quan với nhau và có sự sai khác giữa buổi sáng (THI=19,5) và buổi chiều (THI=24,04). Tuy nhiên, hồng cầu, hemoglobin, hematocrit, bạch cầu tương quan thiếu chặt chẽ và không có sự sai khác giữa thời gian trong ngày. Ngoài THI, để đánh giá tổng hợp các yếu tố môi trường tác động như tốc độ gió, năng lượng mặt trời... các nhà khoa học đã xây dựng nhiều chỉ số khác nhau, công thức tính được tóm tắt ở bảng 1.3. 23 Bảng 1.3. Phương trình tính các loại chỉ số nhiệt và môi trường Chỉ số Phương trình Tác giả Chỉ số nhiệt ẩm THI THI = T + 0,36DPT + 41,5 Thom (1959) Chỉ số nhiệt ẩm THI2 THI2 = (1,8T + 32) - 0,55(1 RH/100)(1,8T + 32 - 58) Kelly and Bond (1971) Chỉ số nhiệt ẩm quả cầu đen BGHI BGHI = BGT + 0,36DPT + 41,5 Buffington et al. (1981) Chỉ số nhiệt thích hợp TCI TCI = 0,659RH + 0,511PVP + 0,55BGT - 0,042AWS Silva and Barbosa (1993) Chỉ số nhiệt thích hợp TCI2 TCI2 = 0,6678T + 0,4969PVP + 0,5444BGT + 0,1038AWS Barbosa and Silva (1995) Chỉ số stress môi ESI trường ESI = 0,63T - 0,03RH + 0,0002R Moran et al. + 0,0054TxRH - 0,073(0,1+ R) - 1 (2001) Chỉ số tải nhiệt HLI HLI = 33,2+0,2RH+1,2BGT(0,82AWS)0,1log(0,4AWS2+0,0001) Chỉ số tải nhiệt HLIBG Nếu BGT > 25 °C: HLIBG = 8,62+0,38(RH/100) + 1,55BGT 0,5AWS + e2,4-AWS Gaughan et al. (2002) Gaughan et al. (2008) Nếu BGT < 25 °C: HLIBG= 10,66 + 0,28(RH/100) + 1,3BGT – AWS Chỉ số dự báo hô RRP hấp RRP = 5,4T + 0,58RH - 0,63AWS Eigenberg et al. + 0,024R - 110,9 (2008) Chỉ số nhiệt tương đương ETI = 27,88-0,456T + 0,010754T2 Baêta và CS. - 0,49505AH + 0,00088RH2 + (1987) 1,1507AWS - 0,126447AWS2 + 0,019876TxRH- 0,046313TxAWS ETI Ghi chú: R (solar radiation): năng lượng bức xạ mặt trời (W/m2*h); MWS (maximum wind speed): tốc độ gió lớn nhất (m/s); AWS (average wind speed): tốc độ gió trung bình (m/s); T (temperature): nhiệt độ không khí (0C); BGT (black globe temperature): nhiệt độ quả cầu đen (0C); RH (relative air humidity): độ ẩm tương đối (%); PVP (partial vapor pressure): một phần áp suất hơi nước (kPa); DPT (dew point temperature): nhiệt độ điểm sương (0C). DPT = 186.4905 - 237.3log(PVP10)/log(PVP10) - 8.2859 (Nguồn: Paim và CS., 2012). 24 Theo Paim và CS. (2012), khi phân tích phương sai mối quan hệ giữa các chỉ số môi trường đến nhiệt độ ở các bộ phận trên cơ thể cừu (Brazin) cũng có sự sai khác. Mặt khác, ở trên cùng một bộ phận nhưng khi áp dụng các công thức tính khác nhau vẫn cho kết quả khác nhau (bảng 1.4). Bảng 1.4. Phân tích phương sai ảnh hưởng của các chỉ số môi trường đến nhiệt độ tại các vị trí trên cơ thể cừu Nhiệt độ các vị trí khác nhau trên cơ thể (0C) Chỉ số Nách chân Nách trước chân sau Cơ thể Mũi Đầu Cổ TCI * *** ** *** ns ns * TCI2 * *** ** *** ns ns P<0,10 ESI *** ** *** ** ns *** *** HLI P<0,10 *** * *** ns ns P<0,10 RRP ns ns ns ns ns ns ns ETI * *** ** *** ns ns * THI *** *** *** *** * * *** THI2 P<0,10 *** ** *** P<0,10 ns ns BGHI ns *** ns *** ns ns ns HLIBG ns ns ns ns * P<0,10 ns R² 0,75 0,67 0,73 0,76 0,62 0,73 0,74 CV 15,21 11,92 13,89 12,66 14 13,71 16,35 X 27,05 29,44 27,74 26,45 28,25 26,96 27,06 Mông Ghi chú: *p<0.05; **p<0.01; ***p<0.001; ns: sai khác không có ý nghĩa thống kê. TCI (thermal comfort index): chỉ số nhiệt thích hợp; ESI (Environmental stress index): chỉ số stress môi trường; HLI (heat load index), BGHI (black globe temperature and humidity index), HLIBG (heat load index using black globe temperature): chỉ số tải nhiệt; RRP (respiratory rate predictor): chỉ số dự báo hô hấp; ETI (equivalent thermal index): chỉ số nhiệt tương đương; R2: hệ số tương quan; CV: hệ số biến dị: X: trung bình. 25 Như vậy, để xác định ảnh hưởng tổng hợp của nhiệt độ và ẩm độ đến sức sản xuất của gia súc có rất nhiều công thức tính THI. Tuy nhiên, khi sử dụng các công thức THI và thang chuẩn khác nhau để đánh giá mức độ stress nhiệt cho cừu có sự sai khác. Vì vậy, cần có các thang đánh giá stress nhiệt riêng cho từng giống cừu, cũng như ở các vùng khác nhau. Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có các công trình nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ và THI đến các chỉ tiêu sinh lý của bò lai (Văn Tiến Dũng và CS., 2010; Nguyễn Thạc Hòa và CS., 2009; Đặng Thái Hải và Nguyễn Thị Tú, 2008; Lê Văn Phước và CS., 2007a; Vương Tuấn Thực và CS., 2007); khả năng thu nhận thức ăn, sản lượng sữa của bò (Đặng Thái Hải và Nguyễn Thị Tú, 2010); khả năng sản xuất của gia súc, gia cầm (Ngô Sỹ Giai và Trịnh Hoàng Dương, 2009)... Các nghiên cứu cho thấy, thân nhiệt, nhịp tim, tần số hô hấp có tương quan dương với THI; trong ngày, tần số hô hấp và nhịp tim cao nhất vào buổi trưa, thân nhiệt cao nhất vào buổi chiều (Đặng Thái Hải và Nguyễn Thị Tú, 2008, 2010; Vương Tuấn Thực và CS., 2006). THI có tương quan âm với lượng thức ăn thu nhận và năng suất sữa của bò (Đặng Thái Hải và Nguyễn Thị Tú, 2010; Ngô Sỹ Giai và Trịnh Hoàng Dương, 2009), khả năng sản xuất của lợn (Lê Văn Phước và CS., 2007b), tỷ lệ thụ thai của gia súc và sản lượng trứng của gia cầm (Ngô Sỹ Giai và Trịnh Hoàng Dương, 2009). Tuy nhiên, các nghiên cứu sử dụng THI để đánh giá khả năng thích ứng thông qua đặc điểm sinh lý và khả năng sản xuất trên cừu ở Việt Nam hoàn toàn chưa có nghiên cứu nào được công bố. 26 1.2.3. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý của cừu 1.2.3.1. Thân nhiệt Thân nhiệt của cừu là nhiệt độ cơ thể được đo qua trực tràng, là một chỉ thị về cân bằng nhiệt, có thể sử dụng để đánh giá những ảnh hưởng bất lợi của môi trường đối với cơ thể (Alhidary và CS., 2012; Marai và CS., 2009; McManus và CS., 2008). Ở điều kiện sinh lý bình thường thân nhiệt của cừu tương đối ổn định và độc lập với nhiệt độ môi trường. Sự ổn định tương đối này là nhờ quá trình sinh nhiệt và thải nhiệt của cừu (Berman và CS., 1985). Theo Marai và CS. (2007), thân nhiệt của cừu bình thường trong khoảng 38,3 - 39,90C, thân nhiệt tăng lên 420C là nguy hiểm. Thân nhiệt của cừu có thể biến đổi trong phạm vi sinh lý nhất định, phụ thuộc vào giống, tuổi, tính biệt, trạng thái sinh lý, hoạt động, màu lông, nhiệt độ và ẩm độ môi trường... Quan hệ giữa thân nhiệt của cừu với môi trường tóm tắt ở bảng 1.5. Sự gia tăng nhiệt độ môi trường sống quá cao có ảnh hưởng đến thân nhiệt của cừu (Marai và CS., 2007; Katoh và CS., 1989). Theo Srikandakumar và CS. (2003), thân nhiệt của cừu bắt đầu tăng lên khi nhiệt độ môi trường >320C. Thân nhiệt của cừu ở phòng nóng (30 - 400C) cao hơn so với phòng mát (200C) (Sarage và CS., 2008); nhiệt độ môi trường 200C thân nhiệt của cừu là 38,70C, khi nhiệt độ 320C thân nhiệt là 39,10C (Katoh và CS., 1989). Trong năm, các mùa, các tháng khác nhau, nhiệt độ dao động đáng kể kéo theo sự thay đổi của thân nhiệt (Marai và CS., 2009; Bhatta và CS., 2005). Thân nhiệt cừu vào mùa đông thấp hơn so với mùa hè. Trong một ngày đêm thân nhiệt của cừu dao động theo quy luật: thấp nhất vào buổi sáng, càng về trưa thân nhiệt càng cao, đạt cao nhất là buổi chiều (15.00-16.00h), sau đó giảm dần vào buổi tối và giảm thấp nhất vào lúc nửa đêm, sáng hôm sau bắt đầu tăng dần (Aleksiev, 2008; McManus và CS., 2008; Marai và CS., 2007; 27 Bhatta và CS., 2005; Hamadeh và CS., 1997). Biên độ dao động thân nhiệt trung bình ngày vào mùa đông 0,850C và mùa hè 0,560C, buổi chiều trời mát nhưng cũng là lúc thân nhiệt cao nhất (Haidary và CS., 2012). Bảng 1.5. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với thân nhiệt của cừu Giống cừu Merino (Úc) Merino (Úc) Omani (Úc) Santa Ines (Brazin) Suffolk (Ai Cập) West African Dwarf Nhiệt độ, ẩm độ, THI, mùa Thân nhiệt (0C) T = 23,20C, RH = 51,9%, THI = 69,6 39,10 T = 37,40C, RH = 49,8%, THI = 87,8 39,83 Mùa lạnh: THI = 72 39,50 Mùa nóng: THI = 93 39,80 Mùa lạnh: THI = 72 39,00 Mùa nóng: THI = 93 39,70 Buổi sáng: THI = 19,05 38,25 Buổi chiều: THI = 24,04 39,44 Mùa đông: THI = 14,5 38,70 Mùa hè: 39,80 THI = 25,6 P 0,001 Cuối mùa khô 38,93 Đầu mùa mưa 38,60 Nguồn trích dẫn Alhidary và CS., (2012) <0,01 Srikandakumar và CS., (2003) <0,01 <0,05 McManus và CS., (2008) <0,01 Marai và CS., (2009) <0,05 Fadare và CS., 2012 THI có ảnh hưởng đến thân nhiệt, khi THI thay đổi, dẫn đến thân nhiệt của cừu cũng có sự biến đổi (bảng 1.5) (Alhidary và CS., 2012; Marai và CS., 2009; Srikandakumar và CS., 2003). Khi THI tăng dẫn đến thân nhiệt của cừu Merino tăng lên (Alhidary và CS., 2012). Theo Marai và CS. (2009), thân nhiệt cừu Suffolk (Ai Cập) ở THI=14,5 là 38,70C, khi THI=25,6 thân nhiệt là 39,80C. Sự thay đổi thân nhiệt của cừu trước sự thay đổi của nhiệt độ không có nghĩa cừu là động vật "biến nhiệt", thân nhiệt của cừu ổn định là nhờ sự điều hòa của mối cân bằng nhiệt giữa hai quá trình sinh nhiệt - thải nhiệt của cơ thể. 28 1.2.3.2. Tần số hô hấp Tần số hô hấp của cừu là số lần thở trong một phút (lần/phút), là chỉ số dùng để dự báo stress nhiệt của cừu (Marai và CS., 2007; Srikandakumar và CS., 2003). Tần số hô hấp của cừu bình thường khoảng 15 - 40 lần/phút và có thể đạt tối đa 350 lần/phút (Adam và McKinley, 2009). Tần số hô hấp của cừu thay đổi phụ thuộc vào yếu tố cơ thể và điều kiện ngoại cảnh. Tần số hô hấp của cừu con nhanh hơn cừu trưởng thành, cừu đực cao hơn cừu cái, cừu lông màu đen cao hơn lông màu nâu, trạng thái tình cảm của con vật, nhiệt độ và ẩm độ môi trường. Quan hệ giữa tần số hô hấp của cừu với môi trường tóm tắt ở bảng 1.6. Bảng 1.6. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với tần số hô hấp của cừu Giống cừu Merino (Úc) Merino (Úc) Merino (Úc) Omani (Úc) Santa Ines (Brazin) West African Dwarf Nhiệt độ, ẩm độ, THI, mùa Tần số hô hấp (lần/phút) T = 23,20C, RH = 51,9%, THI = 69,6 39,40 T = 37,40C, RH = 49,8%, THI = 87,8 109,90 Phòng mát (20 0C) 149,00 0 206,00 Mùa lạnh: THI = 72 50,00 Mùa nóng: THI = 93 128,00 Mùa lạnh: THI = 72 34,00 Mùa nóng: THI = 93 65,00 Buổi sáng: THI = 19,05 35,66 Buổi chiều: THI= 24,04 49,85 Cuối mùa khô 65,17 Phòng nóng (30 - 40 C) Đầu mùa mưa 50,87 P Nguồn trích dẫn 0,001 Alhidary và CS., (2012) <0,05 Savage và CS., (2007) <0,01 Srikandakumar và CS., (2003) <0,01 <0,05 McManus và CS., (2008) <0,05 Fadare và CS., 2012 29 Trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao, dẫn đến thân nhiệt tăng, cừu phải tăng tần số hô hấp để thải nhiệt ra ngoài, vì vậy tần số hô hấp của cừu tăng lên (Alhidary và CS. 2012; Bhatta và CS., 2005; Srikandakumar và CS., 2003). Theo Marai và CS. (2007), khoảng 20% lượng nhiệt cơ thể cừu thải ra qua hô hấp ở nhiệt độ môi trường 120C, nhưng có đến 60% khi nhiệt độ môi trường 350C. Theo Sarage và CS. (2008), tần số hô hấp của cừu trong phòng nóng (30 - 400C) là 206 lần/phút cao hơn so với phòng mát (200C) 149 lần/phút. Theo Katoh và CS. (1989), tần số hô hấp của cừu khi nhiệt độ môi trường 200C là 41 lần/phút, tăng lên là 90 lần/phút ở 320C. Mùa hè tần số hô hấp của cừu nhanh hơn mùa đông, buổi trưa nóng bức hô hấp nhanh hơn ban đêm trời mát (Marai và CS., 2007). Tần số hô hấp tăng/giảm theo quy luật: thấp nhất vào buổi sáng, cao nhất vào buổi trưa và sau đó giảm dần vào buổi chiều (Aleksiev, 2008; McManus và CS., 2008; Marai và CS., 2007; Bhattacharya và Uwayjan, 1975). Theo Aleksiev (2008), tần số hô hấp của cừu Tsigai buổi sáng (7.00h) là 36,6 lần/phút và buổi chiều (14.00h) là 55,9 lần/phút. Thời điểm cuối mùa khô và đầu mùa mưa tần số hô hấp của cừu cũng có sự sai khác (Fadare và CS., 2012). Tần số hô hấp của cừu có quan hệ với THI. Khi THI môi trường tăng cao có thể làm thay đổi tần số hô hấp của cừu (bảng 1.6) (Alhidary và CS., 2012; McManus và CS., 2008; Srikandakumar và CS., (2003). Theo McManus và CS. (2008), ở điều kiện THI = 19,05 tần số hô hấp của cừu là 35,66 lần/phút, khi THI = 24,04 tần số hô hấp là 49,85 lần/phút. 1.2.3.3. Nhịp tim Nhịp tim là số lần mạch đập trong một phút (lần/phút). Nhịp tim thể hiện cường độ trao đổi chất, trạng thái sinh lý, bệnh lý của cơ thể cũng như của tim. Nhịp tim bình thường của cừu khoảng 50 – 80 lần/phút và có thể đạt tối đa 260 - 280 lần/phút (Adam và McKinley, 2009). 30 Nhịp tim thay đổi theo độ tuổi, màu lông, trạng thái phản ứng tình cảm của cừu. Nhịp tim tăng khi nhiệt độ môi trường tăng cao, thân nhiệt tăng, khi tinh thần hưng phấn, khi gia súc đang ăn, vận động... Nhịp tim của cừu thay đổi phụ thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ và THI. Tuy nhiên, so với thân nhiệt và tần số hô hấp, nhịp tim bị ảnh hưởng bởi stress nhiệt ít hơn. Khi THI tăng, nhịp tim và tần số hô hấp đều tăng, nhưng nhịp tim không tăng nhiều như tần số hô hấp. Mùa hè nhịp tim cao hơn mùa đông, nhịp tim buổi sáng, chậm hơn buổi trưa và buổi chiều (Haidary và CS., 2012; Aleksiev, 2008; Marai và CS., 2007; Hamadeh và CS., 1997). Theo McManus và CS. (2008), nhịp tim cừu Santa Ines (Brazin) ở buổi sáng (THI = 19,05) là 92,82 lần/phút và ở buổi chiều (THI = 24,04) là 104,63 lần/phút. 1.2.3.4. Nhiệt độ da Da của động vật có vú đóng vai trò quan trọng trong việc trao đổi nhiệt giữa cơ thể và môi trường. Nhiệt độ da là kết quả của việc điều chỉnh lưu lượng máu ở bề mặt da và cơ thể. Nhiệt độ da được xác định trên bề mặt da hay trong lớp lông của con vật để chỉ trạng thái không khí bao quanh da, lẫn trong lớp lông, hấp thụ nhiệt và nước từ trong da phân bố ra (Marai và CS., 2007). Nhiệt độ da biểu hiện khả năng tỏa nhiệt của con vật. Nhiệt độ da có thể thay đổi phụ thuộc vào các mùa trong năm và các thời điểm trong ngày. Nhiệt độ da cao nhất vào mùa hè, khi trời nắng nóng, nhiệt độ môi trường cao và giảm thấp ở mùa đông, khi nhiệt độ thấp (Haidary và CS., 2012; Marai và CS., 2009; Bhatta và CS., 2005). Buổi sáng nhiệt độ da thấp, sau đó tăng dần vào buổi trưa và tăng cao nhất vào buổi chiều (Haidary và CS., 2012; Marai và CS., 2007). Nhiệt độ da của cừu Santa Ines (Brazin) ở buổi sáng (THI = 19,05) là 35,180C và ở buổi chiều (THI = 24,04) là 37,850C (McManus và CS., 2008); cừu Suffolk vào mùa đông (THI = 14,5) nhiệt độ da là 36,70C và mùa hè (THI = 25,6) là 38,30C (Marai và CS., 2009). 31 1.2.4. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý máu của cừu 1.2.4.1. Hồng cầu Hồng cầu (RBC) là thành phần cấu tạo của máu, bao gồm 60% là nước và 40% vật chất khô; trong vật chất khô hemoglobin (Hb) chiếm 90% và đảm nhận chức năng sinh lý của hồng cầu. Số lượng hồng cầu của cừu có sự dao động lớn, trong khoảng 6,5 - 10,3 triệu/mm3 (Jelínek và CS., 1986). Số lượng hồng cầu của cừu có sự sai khác giữa các giống, tuổi, chế độ dinh dưỡng, trạng thái sinh lý, bệnh tật và điều kiện môi trường (bảng 1.7). Tuy nhiên, hồng cầu không có sự sai khác giữa giới tính và màu lông. Số lượng hồng cầu của cừu có sự sai khác theo các mùa trong năm (Fadare và CS., 2012). Theo Fadare và CS. (2012), vào cuối mùa khô ở Nigeria số lượng hồng cầu của cừu West African Dwarf cao hơn so với đầu mùa mưa. Tuy nhiên, tác giả cũng cho biết tương quan giữa số lượng hồng cầu và nhiệt độ, ẩm độ môi trường là không chặt chẽ. Số lượng hồng cầu không có sự sai khác theo các thời điểm trong ngày (McManus và CS., 2008; Bhattacharya và Uwayjan, 1975). Theo Bhattacharya và Uwayjan (1975), mặc dù có sự thay đổi đáng kể về nhiệt độ, ẩm độ ở buổi sáng và buổi chiều nhưng hồng cầu cừu Awasi vẫn không có sự sai khác. Hồng cầu cừu vào buổi sáng là 10,54 triệu/mm3 và buổi chiều là 10,04 triệu/mm3 (McManus và CS., 2008). 1.2.4.2. Hemoglobin Hemoglobin là thành phần chủ yếu của hồng cầu và đảm nhiệm chức năng chính của hồng cầu. Ở trạng thái sinh lý bình thường hàm lượng Hb trong máu có tính tương đối ổn định. Hb cừu bình thường là 9 -15g% (Adams và McKinley, 2009). Theo Jelínek và CS., (1986), Hb của cừu là 10,1 - 12,1 g/dl. Theo Radin và CS. (2008), Hb cừu Croatia dao động từ 7,6 đến 11,8g%. 32 Hemoglobin trong máu thay đổi phụ thuộc vào giống, tuổi, chế độ nuôi dưỡng, trạng thái cơ thể, bệnh tật, nhiệt độ và ẩm độ môi trường (bảng 1.7). Tuy nhiên, giới tính không có ảnh hưởng đến hàm lượng Hb ở cừu. Hemoglobin thay đổi theo nhiệt độ, ẩm độ và THI ở cừu Merino nhưng không có sự thay đổi ở cừu Omani (Srikandakumar và CS., 2003). Theo Srikandakumar và CS. (2003), Hb của cừu Merino và Omani ở mùa lạnh (THI = 72) là 12,65 g/dl và 13,43g/dl; ở mùa nóng (THI = 93) là 10,53g/dl và 13,53g/dl. Kết quả nghiên cứu của McManus và CS. (2008), Bhattacharya và Uwayjan (1975) cho thấy, không có sự sai khác về hàm lượng Hb của cừu ở buổi sáng và buổi chiều trong ngày. 1.2.4.3. Hematocrit Hematocrit (Hem) là tỷ lệ % thể tích giữa hồng cầu và huyết tương khi cho máu có chất chống đông vào ống hematocrit để ly tâm. Thường hematocrit ở các loài động vật nói chung khoảng 50%. Theo Radin và CS. (2008), hematocrit của cừu là 29% (dao động 22,6 - 36,2%). Hematocrit của cừu có sự sai khác theo độ tuổi, thời điểm sơ sinh là 41,9%, có xu hướng giảm ở các ngày tiếp theo, đạt thấp nhất lúc 14 ngày tuổi (27,2%), sau đó tăng cao ở tháng thứ 1 đến thứ 5, giảm dần và tương đối ổn định ở các tháng tuổi lớn hơn, lúc 12 tháng tuổi là 33,8% (Ullrey và CS., 1965). Nhiệt độ và ẩm độ môi trường trong ngày không có ảnh hưởng đến hàm lượng hematocrit của cừu. Kết quả nghiên cứu của McManus và CS. (2008), Bhattacharya và Uwayjan (1975), mặc dù có sự thay đổi đáng kể về nhiệt độ, ẩm độ vào buổi sáng và buổi chiều nhưng hàm lượng hematocrit của cừu Awasi không có sự sai khác. 33 1.2.4.4. Bạch cầu Bạch cầu (WBC) là những tế bào có nhân, không có huyết sắc tố, số lượng ít hơn hồng cầu, kích thước thay đổi từ 5 – 20µm. Số lượng bạch cầu thường ít ổn định và thay đổi tuỳ theo trạng thái cơ thể. Theo Jelíneks và CS. (1986), bạch cầu của cừu dao động trong khoảng 4,98 - 9,93 ngàn/ mm3. Theo Trần Quang Hân (2007b), số lượng bạch cầu cừu Phan Rang là 8,38 nghìn/mm3 (con đực) và 8,01 nghìn/mm3 (con cái). Số lượng bạch cầu thay đổi theo giới tính, tuổi, màu lông, chế độ dinh dưỡng, trạng thái vận động, bị bệnh và yếu tố môi trường (bảng 1.7). Tuy nhiên, không thấy có sự sai khác về số lượng bạch cầu ở các giống. Bảng 1.7. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý máu của cừu Giống cừu Merino (Úc) Omani (Úc) RBC Nhiệt độ, ẩm độ, (triệu/ THI, mùa mm3) WBC Hb Hem (nghìn/ Nguồn trích dẫn (g%) (%) mm3) ML: THI = 72 12,65* MN: THI = 93 10,53 ML: THI = 72 13,43 MN: THI = 93 13,53 Srikandakumar và CS., (2003) Awasi BS: 20 - 210C 9,2 11,7 32,8 4,1* (Li-băng) BC: 27 - 330C 9,2 11,2 32,0 6,2 Santa Ines West African Dwarf Belice (Ý) Buổi sáng 10,54 9,12 31,17 11,77 Buổi chiều 10,04 9,16 31,34 14,77 Cuối mùa khô 3,25* 6,2* Đầu mùa mưa 2,63 6,4 8,20 8,98 24,14 12,49 * Bhattacharya và Uwayjan (1975) McManus và CS., (2008) Fadare và CS., (2012) Piccione và CS., (2008) RBC, Hb, WBC trong cùng một giống có sự sai khác (P<0,05) ở các điều kiện môi trường khác nhau 34 Số lượng bạch cầu của cừu có sự sai khác theo mùa (Fadare và CS., 2012) và các thời điểm trong ngày (McManus và CS., 2008; Bhattacharya và Uwayjan, 1975). Theo Fadare và CS. (2012), vào cuối mùa khô ở Nigeria bạch cầu của cừu West African Dwarf thấp hơn so với đầu mùa mưa. Bạch cầu của cừu vào buổi sáng là 4,1 nghìn/mm3, tăng cao vào buổi chiều là 6,2 nghìn/mm3 (Bhattacharya và Uwayjan, 1975). 1.3. QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VỚI KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA CỪU 1.3.1. Quan hệ giữa môi trường với khả năng sinh trưởng của cừu Sinh trưởng là một mặt của phát triển, nói lên sự thay đổi về số lượng, có liên quan đến sự lớn lên và tăng khối lượng, tầm vóc, thể tích, các chiều đo của từng bộ phận và toàn bộ cơ thể trong quá trình phát triển của gia súc. Sinh trưởng phụ thuộc bản chất di truyền của gia súc và điều kiện ngoại cảnh. Do đó, khả năng sinh trưởng được sử dụng như một tiêu chí để đánh giá khả năng thích ứng của cừu trong điều kiện môi trường sống mới (Singh và CS., 2006). Sinh trưởng phần lớn thể hiện ở các tính trạng năng suất, là các tính trạng số lượng, các tính trạng đo lường được. Khối lượng, các chiều đo (cao vây, vòng ngực, dài thân chéo) của cơ thể, tốc độ sinh trưởng, khả năng cho thịt là những tiêu chí cơ bản dùng để đánh giá khả năng sinh trưởng của cừu. Khối lượng, tốc độ sinh trưởng của cừu phụ thuộc vào yếu tố giống, giới tính, tuổi của cừu mẹ, số lượng con sinh ra/lứa và yếu tố môi trường sống (Akhtar và CS., 2012, 2001; Baneh và Hafezian, 2009; Lavvaf và CS., 2007). Nhiệt độ và ẩm độ môi trường sống đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện các tiềm năng di truyền, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của cừu đã được công bố bởi các tác giả ngoài nước (Akhtar và CS., 2012, 2001; Baneh và Hafezian, 2009; Lavvaf và CS., 2007; Behzadi và CS., 2007; Saghi 35 và CS., 2007; Carrillo và Segura, 1993; Hohenboken và CS., 1976). Cừu sinh ra trong các năm sinh khác nhau, với nhiệt độ và ẩm độ khác nhau, có sự sai khác về khối lượng sơ sinh (2,89 - 3,30kg), khối lượng cừu con cai sữa (3 tháng) (9,33 - 11,35kg), khối lượng 6 tháng tuổi (11,65 - 14,98kg), khối lượng 1 năm tuổi (13,65 - 24,20kg), cũng như tăng trọng của cừu (68,6 - 89,4 g/con/ngày) (Singh và CS., 2006). Nhiệt độ và ẩm độ ở các vùng nuôi khác nhau ảnh hưởng đến khối lượng và tốc độ sinh trưởng của cừu (Baneh và Hafezian, 2009; Saghi và CS., 2007). Nghiên cứu của Saghi và CS. (2007), trên 10.680 con cừu trong thời gian 21 năm (1983 - 2003) ở đông bắc và đông nam Iran cho thấy, mặc dù cùng một giống nhưng khối lượng cừu con sinh ra ở hai vùng khác nhau. Baneh và Hafezian (2009) tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến các tính trạng tăng trưởng cừu ở phía tây Azerbaijan cho thấy, khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa, tốc độ tăng trưởng của các đàn cừu khác nhau có sự sai khác. Các mùa trong năm có ảnh hưởng đến khối lượng và tốc độ sinh trưởng của cừu. Cừu con được sinh ra trong các mùa khác nhau có khối lượng khác nhau (Ball-Gisch, 2012; Akhtar và CS., 2001, 2012; Singh và CS., 2006). Theo Singh và CS. (2006), Akhtar và CS. (2001), cừu sinh ra trong mùa xuân có khối lượng cao hơn so với mùa thu. Tốc độ sinh trưởng của cừu có xu hướng giảm trong mùa hè và mùa đông (Rafiq, 1995); tốc độ sinh trưởng mùa xuân cao hơn trong mùa thu (Akhtar và CS., 2001). Nhiệt độ có tác động đến sự thay đổi khối lượng cơ thể cừu (Alhidary và CS., 2012; Srikandakumar và CS., 2003; Marai và CS., 2006). Theo Alhidary và CS. (2012), tăng trọng của cừu Merino giảm 5,2% khi tiếp xúc với nhiệt độ cao ở Úc. Pluske và CS. (2010) cho biết, nhiệt độ làm giảm lượng thức ăn thu nhận, ảnh hưởng đến sinh trưởng và sản xuất của cừu. 36 Tốc độ sinh trưởng và sống sót của cừu con bị ảnh hưởng vào thời điểm sinh ra. Đặc biệt vào lúc thời tiết khắc nghiệt, mùa hè nóng nực, mùa đông giá lạnh tốc độ sinh trưởng của cừu con sẽ kém (Acharya, 2009; Afzal và Naqvi, 2004). Theo Dutt (1964), cừu con tiếp xúc với nhiệt độ 320C ở thời điểm 1, 3, 5 và 8 ngày sau khi sinh tỷ lệ tử vong tương ứng là: 20, 35, 40 và 70%. Năng suất và phẩm chất thịt là những tiêu chí cơ bản dùng để đánh giá khả năng sản xuất của cừu. Năng suất thịt của cừu phụ thuộc vào giống, giới tính, tuổi giết mổ, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, nhiệt độ và ẩm độ môi trường sống. Tỷ lệ thịt xẻ của cừu ở mùa lạnh (49,2 - 50,1%) cao hơn mùa nóng (47,7 - 49,9%) (Pouliot và CS., 2009). Theo Negussie và CS. (2004), cừu sinh ra trong mùa mưa tỷ lệ thịt xẻ cao hơn cừu sinh ra trong mùa khô. Tuy nhiên, hàm lượng protein (3,2 - 3,3%) và lipit (21,5 - 21,7%) không có sự sai khác giữa các mùa (Pouliot và CS., 2009). Theo Đinh Văn Bình và CS. (2007), tỷ lệ thịt xẻ của cừu Phan Rang là 41,8-43,6% (bảng 1.8). Bảng 1.8. Đặc điểm thân thịt của cừu nuôi ở Ninh Thuận và Ba Vì Chỉ tiêu Ba Vì Ninh Thuận Số cừu (con) 6 4 Tuổi (tháng) 9 9 Khối lượng sống (kg) 22,5 22,1 Thịt xẻ (%) 43,6 41,8 Thịt tinh (%) 32,05 30,2 Đầu (%) 7,07 6,88 Chân (%) 2,59 3,22 Da, lông (%) 7,24 7,11 Phủ tạng (%) 31,9 38,5 Xương (%) 8,74 15,3 Máu (%) 3,1 4,1 (Nguồn: Đinh Văn Bình và CS., 2007) 37 1.3.2. Quan hệ giữa môi trường với khả năng sinh sản của cừu Sinh sản là một đặc tính sinh lý tất yếu của cừu nhằm duy trì và bảo tồn nòi giống. Sinh sản của cừu cái đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và số lượng đàn cừu sinh ra (Acharya, 2009). Sinh sản của cừu phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và điều kiện môi trường sống. Nhiệt độ và ẩm độ môi trường sống có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh sản của cừu cái như tuổi thành thục sinh dục, tuổi phối giống đầu tiên, tuổi đẻ lứa đầu tiên, khối lượng khi đẻ lứa đầu (Qureshi và CS., 2010; Maurya và CS., 2005; Rosa và Bryant, 2003). Theo Qureshi và CS. (2010), mùa và năm sinh có ảnh hưởng đến tuổi, khối lượng của cừu khi đẻ lứa đầu. Các nghiên cứu trong nước cũng cho kết quả tương tự (bảng 1.9) (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Trần Quang Hân, 2007b; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006). Bảng 1.9. Các chỉ tiêu sinh sản của cừu cái nuôi ở các vùng khác nhau Ninh Thuận Ba Vì Tuổi động dục lần đầu (ngày) 185 181 ± 13,5 Khối lượng động dục lần đầu (kg) 16 17,0 ± 3,7 Tuổi phối giống lần đầu (ngày) 305 295 ± 35,1 Khối lượng phối giống lần đầu (kg) 22,5 23,1 ± 2,3 Tuổi đẻ lứa đầu (ngày) 465 455 ± 12,4 Khối lượng đẻ lứa đầu (kg) 27 27,8 ± 3,5 Thời gian mang thai (ngày) 150 146 ± 2,9 Số con đẻ ra/ lứa (con) 1,33 1,37 Chỉ tiêu theo dõi Nguồn: Đinh Văn Bình và CS. (2007). Chu kỳ động dục và thời gian mang thai của cừu có hệ số di truyền cao, ít bị ảnh hưởng của yếu tố môi trường và chế độ dinh dưỡng (Đinh Văn Bình và CS. 2007; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006; Nguyễn Ngọc Tấn và CS., 2006). Chu kỳ động dục của cừu là 17 ngày (Rosa và Bryant, 2003). 38 Nhiệt độ và ẩm độ môi trường sống là yếu tố tác động có thể ảnh hưởng đến mùa sinh sản của cừu (Rosa và Bryant, 2003). Mùa động dục của cừu được đặc trưng bởi những thay đổi về hành vi tình dục, nội tiết và sự rụng trứng. Trong năm, vào các thời điểm nhiệt độ và ẩm độ khá ôn hòa và thức ăn tương đối tốt cừu thường xuất hiện động dục (Acharya, 2009; Rosa và Bryant, 2003). Theo Rosa và Bryant (2003), mùa động dục của cừu bắt đầu là cuối mùa hè, đầu mùa thu và có thể kéo dài nhưng thường kết thúc trong mùa đông. Acharya (2009) cho biết, một số ít cừu được phối giống vào mùa xuân. Ngoài ra, chế độ dinh dưỡng, năng lượng khẩu phần cũng có ảnh hưởng đến khả năng động dục của cừu (Koyuncu và Canbolat, 2009; Wright và CS., 1962). Theo Koyuncu và Canbolat (2009), tỷ lệ động dục của cừu thấp hơn đáng kể khi khẩu phần năng lượng thấp (86 và 89%) so với khẩu phần năng lượng cao (100%). Tỷ lệ phối giống của cừu bị ảnh hưởng của thức ăn và chế độ dinh dưỡng (Rosa và Bryant, 2003; Acharya, 2009). Khả năng sinh sản của cừu đực trong quá trình giao phối đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ thụ thai của cừu cái (Hassan, 2012). Mặc dù hoạt động sinh dục của cừu đực hầu như thường xuyên quanh năm, song mùa cũng có ảnh hưởng đến hoạt động sinh dục. Hoạt động sinh dục của cừu đực cũng trùng với con cái, hoạt động sinh dục tăng cao vào cuối mùa hè và trong mùa thu, thấp dần ở cuối mùa đông và mùa xuân (Rosa và Bryant, 2003). Nhiệt độ cao làm tăng nhiệt độ cơ thể, tăng nhiệt độ da bìu; làm giảm kích thước, khối lượng các cơ quan sinh dục của cừu đực, giảm chất lượng tinh trùng; tinh trùng có thể bị chết, bị kỳ hình, vận động yếu (Hassan, 2012; Saab và CS., 2011; Maria và CS., 2009; Acharya, 2009). Tuy nhiên, theo Acharya (2009), nếu cừu đực được bảo vệ đúng cách, cải thiện môi trường xung quanh và hạn chế được bức xạ mặt trời, sẽ không bị suy giảm ham muốn tình dục và chất lượng tinh dịch ngay cả trong mùa hè và các tháng mùa mưa. 39 Stress nhiệt làm giảm cường độ các hành vi tình dục, ảnh hưởng đến sự giao phối và thụ thai của cừu (Gül, 2012; Maurya và CS., 2005; Dutt, 1964). Theo Maurya và CS. (2005), các hành vi động dục của cừu cái (chạy rông, vẩy đuôi, quay đầu, tiếp cận cừu đực) khi cừu bị stress nhiệt (nhiệt độ chuồng nuôi 400C/6h/ngày) thấp hơn so với cừu không bị stress nhiệt. Geng và CS. (2008) cho biết, nhiệt độ 310C có ảnh hưởng đến cừu cái mang thai. Đối với cừu đực, các hành vi tình dục (thời gian nhảy giá, giao phối, số lần đánh hơi, liếm...) giảm ở các tháng mùa nóng và tăng cao ở mùa lạnh (Gül, 2012). 1.4. QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VỚI LƯỢNG THỨC ĂN THU NHẬN CỦA CỪU 1.4.1. Lượng thức ăn thu nhận của cừu Lượng thức ăn thu nhận (lượng ăn vào) là khối lượng thức ăn mà vật nuôi có thể ăn được trong một ngày đêm. Lượng thức ăn thu nhận có ảnh hưởng đến sinh trưởng và sức sản xuất của gia súc. Điều chỉnh lượng thức ăn thu nhận của gia súc có 3 nhóm yếu tố: trao đổi chất, hệ thống tiêu hóa và yếu tố bên ngoài. Ở nhóm trao đổi chất, hàm lượng các chất dinh dưỡng, chất trao đổi hoặc hocmon có thể kích thích hệ thần kinh gây cho gia súc bắt đầu ăn hoặc ngừng ăn. Ở nhóm hệ thống tiêu hóa, lượng các chất tiêu hóa có thể xác định gia súc ăn nhiều hay ít. Các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là sự biến động của thời tiết có ảnh hưởng lớn đến lượng thức ăn thu nhận. Lượng thức ăn thu nhận của cừu phụ thuộc vào yếu tố giống, tuổi, giới tính, trạng thái sinh lý, bản thân con vật và hướng sản xuất của chúng (Avondo và Lutri, 2005; Goetsch và Johnson, 1999). Các giống cừu khác nhau, lượng thức ăn thu nhận của cừu khác nhau (bảng 1.10). 40 Bảng 1.10. Lượng thức ăn thu nhận của cừu Giống LW (kg) DMI (kg/con/ngày) DMI (% LW) East Friesian 74,8 2,49 3,3 Lacaune 73,2 2,67 3,6 Chios 60,0 2,24 3,7 Delle Langhe 58,0 1,83 3,2 Manchega 57,0 2,24 3,9 Massese 52,4 1,98 3,8 Comisana 57,4 1,99 3,5 Churra 50,0 1,83 3,7 Nguồn: Avondo và Lutri (2005) Lượng thức ăn thu nhận của cừu bị ảnh hưởng bởi trạng thái sinh lý và bệnh lý cơ thể. Cừu đang thời kỳ sinh trưởng thể tích xoang bụng tăng dần nên ăn được ngày càng nhiều thức ăn. Cừu bị ký sinh trùng đường ruột, dẫn đến rối loạn đường tiêu hóa, giảm hấp thu dinh dưỡng, lượng thức ăn thu nhận giảm (Valderrábano và CS., 2002). Tính chất vật lý, phương pháp chế biến thức ăn có ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận của cừu (Avondo và Lutri, 2005; Paladines và CS., 1963). Những loại thức ăn có tốc độ giảm kích thước trong dạ cỏ càng nhanh (dễ vỡ) thì lượng thu nhận thức ăn càng cao. Ngược lại, các thức ăn cồng kềnh, các mảnh thức ăn dài và rất dai cừu phải nhai rất nhiều sẽ hạn chế đến lượng thu nhận thức ăn. Năng lượng khẩu phần có ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận, khả năng tiêu hóa của cừu (Sayed, 2009; Mahguob và CS., 2000; Wright và CS., 1962). Theo Mahguob và CS. (2000), cừu khi cho ăn khẩu phần có mức năng lượng thấp, lượng vật chất khô thu nhận và tỷ lệ tiêu hóa thấp hơn khẩu phần có mức năng lượng trung bình và cao. 41 Hàm lượng protein trong khẩu phần ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận và khả năng tiêu hóa của cừu (Mulugeta và Gebrehiwot, 2013; Haddad và CS., 2005). Theo Haddad và CS. (2005), cừu Awassi khi ăn khẩu phần có mức protein cao (34,0%), lượng chất hữu cơ, lượng protein ăn vào và năng lượng trao đổi của cừu cao hơn khẩu phần có mức protein thấp (15,5%) và mức protein trung bình (27,1%). Lượng thức ăn thu nhận của cừu chịu ảnh hưởng của chế độ cho ăn, sự sẵn có thức ăn ở máng ăn hoặc điều kiện đồng cỏ chăn thả, tính ngon miệng của thức ăn, điều kiện thời tiết khí hậu... Theo Avondo và Lutri (2005), lượng thức ăn thu nhận của cừu sữa được xác định theo công thức sau: I = - 0,545 + 0,095 MW + 0,65 FPCM + 0,0025 BWC Trong đó; I: lượng thức ăn thu nhận (kg DM/con/ngày); MW: khối lượng trao đổi (BW0,75); FPCM: lipit (6,5%) - và protein (5,8%), nhu cầu cho sản xuất sữa (kg); BWC: tăng trọng (g/ngày). 1.4.2. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với lượng thức ăn thu nhận của cừu Nhiệt độ và ẩm độ môi trường có ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận của cừu. Khi nhiệt độ môi trường quá cao hoặc quá thấp có ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận của cừu. Cừu là động vật đẳng nhiệt, vì vậy khi nhiệt độ môi trường cao, cừu phải tăng cường thải nhiệt để duy trì nhiệt độ cơ thể, giảm lượng thức ăn thu nhận. Ngược lại, khi nhiệt độ môi trường giảm quá thấp cừu cần nhiều năng lượng để duy trì nhiệt độ cơ thể dẫn đến lượng thu nhận thức ăn tăng (Marai và CS., 2007). 42 Lượng chất khô thu nhận (DMI) giảm đáng kể khi cừu bị stress nhiệt (Alhidary và CS., 2012; Savage và CS., 2008; Marai và CS., 2007). Theo Ames và Brink (1977), nhiệt độ trong khoảng 5 - 300C lượng thức ăn thu nhận của cừu không thay đổi, nhiệt độ <50C lượng thức ăn thu nhận tăng; nhiệt độ >300C lượng thức ăn thu nhận giảm. Theo Keyserlingk và Mathison (1993), nhiệt độ trong khoảng 5 - 210C không ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận của cừu. Theo Alhidary và CS. (2012), khi nhiệt độ môi trường vượt quá 300C, stress nhiệt xảy ra, dẫn đến DMI của cừu giảm. Lượng chất khô thu nhận của cừu Merino (Úc) ở nhiệt độ phòng 16 - 240C là 1.008 g/ngày (tương ứng 3,33% LW) và ở nhiệt độ 28 - 380C là 774 g/ngày (2,65% LW), giảm 234 g/ngày (23,2%) (Alhidary và CS., 2012). Theo Savage và CS. (2008), DMI của cừu ở nhiệt độ phòng 200C là 1.578 g/con/ngày (3% LW) và ở nhiệt độ 30 - 400C là 1.136 g/ngày (2,4% BW). Theo Llamas-Lamas và Comb (1990), lượng rơm ủ urê thu nhận của cừu ở các mức nhiệt độ 36, 34 và 40C lần lượt là 665, 870 và 884 DM g/ngày; 609, 797 và 810 OM g/ngày. Mặc dù lượng thức ăn thu nhận của cừu không nhạy cảm với stress nhiệt so với các gia súc khác ở một mức ăn, nhưng nếu khẩu phần thiếu nước hoặc mất cân đối dinh dưỡng cũng tác động thêm mức độ stress nhiệt ở cừu. Thời gian chăn thả của cừu ở bãi chăn có ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận của cừu. Cừu được chăn thả trong các giai đoạn thời tiết ôn hòa từ 7.00 11.00h, lượng thức ăn thu nhận cao hơn từ 11.00 - 15.00h và từ 15.00 19.00h (Marai và CS., 2007). Mùa có ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận và tỷ lệ tiêu hóa của cừu (Kamalzadeh, 2005; Li và CS., 2002; Goetsch và Johnson, 1999). Lượng thức ăn thu nhận của cừu ở mùa hè thấp hơn so với mùa thu (Goetsch và Johnson, 1999); mùa khô thấp hơn mùa lạnh (Kamalzadeh, 2005), ở môi trường lạnh cao hơn môi trường ấm (Li và CS., 2002). 43 Nhiệt độ môi trường có ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa thức ăn của cừu (Marai và CS., 2007; Balley, 1964). Theo Belley (1964), tỷ lệ tiêu hóa DM, CP, CF và tích lũy ni tơ của cừu ở nhiệt độ môi trường -110C lần lượt là 57,9; 77,7; 39,5% và 1,76 g/ngày; ở nhiệt độ môi trường 200C lần lượt là 62,8; 78,8; 49,6% và 2,92 g/ngày). Tuy nhiên, theo Marai và CS. (2007), nhiệt độ môi trường từ 18 - 350C không có ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của cừu ở Ai Cập. 1.5. MỘT SỐ THỨC ĂN CHO CỪU Thức ăn đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi. Để nâng cao năng suất, hiệu quả chăn nuôi cừu cần chú ý đến vấn đề giải quyết nguồn thức ăn. Cừu ăn tạp và ăn được nhiều loại thức ăn khác nhau, ngoài cỏ tự nhiên cừu có thể ăn được các loại thức ăn thô xanh và phụ phẩm nông nghiệp. Do đó việc tìm kiếm các nguồn thức ăn mới, tăng cường sử dụng hợp lý nguồn thức ăn là cần thiết. Gần đây, nhiều nghiên cứu xác định được giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn cho cừu nhằm khai thác một số nguồn thức ăn khác ngoài cỏ đã làm giảm cạnh tranh nguồn thức ăn với các gia súc nhai lại khác, tạo điều kiện phát triển chăn nuôi cừu. 1.5.1. Cỏ tự nhiên Cỏ tự nhiên là thức ăn truyền thống, quen thuộc và có tính ngon miệng đối với cừu. Các đồng cỏ tự nhiên chủ yếu là các giống cỏ bản địa, có khả năng thích nghi cao với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu tại chỗ với nhiều loài cỏ và hàm lượng dinh dưỡng khác nhau. Tuy nhiên, trong thảm cỏ tự nhiên, thông thường các loại cỏ họ đậu chiếm số lượng rất ít, dẫn đến giá trị dinh dưỡng chung của cả đồng cỏ là khá thấp, đặc biệt là hàm lượng protein thấp, sản lượng thấp, vì vậy hiệu quả chăn nuôi thấp (Võ Thị Kim Thanh, 2008; Vũ Chí Cương và CS., 2004; Nguyễn Xuân Bả và CS., 2004a). 44 Thành phần hóa học và hàm lượng dinh dưỡng của cỏ tự nhiên có sự dao động lớn theo thành phần loài, các thời điểm trong năm và theo các lứa cắt (Võ Thị Kim Thanh, 2008; Nguyễn Xuân Bả và CS., 2004a; Vũ Chí Cương và CS., 2004). Các tác giả cho biết hàm lượng vật chất khô (DM) là 20,3 - 22,7%, protein thô (CP) là 14,4 - 14,7%, xơ không tan trong môi trường trung tính (NDF) là 59,2 và khoáng tổng số (Ash) là 9,4%. Theo Vũ Chí Cương và CS. (2004), hàm lượng CP của cỏ tự nhiên ở thời điểm tháng 3 là 14,8% và đến tháng 11 là 8,7%. Tỷ lệ tiêu hóa thành phần các chất dinh dưỡng của cỏ tự nhiên có sự khác nhau cùng với sự biến động của thành phần loài, thời gian và lứa cắt. Tỷ lệ tiêu hóa cỏ tự nhiên của cừu ở các thời điểm thu cắt: DM là 46,72% (tháng 3) - 58,34% (tháng 11), OM là 54,97% (tháng 3) - 65,35% (tháng 11), CP là 52,78% (tháng 11) - 67,73% (tháng 3), NDF là 57,61% (tháng 3) - 69,78% (tháng 11) (Vũ Chí Cương và CS., 2004). Theo Cục chăn nuôi (2009), hầu hết các đồng cỏ lớn đều nằm ở các vùng đồi núi xa, giao thông bất lợi nên khó tận dụng để phát triển chăn nuôi. Các đồng cỏ gần khu vực dân cư qua thời gian sử dụng không hợp lý, không có kế hoạch trồng, khai thác và bảo vệ nên bị thoái hóa. Vì vậy, cần nghiên cứu, khai thác, sử dụng các giống cỏ có năng suất và chất lượng cao, để nâng cao hiệu quả, tạo lợi nhuận trong chăn nuôi cừu. 1.5.2. Cỏ voi Cỏ voi (Pennisetum purpureum) là loại cỏ lâu năm, được trồng nhiều các vùng sinh thái của nước ta, có năng suất chất xanh, hàm lượng các chất dinh dưỡng khá cao (Lê Đức Ngoan và CS., 2007). Năng suất chất xanh, thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ voi phụ thuộc vào giống, điều kiện thâm canh, tuổi thu hoạch, thời gian trong năm, tỷ lệ lá/thân... 45 Trong cùng một điều kiện thâm canh nhưng các giống khác nhau cho năng suất khác nhau. Theo Nguyễn Xuân Bả và CS. (2010), trên cùng đất phù sa ven sông ở tỉnh Quảng Trị, cỏ voi thường cho năng suất 35,1 tấn chất khô/năm, cỏ voi chọn lọc 1 năng suất 52,4 tấn chất khô/năm. Năng suất chất xanh của cỏ voi ở mùa mưa cao hơn mùa khô (Nguyễn Thị Thu Hồng và CS., 2006), mùa xuân - hè cao hơn mùa thu - đông (Nguyễn Xuân Bả và CS., 2010). Tuổi tái sinh khác nhau, năng suất chất khô khác nhau. Theo Vũ Chí Cương và CS. (2009), năng suất chất khô của cỏ voi ở các ngày tuổi 45, 55, 65 và 75 lần lượt là 0,15, 0,23, 0,39 và 0,59 kg/m2. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ voi có sự biến động phụ thuộc vào giống, đất trồng. Theo Nguyễn Xuân Bả và CS. (2010), thành phần hóa học của cỏ voi: DM là 14,9% (VA-06) - 17,3% (chọn lọc 1), OM là 88,4% (chọn lọc 1) - 90,0% (VA-06), CP là 12,5% (florida) - 14,5% (VA-06), CF là 29,5% (VA-06) - 34,0 (florida), NDF là 65,5% (VA-06) - 70,5 (florida). Hàm lượng DM và NDF có xu hướng tăng theo thời gian sinh trưởng của cỏ. Trái lại, hàm lượng CP có xu hướng giảm theo thời gian sinh trưởng của cỏ. Các thành phần khác như chất béo thô (EE), xơ thô (CF), xơ hòa tan trong môi trường axit (ADF) ít biến động theo tuổi tái sinh mùa đông ở cỏ voi (Vũ Chí Cương và CS., 2009, 2010). Lượng DM ăn vào của cừu có sự sai khác theo tuổi tái sinh của cỏ, lượng DM ăn vào của cừu ở cỏ voi 45 ngày tuổi là 105,2 g/kgW0,75 và 75 ngày tuổi là 114,48 g/kgW0,75. Tỷ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng ở cừu phụ thuộc vào tuổi tái sinh của cỏ, tuổi tái sinh càng lớn tỷ lệ tiêu hóa càng giảm. Tuy nhiên, tỷ lệ tiêu hóa lipit không theo quy luật này. Tỷ lệ tiêu hóa của cừu đối với cỏ voi 75 ngày tuổi DM là 59,28%, CP là 58,69%, EE là 66,4%, CF là 63,97%, NDF là 62,90%, ADF là 6303%, OM là 63,01% (Vũ Chí Cương và CS., 2009). 46 1.5.3. Cây mít Mít (Artocarpus heterophyllus Lam.) là cây trồng lâu năm, có thể sinh trưởng trên nhiều vùng đất khác nhau, thích nghi với khí hậu nóng và mưa nhiều. Vì vậy, được trồng khá phổ biến ở Thừa Thiên Huế cũng như nhiều tỉnh trên cả nước và được coi là cây của người nghèo, mang lại những lợi ích to lớn cho người dân ở các vùng nông thôn. Cây mít cho một lượng sinh khối chất xanh từ lá và cành non rất lớn, có thể sử dụng lá mít làm thức ăn cho cừu cũng như gia súc nhai lại khác (Nguyễn Thị Thanh, 2008; Kusmartono, 2007; Mui và Preston, 2005; Nguyễn Thị Mùi và CS., 2004; IsLam và CS., 1997). Lá mít có thành phần dinh dưỡng cao (Nguyễn Thị Thanh, 2008; Nguyễn Thị Mùi và CS., 2004). Theo Nguyễn Thị Mùi và CS. (2004), DM lá mít là 37,7%, CP là 17,1%, Ash là 11,4%, NDF là 55,6%, ADF là 42,1% và ME là 9,76 MJ. Sử dụng lá mít làm thức ăn bổ sung cho dê cho kết quả tốt. Tỷ lệ tiêu hóa các chất hữu cơ, DM, CP và NDF trên dê lần lượt là 55,5; 47,9 và 40,6% (Nguyễn Thị Mùi và CS., 2004). Các phụ phẩm từ mít như vỏ trái, xơ, hạt chứa một hàm lượng lớn protein, là những thức ăn tiềm năng và có giá trị dinh dưỡng cho cừu (Kusmartono, 2007; Mui và Preston, 2005; Đinh Văn Cải và CS., 2004). Sử dụng các phụ phẩm mít như là nguồn năng lượng cùng với lá sắn đã cải thiện tỷ lệ tiêu hóa, khối lượng và tăng trọng của cừu (Kusmartono, 2007). 1.5.4. Cây duối Cây duối (Streblus asper Lour) là một loại cây gỗ, cỡ trung bình, cao khoảng 4 - 8m, rậm tán, cành đâm chéo nhau. Lá duối có dạng trứng nhọn, dài 3 - 7cm, rộng 1,5 - 2,5cm, mép có răng khía, mặt lá rất ráp. Thân và cành khúc khuỷu. Lá mọc so le, hình trứng, cứng, ráp, mép khía răng. Hoa đơn tính 47 khác gốc. Cụm hoa đực dạng đầu có cuống, gồm 10 - 12 hoa. Cụm hoa cái chỉ có 1 hoa. Quả mọng màu vàng. Là cây mọc hoang, thường được trồng làm hàng rào, làm cảnh. Cây duối có nhiều ở các nước nhiệt đới, như Ấn Độ, Sri Lanka, Malaysia, Philippines và Thái Lan (Rastogi và CS., 2006). Lá duối có thành phần hóa học và dinh dưỡng cao, hàm lượng CP của lá duối cao gấp đôi lá xoài và cỏ tự nhiên (Paengkoum, 2011). Theo Paengkoum (2011), lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa DM, OM, CP, NDF, ADF, tích lũy ni tơ của lá duối ở dê tương đương với cây keo (Leucaena); thấp hơn cỏ tự nhiên nhưng cao hơn lá xoài. Sử sụng lá duối làm thức ăn bổ sung cho dê cho kết quả tốt (Paengkoum, 2011; Akbar and Alam, 1991). Các tác giả cho biết, bổ sung lá duối trên khẩu phần cơ sở là rơm ủ urê thay thế thức ăn tinh là khô dầu đậu nành cho thấy lượng chất hữu cơ ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa, đặc tính môi trường dạ cỏ (pH, NH3 và các axit béo bay hơi), cân bằng ni tơ không có sự sai khác. Có thể sử dụng lá duối như nguồn protein bổ sung thay thế một phần protein thức ăn tinh trong chăn nuôi dê (Paengkoum, 2011). Sử dụng phương pháp ủ chua lá duối nhằm bảo quản được nguồn thức ăn đồng thời làm tăng lượng ăn vào của dê, cừu. Theo Insung và CS. (2000), lượng ăn vào của dê ở lá duối ủ chua với 5% rỉ mật cao hơn so với lá duối khô và cao hơn nhiều so với cỏ Ruzi khô cũng như cỏ Ruzi ủ chua. Ngoài ra, duối có chứa nhiều mủ, mủ có nhựa (76%) và cao su (23%), vỏ chứa chất đắng. Các nghiên cứu trước đây cho thấy các bộ phận khác nhau của cây duối được sử dụng trong chăn nuôi và sử dụng làm các loại thuốc dân gian để điều trị bệnh (Rastogi và CS., 2006). Tuy nhiên, việc xác định thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng của cây duối ở nước ta chưa được nghiên cứu đầy đủ mặc dù ở nhiều vùng đặc biệt là Ninh Thuân và Bình Thuận, cây duối đã được sử dụng làm thức ăn cho dê và cừu. 48 1.6. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KHÍ HẬU THỜI TIẾT Ở CÁC ĐIỂM NGHIÊN CỨU 1.6.1. Điều kiện tự nhiên và khí hậu thời tiết ở tỉnh Ninh Thuận 1.6.1.1. Điều kiện tự nhiên Ninh Thuận thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phía Bắc giáp với tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Đông giáp Biển Đông. Địa hình Ninh Thuận thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, với 3 dạng địa hình: đồi núi (63,2%), gò đồi bán sơn địa (14,4%), đồng bằng ven biển (22,4%). Tổng diện tích tự nhiên 335,8 ngàn ha; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 69,7 ngàn ha, đất lâm nghiệp 186 ngàn ha, còn lại là đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp. Vùng đồng bằng tập trung phát triển thâm canh cây lúa, trồng nho và các loại hoa màu khác. Vùng miền núi chủ yếu tập trung phát triển các mô hình chăn nuôi gia súc nhai lại (Cục thống kê Ninh Thuận, 2011). 1.6.1.2. Khí hậu, thời tiết Ninh Thuận có khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình với đặc trưng khô nóng, gió nhiều, lượng nước bốc hơi mạnh. Ninh Thuận là vùng khô hạn với nắng nóng cao nhất so với cả nước, nhiệt độ mùa hè 28 - 360C, mùa mưa 21 250C (trung bình năm là 26 - 270C); lượng mưa thấp (1.187 mm/năm), độ ẩm không khí thấp (78%) (Cục thống kê Ninh Thuận, 2011). Thời tiết có 2 mùa rõ rệt, là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa chỉ có 3 tháng (tháng 9 - 11) với lượng mưa lớn và tập trung chiếm 80 - 85% lượng mưa cả năm, lượng nước bốc hơi và nền nhiệt thấp hơn mùa khô. Mùa khô kéo dài 9 tháng (từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau), trong khoảng thời gian này vẫn có mưa nhưng lượng mưa không đáng kể (15 - 20% lượng mưa cả năm). 49 Lượng nước bốc hơi cao, chiếm 80 - 85% tổng lượng bốc hơi cả năm. Năng lượng bức xạ mặt trời cao đã làm tăng quá trình bốc hơi nước làm cho đất đai khô hạn, cây trồng và vật nuôi thiếu nước (Cục thống kê Ninh Thuận, 2011). 1.6.2. Điều kiện tự nhiên và khí hậu thời tiết ở tỉnh Thừa Thiên Huế 1.6.2.1. Điều kiện tự nhiên Thừa Thiên Huế phía Bắc giáp với tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp với tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, phía Tây giáp với tỉnh Quảng Trị và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, phía Đông giáp với biển Đông. Thừa Thiên Huế có diện tích 503,3 ngàn ha; trong đó, khoảng 75,1% là núi đồi, 24,9% đồng bằng duyên hải, đầm phá. Địa hình Thừa Thiên Huế có cấu tạo dạng bậc khá rõ rệt: địa hình núi chiếm khoảng 1/4 diện tích; địa hình trung du chiếm khoảng 1/2 diện tích; đồng bằng điển hình cho kiểu đồng bằng mài mòn, tích tụ, cồn cát và đầm phá (Cục thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). 1.6.2.2. Khí hậu, thời tiết Khác với Ninh Thuận, Thừa Thiên Huế là tỉnh cực Nam của miền duyên hải Bắc Trung bộ, thuộc vùng nội chí tuyến nên thừa hưởng chế độ bức xạ đa dạng, nền nhiệt cao, đặc trưng cho chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Mặt khác, do nằm ở trung đoạn Việt Nam, lại bị dãy núi Bạch Mã án ngữ theo phương á vĩ tuyến ở phía Nam nên khí hậu mang đậm nét vùng chuyển tiếp khí hậu giữa hai miền Nam - Bắc nước ta. Thừa Thiên Huế chịu tác động của chế độ gió mùa khá đa dạng, luôn diễn ra sự giao tranh giữa các khối không khí xuất phát từ các trung tâm khí áp khác nhau từ phía Bắc tràn xuống, từ phía Tây vượt Trường Sơn qua, từ phía Đông lấn vào từ phía Nam di chuyển lên. Dãy Trường Sơn đón gió Đông Bắc gây mưa lớn vào mùa đông và giữ ẩm gây mưa lớn ở phía Tây Trường Sơn và tạo gió Tây Nam khô nóng vào mùa hè. Thời tiết diễn ra theo chu kỳ 50 bốn mùa, mùa xuân mát mẽ, ấm áp; mùa hè nóng bức; mùa thu trời dịu và mùa đông gió rét, mưa lạnh (Cục thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). Nhiệt độ không khí Nhiệt độ không khí khá cao và không đồng nhất theo thời gian. Nhiệt độ cao nhất vào mùa hè, các tháng nóng nhất là tháng 6, 8 trung bình lên đến 28 - 290C, khi có gió Tây Nam khô nóng nhiệt độ có thể lên đến 40 - 410C. Về mùa đông nhiệt độ thấp nhất khoảng 190C (tháng 1), khi gió đông bắc tràn về nhiệt độ có thể <100C. Sự chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa các tháng mùa đông lớn hơn mùa hè. Tháng 11 - 12 nhiệt độ giảm nhanh nhất, tháng 3 4 nhiệt độ tăng nhanh hơn. Nhiệt độ trong ngày thấp nhất là vào lúc 5 - 6 giờ sáng, cao nhất vào lúc 12 - 14 giờ (Cục thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). Như vậy, chế độ nhiệt ở Thừa Thiên Huế biến động mạnh, biên độ nhiệt độ năm khá cao. Tuy số lần xuất hiện nhiệt độ cực đại và cực tiểu trong năm không lâu nhưng làm cho vật nuôi bị stress nhiệt, ảnh hưởng và gây thiệt hại đến ngành chăn nuôi. Điều đó đặt ra cho ngành chăn nuôi nhu cầu cấp bách trong việc chống nóng về mùa hè và chống lạnh về mùa đông. Độ ẩm tương đối của không khí Ở Thừa Thiên Huế, không khí chứa nhiều hơi nước nên thuộc vào một trong số các vùng có độ ẩm tương đối cao nhất nước. Độ ẩm tương đối của không khí trung bình năm là 87,3% (Cục thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). Biến thiên độ ẩm không khí ngược với biến thiên nhiệt độ và phân biệt hai mùa rõ rệt. Độ ẩm thấp kéo dài 5 tháng (tháng 4 - 8) khoảng 74 – 87,6%, thấp nhất là tháng 7, trùng với thời kỳ hoạt động gió mùa Tây Nam khô nóng. Độ ẩm cao kéo dài 7 tháng (tháng 9 đến tháng 3 năm sau), đạt cực đại vào tháng 12 (93,4%). Biến thiên hàng ngày của độ ẩm cao nhất vào lúc 4 - 6 giờ và thấp nhất vào lúc 13 - 14 giờ (Cục thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). 51 Mưa Chế độ mưa ở Thừa Thiên Huế mang nhiều đặc điểm khác so với ở Bắc Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ. Mùa mưa ở Thừa Thiên Huế liên quan chặt chẽ với gió mùa đông Đông Bắc thời kỳ đầu. Thừa Thiên Huế là tỉnh có lượng mưa nhiều nhất Việt Nam, trung bình 3.877mm/năm. Tổng lượng mưa tập trung vào thời kỳ mưa chính mùa (tháng 10) khoảng 1.234mm. Từ tháng 2 - 4 là thời kỳ mưa ít nhất trong năm và đạt cực tiểu vào tháng 2 khoảng 78mm. Phân bố ngày mưa trùng với phân bố tổng lượng mưa năm. Hàng năm có khoảng 150 - 220 ngày mưa. Vào mùa mưa, mỗi tháng có 16 - 24 ngày mưa. Trong các tháng mưa nhiều (tháng 10, 11), số ngày mưa là 21 - 24 ngày. Ngày mưa cao nhất lên tới 500 - 1.000mm, mưa kéo dài nhiều ngày (4 - 6 ngày) trên diện rộng thường gây lũ lụt lớn (Cục thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). Chế độ mưa biến động mạnh, lượng mưa tháng biến động hơn lượng mưa năm, lượng mưa mùa ít mưa biến động hơn lượng mưa mùa nhiều mưa. Chế độ mưa biến động mạnh gây thiệt hại đến sản xuất chăn nuôi. Gió Thừa Thiên Huế chịu sự khống chế của gió mùa mùa đông lẫn gió mùa hè khu vực Đông Nam Á. Do vậy, hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa rõ rệt. Mùa đông (tháng 10 đến tháng 4 năm sau) hướng gió thịnh hành trên đồng bằng duyên hải có hướng Tây Bắc với tần suất 25 - 29%, gió Đông Bắc 10 - 15%. Mùa hè (tháng 5 - 9) hướng gió khá phức tạp, hướng Nam 10 16%, Tây Nam 11 - 14% và Đông Bắc 10 - 16%. Tốc độ gió trung bình tháng, năm không lớn, nhưng vẫn thường xảy ra gió mạnh với các hướng khác nhau khi có bão, lốc, gió mùa Đông Bắc hoặc gió mùa Tây Nam (Cục thống kê Thừa Thiên Huế, 2012). 52 Mưa phùn: Ở Thừa Thiên Huế, mưa phùn xuất hiện từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, đặc biệt trong các tháng 2 - 3. Mưa phùn hạn chế bốc hơi trong mùa ít mưa vì thế độ ẩm không khí luôn cao. Các đặc điểm cơ bản về khí hậu thời tiết ở Ninh Thuận và Thừa Thiên Huế có thể khái quát ở bảng 1.11. Bảng 1.11. Tóm tắt đặc điểm khí hậu thời tiết một số vùng nghiên cứu Yếu tố Mùa vụ: Đơn vị Ba Vì Ninh Thuận Tháng - Mùa nắng, nóng 4 - 10 - Mùa lạnh, khô 5-8 11 - 3 năm sau - Mùa lạnh, ẩm 9 - 4 năm sau - Mùa mưa 9 - 11 - Mùa khô 12 - 8 năm sau Nhiệt độ: Thừa Thiên Huế 0 C - Trung bình năm 25 27,5 24,7 - Tối cao tháng Tháng 6, 290C - Tối thấp tháng Tháng 1, 24,80C Tháng 1, 19,10C Lượng mưa: Tháng 6, 290C mm - Trung bình năm 1.800 1.187 3.877 - Tháng cao nhất Tháng 10: 306 Tháng 10: 1.234 - Tháng thấp nhất Tháng 2: 6,68 Tháng 2: 27,8 Độ ẩm: - Trung bình năm % 84 78 87,3 - Mùa mưa 78,4 - 80,8 89 - 92 - Mùa khô 70,2 - 78,0 73 - 79 (Nguồn: Niên giám Thống kê, 2011) 53 CHƯƠNG 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Gia súc: Thí nghiệm đã được tiến hành trên đàn cừu Phan Rang mua từ Ninh Thuận về nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An, trường Đại học Nông Lâm - Đại học Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, cụ thể như sau: Tháng 2/2009: nhập về 21 con, cừu được mua ở Trại cừu giống ông Phạm Đức Toàn, phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, gồm 15 con cái và 6 con đực, theo các nhóm tuổi khác nhau. Trong đó, cừu 1 tháng tuổi gồm 2 con đực và 2 con cái (cừu con theo mẹ); 4 tháng tuổi: 2 con đực và 2 con cái; 7 tháng tuổi: 2 con đực và 2 con cái; 10 tháng tuổi: 5 con cái; 15 tháng tuổi: 4 con cái. Tuy nhiên, sau khi về Thừa Thiên Huế hơn một tuần có 7 con bị chết (3 con cừu mẹ 15 tháng tuổi, 2 con cừu con 1 tháng tuổi, 1 con 7 tháng tuổi và 1 con 10 tháng tuổi). Mổ khám cho thấy nguyên nhân cừu chết là do cừu có tiền sử bị nhiễm giun sán, cừu mẹ nuôi con và cừu con sức khỏe yếu, cộng với quá trình vận chuyển đường xa bị kiệt sức. Tháng 9/2009: nhập thêm về 07 con, cừu được mua ở Trại cừu giống ông Lê Xuân Út, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Số lượng gồm 3 con cái và 4 con đực với các độ tuổi khác nhau: 4 tháng tuổi (2 con đực, 2 con cái) và 7 tháng tuổi (2 con đực, 1 con cái). Tháng 01/2010: có 5 con cừu mẹ sinh được 5 cừu con ở Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, có 1 con được 3 ngày tuổi bị mẹ đè chết, 4 con còn lại sinh trưởng tốt đã đưa vào thí nghiệm. 54 Thời gian 2 tháng đầu mới nhập về cừu được nuôi ổn định, đàn cừu được chia đôi nhốt chung với nhau trong 2 ô chuồng sàn có kích thước 5x3m có máng ăn, máng uống đầy đủ. Mỗi ngày cừu được thả ra ngoài bãi chăn vào buổi sáng và chiều, mỗi buổi 3 giờ. Trong thời gian nhốt ở chuồng, cừu được cho ăn thêm cỏ tự nhiên, cỏ voi, lá cây, cám gạo và bột ngô. Sau thời gian nuôi ổn định, toàn bộ cừu được đánh số để theo dõi và được nuôi cá thể trong từng ô chuồng riêng biệt được ngăn cách bằng song sắt, có kích thước 0,8x1,5m. Tất cả ô chuồng được đặt trên sàn cao cách mặt đất khoảng 0,2m, mặt sàn có các khe hở để cho phân rơi xuống đất, trong cùng dãy nhà được lợp bằng tôn và có đủ ô cửa sổ để đảm bảo độ thông thoáng. Mỗi ô chuồng có máng thức ăn thô, máng thức ăn tinh và nước uống. Trước khi đưa vào thí nghiệm, cừu được tẩy kí sinh trùng bằng thuốc Albendazol 12mg/1kgLW (Han-Dertil-B, Hanvet), được đưa vào cơ thể cừu bằng đường uống và sau đó được tẩy định kỳ hàng năm, 6 tháng 1 lần. Thức ăn: các loại thức ăn sẵn có tại địa phương đã được đưa vào thí nghiệm là cỏ tự nhiên, cỏ voi (Penisetum purpureum Schumach), lá mít (Artocarpus heterophyllus Lamk) và lá duối (Streblus asper Lour). 2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU Thời gian: Các thí nghiệm đã được thực hiện từ tháng 2/2009 đến tháng 12/2012. Địa điểm: Thí nghiệm về nuôi dưỡng và theo dõi các chỉ tiêu sinh lý, sinh trưởng, sinh sản và lượng thức ăn thu nhận trên cừu được bố trí tại Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An, trường Đại học Nông Lâm - Đại học Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. 55 Khảo sát các chỉ tiêu sinh lý, sinh trưởng trên đàn cừu ở Ninh Thuận thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm dê - cừu thuộc Viện chăn nuôi Quốc gia và đàn cừu của các hộ chăn nuôi ở huyện Thuận Bắc. Việc phân tích các chỉ tiêu liên quan đến các thí nghiệm trong luận án đã được tiến hành ở Phòng phân tích Trung tâm, khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm - Đại học Huế; Phòng phân tích Thức ăn gia súc và sản phẩm chăn nuôi, thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia, Hà Nội; Khoa huyết học truyền máu Bệnh viện trường Đại học Y Dược - Đại học Huế. 2.3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.3.1. Nội dung 1 - Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận 2.3.1.1. Xác định nhiệt độ và ẩm độ Số liệu về nhiệt độ, ẩm độ không khí môi trường bình quân tháng từ năm 2007 đến năm 2011 của tỉnh Thừa Thiên Huế được lấy từ Trung tâm khí tượng thủy văn trung Trung bộ và Niên giám thống kê Thừa Thiên Huế năm 2012; của tỉnh Ninh Thuận được lấy từ Trạm khí tượng thủy văn Phan Rang, Ninh Thuận và Niên giám thống kê Ninh Thuận năm 2012. Số liệu về nhiệt độ, ẩm độ chuồng nuôi của Thừa Thiên Huế ở các thí nghiệm trong luận án được đo bằng máy nhiệt ẩm kế tự động Hygro Thermometer (Pháp) tại các mốc thời gian: 1.00; 4.00; 7.00; 10.00; 13.00; 16.00; 19.00 và 22.00h liên tục các ngày trong tháng ở hai mùa: mùa nóng (từ tháng 6 đến tháng 8/2009) và mùa lạnh (từ tháng 12/2009 đến tháng 2/2010). Nhiệt ẩm kế được đặt gần bằng chiều cao của cừu trưởng thành, cách mặt đất 0,8m, cách sàn chuồng 0,6m. 56 2.3.1.2. Xác định chỉ số nhiệt ẩm Cách tính THI tại các thời điểm trong ngày và của từng ngày ở các thí nghiệm trong luận án theo công thức của Marai và CS. (2000): THI = T0C - {(0,31 - 0,31*RH/100)(T0C - 14,4)} Trong đó; T0C: nhiệt độ không khí (0C); RH: ẩm độ không khí (%). 2.3.1.3. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu thập được quản lý trên phần mềm Microsoft Excel (2003) và xử lý thống kê trên phần mềm Minitab version 15.10 (2010), với phép phân tích cơ bản là thống kê mô tả. Kết quả nghiên cứu được thể hiện bởi giá trị trung bình (M) và sai số của giá trị trung bình (SEM). 2.3.2. Nội dung 2 - Xác định quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm với các chỉ tiêu sinh lý 2.3.2.1. Nuôi dưỡng Trong thời gian theo dõi xác định các chỉ tiêu sinh lý, cừu được nuôi nhốt hoàn toàn, chỉ được thả tự do vào một ngày cuối tuần để cừu vận động và tổng vệ sinh chuồng trại. Cừu được cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ. Thức ăn thô xanh của cừu chủ yếu là cỏ tự nhiên, cỏ voi, rơm lúa và các loại lá cây; các loại thức ăn này cho ăn 5 bữa/ngày vào lúc 7.00, 9.00, 13.00, 16.00 và 21.00h với khối lượng không hạn chế. Ngoài ra, cừu được bổ sung thức ăn tinh là cám gạo và bột ngô (10g DM/ngày/kgLW) vào lúc 9.00 và 16.00h hàng ngày. Như đã đề cập ở mục đối tượng nghiên cứu, toàn bộ cừu được đánh số để theo dõi cá thể và được nuôi chung trong một chuồng lớn có chia ô cho từng cá thể riêng biệt, ô chuồng được ngăn cách với nhau bằng song sắt, có kích thước 0,8x1,5m. Tất cả ô chuồng được đặt trên sàn cao cách mặt đất 57 khoảng 0,2m, mặt sàn có các khe hở để cho phân rơi xuống đất, trong cùng dãy nhà được lợp bằng tôn và có đủ ô cửa sổ để đảm bảo độ thông thoáng. Mỗi ô chuồng có máng thức ăn thô, máng thức ăn tinh và nước uống. Cùng với việc nghiên cứu trên cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế, thí nghiệm đã tiến hành theo dõi trên đàn cừu ở Ninh Thuận tại Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm dê - cừu thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia và các hộ chăn nuôi cừu ở huyện Thuận Bắc với các độ tuổi tương ứng. Toàn bộ cừu được đánh số để theo dõi và được nuôi chung cùng đàn với nhau trong một chuồng lớn, nuôi theo hình thức chăn thả. Buổi sáng và buổi chiều sau khi theo dõi các chỉ tiêu sinh lý, cừu được chăn thả tự do ở bãi chăn. Buổi tối cừu được lùa về chuồng, không bổ sung thức ăn nhưng cung cấp nước uống đầy đủ. 2.3.2.2. Xác định các chỉ tiêu sinh lý Thí nghiệm được theo dõi trên 24 con cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế với các nhóm tuổi khác nhau: 1, 3, 6, 9, 12, 15 tháng tuổi (mỗi nhóm 4 con) và 88 con cừu Phan Rang nuôi ở tỉnh Ninh Thuận tại các tháng tuổi trên với số con tương ứng lần lượt là 3, 8, 17, 24, 20 và 16 con. Các chỉ tiêu sinh lý bao gồm: tần số hô hấp, nhịp tim, nhiệt độ da và nhiệt độ trực tràng (thân nhiệt) đã được theo dõi theo từng cá thể cừu. Thời gian theo dõi được chia thành 3 lần trong ngày vào lúc 7.00, 13.00 và 19.00h; theo dõi liên tục các ngày trong tháng ở hai mùa: mùa nóng (từ tháng 6 đến tháng 8/2009) và mùa lạnh (từ tháng 12/2009 đến tháng 2/2010). Cừu trong từng nhóm tuổi đều được xác định các chỉ tiêu sinh lý hàng ngày, mỗi ngày đo 2 con, cứ thế luân phiên nhau (mỗi con được theo dõi 2 ngày/lần), đảm bảo mỗi ngày đo đều có cừu từng nhóm tuổi. Tại các mốc thời gian tuần tự đo tần số hô hấp, nhịp tim, nhiệt độ da và nhiệt độ trực tràng. Xác định tần số hô hấp bằng cách đếm nhu động lên xuống 58 của hõm hông bên trái. Nhịp tim được xác định bằng việc sử dụng ống nghe đặt ở dưới vùng ngực bên trái của cừu. Thân nhiệt được đo trực tiếp ở trực tràng và nhiệt độ da được đo ở sát vùng da trên lưng cừu bằng nhiệt kế trong 5 phút. 2.3.2.3. Xác định các chỉ tiêu sinh lý máu Theo dõi cá thể trên 24 con cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế với các nhóm tuổi khác nhau: 1, 3, 6, 9, 12 và 15 tháng tuổi (mỗi nhóm 4 con) và 61 con cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận tại các tháng tuổi trên với số con tương ứng là 4, 4, 6, 6, 5 và 36 con. Các chỉ tiêu sinh lý máu bao gồm hồng cầu, hemoglobin, hematocrit và bạch cầu. Máu được lấy cố định vào ngày 27 của các tháng nghiên cứu (từ tháng 4 - 8/2009 và từ tháng 12/2009 đến 02/2010), lấy tất cả các cá thể cừu. Lấy máu ở tĩnh mạch cổ của cừu vào lúc 7.00h, trước khi con vật được cho ăn và vận động. Mỗi lần lấy 1ml máu và cho vào ống nghiệm đã có sẵn chất chống đông Natri citrate, sau đó lắc đều và bỏ vào hộp xốp rồi vận chuyển đến khoa huyết học truyền máu, trường Đại học Y Dược - Đại học Huế để phân tích. Số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu, hàm lượng hemoglobin và chỉ số hematocrit được xác định bằng máy đếm tế bào tự động SYSMEX KX 21 (Nhật Bản). 2.3.2.4. Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm Tại 3 mốc thời gian trong ngày (7.00; 13.00 và 19.00h) ở những ngày đo các chỉ tiêu sinh lý của cừu số liệu về nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi cũng được theo dõi, từ đó tính THI để xác định quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý của cừu. Phương pháp xác định nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi như đã trình bày cụ thể ở nội dung 1. 59 2.3.2.5. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu thập được quản lý bằng phần mềm Microsoft Excel (2003) và xử lý thống kê bằng phần mềm Minitab version 15.10 (2010). Đánh giá ảnh hưởng riêng rẻ của các yếu tố như vùng sinh thái (Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận), các yếu tố môi trường (nhiệt độ, ẩm độ và THI) và yếu tố mùa vụ (mùa nóng và mùa lạnh) đến các chỉ tiêu sinh lý của cừu được thể hiện thông qua phương pháp phân tích phương sai (ANOVA). So sánh sự sai khác của các giá trị trung bình bằng phương pháp Tukey với độ tin cậy 95%. Mô hình phân tích ANOVA như sau: Yij = µ + Ai + eij Trong đó; Yij: là biến phụ thuộc (các chỉ tiêu sinh lý của cừu); µ: trung bình của quần thể; Ai: biến độc lập (vùng sinh thái, hoặc các yếu tố môi trường, hoặc mùa); eij: ảnh hưởng của yếu tố ngẫu nhiên. Đánh giá mối quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với một số chỉ tiêu sinh lý được thực hiện thông qua phương pháp hồi quy phi tuyến tính với phương trình bậc 2: Y = ax2 + bx + c Trong đó; Y: là biến phụ thuộc (chỉ tiêu sinh lý); x: là biến độc lập (nhiệt độ, ẩm độ hoặc THI); a, b, c là các hệ số hồi quy. 2.3.3. Nội dung 3 - Xác định quan hệ giữa nhiệt độ và THI với lượng thức ăn thu nhận 2.3.3.1. Nuôi dưỡng Thí nghiệm theo dõi lượng thức ăn thu nhận tiến hành trên 12 con cừu Phan Rang nuôi tại Thừa Thiên Huế với các độ tuổi 6, 9 và 12 tháng, mỗi nhóm tuổi 4 con, qua 2 giai đoạn: 4 - 8/2009 và 11/2009 - 2/2010. 60 Toàn bộ cừu được theo dõi cá thể và được nuôi trong từng ô chuồng riêng biệt. Trong thời gian theo dõi lượng thức ăn thu nhận cừu được nuôi nhốt hoàn toàn, chỉ được thả tự do vào một ngày cuối tuần (ngày không theo dõi số liệu) để cừu vận động và tổng vệ sinh chuồng trại. Cừu được cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ. Thức ăn của cừu là cỏ tự nhiên, được thu cắt hàng ngày và để qua đêm cho ráo nước trước khi cho ăn. 2.3.3.2. Xác định lượng thức ăn thu nhận của cừu Để xác định lượng thức ăn thu nhận hàng ngày của cừu, thức ăn được chia nhỏ thành 5 bữa vào lúc: 7.00, 9.00, 13.00, 16.00 và 21.00h. Cừu được cân để biết khối lượng, từ đó ước tính lượng thức ăn cho ăn (khoảng 3% DM so với LW) đảm bảo lượng thức ăn luôn dư thừa. Xác định lượng thức ăn còn thừa vào trước bữa ăn đầu tiên của sáng hôm sau. 2.3.3.3. Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm Tại các ngày trong các tháng theo dõi lượng thức ăn thu nhận của cừu, số liệu về nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi cũng được theo dõi, từ đó tính THI. Giá trị nhiệt độ và THI được tính trung bình cho từng ngày để xác định quan hệ giữa nhiệt độ và THI với lượng thức ăn thu nhận của cừu. Phương pháp xác định nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi như đã trình bày ở nội dung 1. 2.3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu thập được quản lý bằng phần mềm Microsoft Excel (2003) và xử lý thống kê bằng phần mềm Minitab version 15.10 (2010). Đánh giá ảnh hưởng của nhiệt độ cũng như THI đến lượng thức ăn thu nhận của cừu được thể hiện thông qua phương pháp phân tích phương sai (ANOVA). So sánh sự sai khác của các giá trị trung bình bằng phương pháp Tukey với độ tin cậy 95%. Mô hình phân tích ANOVA như sau: 61 Yij = µ + Ai + eij Trong đó; Yij: là biến phụ thuộc (lượng thức ăn thu nhận); µ: trung bình của quần thể; Ai: biến độc lập (nhiệt độ hoặc THI); eij: ảnh hưởng của yếu tố ngẫu nhiên. Đánh giá mối quan hệ giữa lượng thức ăn thu nhận của cừu với nhiệt độ và THI được thực hiện thông qua phương pháp hồi quy phi tuyến tính với phương trình bậc 2: Y = ax2 + bx + c Trong đó; Y: là biến phụ thuộc (lượng thức ăn thu nhận); x: là biến độc lập (nhiệt độ hoặc THI); a, b, c là các hệ số hồi quy. 2.3.4. Nội dung 4 - Đánh giá khả năng sinh trưởng và sinh sản 2.3.4.1. Nuôi dưỡng Trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 8/2009 và tháng 11/2009 đến tháng 2/2010 (thời gian theo dõi xác định các chỉ tiêu sinh lý và lượng thức ăn thu nhận), cừu được nuôi nhốt, chỉ được thả tự do vào một ngày cuối tuần để cừu vận động, tiếp xúc với nhau cũng như tổng vệ sinh chuồng trại. Các tháng còn lại khi kết thúc theo dõi thí nghiệm xác định các chỉ số sinh lý cừu được nuôi theo phương thức bán chăn thả, mỗi ngày cừu được chăn thả, vận động tự do vào buổi sáng và buổi chiều, mỗi buổi 3 giờ. Trong thời gian nhốt ở chuồng, cừu vẫn được bổ sung thêm các loại thức ăn như đã kể trên. Chuồng trại và thức ăn như đã trình bày chi tiết ở nội dung 2. Ở Ninh Thuận, cừu được đánh số để theo dõi cá thể và được nuôi chung cùng đàn với nhau trong một chuồng lớn, nuôi theo hình thức chăn thả. Buổi sáng và buổi chiều sau khi theo dõi các chỉ tiêu sinh lý, cừu được chăn thả tự do ở bãi chăn. Buổi tối cừu được lùa về chuồng, không bổ sung thức ăn nhưng cung cấp nước uống đầy đủ. 62 2.3.4.2. Đánh giá khả năng sinh trưởng và sản xuất thịt Đánh giá khả năng sinh trưởng Theo dõi trên 20 cá thể cừu Phan Rang nhập từ Ninh Thuận về nuôi ở Thừa Thiên Huế với các nhóm tuổi khác nhau: 3, 6, 9, 12 và 15 tháng (mỗi nhóm 4 con) và 05 cừu con được cừu mẹ sinh ra ở Thừa Thiên Huế. Đồng thời khảo sát trên đàn cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận gồm 207 con tại các độ tuổi 3, 6, 9, 12 và 15 tháng với số con tương ứng lần lượt là 57, 48, 43, 38, và 21 con. Khả năng sinh trưởng của cừu được xác định thông qua các chỉ tiêu về khối lượng, tăng trọng tại các thời điểm: sơ sinh, 3, 6, 9, 12 và 15 tháng tuổi, từ đó tính toán tốc độ sinh trưởng của cừu. Xác định kích thước của cừu qua các chiều đo bao gồm cao vây, vòng ngực, dài thân chéo tại các thời điểm: 3, 6, 9 và 12 tháng tuổi. Khối lượng của cừu được xác định bằng cách cân định kỳ 3 ngày liên tục vào buổi sáng trước khi cho ăn ở thời điểm cuối tháng bằng cân đồng hồ 100kg và tính giá trị trung bình. Tại mỗi thời điểm cân cừu cũng tiến hành đo các chiều đo. Chiều cao vây được tính từ mặt đất lên đến vai, đo bằng thước gậy. Vòng ngực đo ngay phía sau nách chân trước, bằng thước dây. Dài thân chéo được tính từ mỏm trước xương bả vai cánh tay đến u xương ngồi bằng thước dây. Từ đó, tính toán tốc độ sinh trưởng tuyệt đối (absolute - A) và tốc độ sinh trưởng tương đối (relative - R), theo các công thức sau: A (g/con/ngày) = V2 - V1 T2 - T1 R (%) = V2 - V1 x 100 1/2 (V2 + V1) 63 Trong đó: V1: là khối lượng bình quân cơ thể cừu tại thời điểm T1; V2: là khối lượng bình quân cơ thể cừu tại thời điểm T2. Đánh giá khả năng sản xuất thịt Tiến hành mổ khảo sát 6 cừu (3 cừu đực và 3 cừu cái) ở 9 tháng tuổi với các chỉ tiêu và phương pháp theo quy chuẩn QCVN 01-71:2011 /BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011) như sau: Khối lượng giết mổ là khối lượng được xác định tại thời điểm sau khi cho cừu nhịn đói 24 giờ. Khối lượng thịt xẻ là khối lượng cừu sau khi lột da, cắt bỏ đầu (tại xương át lát), lấy bỏ nội tạng (cơ quan tiêu hoá, hô hấp, sinh dục, tiết niệu và tim) và cắt 4 chân (từ đầu gối trở xuống), bỏ đuôi, huyết. Từ đó tính tỷ lệ thịt xẻ (%) là tỷ lệ giữa khối lượng thịt xẻ và khối lượng giết mổ. Khối lượng thịt tinh là khối lượng thịt xẻ sau khi lọc bỏ xương và mỡ bao ngoài thịt. Từ đó tính tỷ lệ thịt tinh (%) là tỷ lệ giữa khối lượng thịt tinh và khối lượng giết mổ. Khối lượng xương là lượng xương được tách ra từ thịt xẻ (không tính xương chân, đầu, đuôi). Từ đó tính tỷ lệ xương (%) là tỷ lệ giữa khối lượng xương và khối lượng thịt xẻ. Độ dày mỡ lưng được xác định ở giữa xương sườn 12 và 13 bằng thước kẹp Panme. Diện tích mắt thịt được xác định ở cơ thăn giữa xương sườn 12 và 13 dựa trên tỷ lệ khối lượng và diện tích của giấy can để tính diện tích mắt thịt. 2.3.4.3. Đánh giá khả năng sinh sản của cừu Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh sản trên 5 cừu cái (trong đó 4 con cừu cái tơ nhập từ Ninh Thuận, 1 con cừu mẹ đã đẻ lứa đầu ở Ninh Thuận) và 64 6 con cừu đực sinh trưởng để phối giống. Thiết lập hệ thống sổ ghi chép độ tuổi, tình trạng sinh trưởng của từng cá thể cừu từ khi bắt đầu nhập về. Trong quá trình nuôi dưỡng, hằng ngày theo dõi các biểu hiện về đặc điểm hoạt động sinh dục của từng cá thể với các chỉ tiêu và phương pháp theo quy chuẩn QCVN 01-71:2011/BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), các chỉ tiêu như sau: Tuổi động dục (ngày) và khối lượng động dục lần đầu (kg); Tuổi phối giống (ngày) và khối lượng phối giống lần đầu (kg); Tuổi đẻ (ngày) và khối lượng khi đẻ lứa đầu (kg); Thời gian mang thai (ngày); Số con đẻ ra/lứa (con); Khối lượng cừu lúc sơ sinh (kg). Quan sát các đặc điểm động dục của cừu cái: khi động dục, cừu cái tự nhiên biếng ăn hoặc bỏ ăn, tâm trạng bồn chồn, nếu nuôi nhốt trong chuồng thì mắt nhìn ra ngoài như mong ngóng cừu đực tới, âm hộ "sưng" to hơn bình thường, có lúc kêu to liên tục từng hồi và chồm lên phá chuồng. Khi phát hiện cừu cái động dục (dựa vào những dấu hiệu nêu trên), tiến hành cho cừu cái tiếp xúc với cừu đực để thực hiện phối giống trực tiếp. 2.3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu thu thập được quản lý trên phần mềm Microsoft Excel (2003) và xử lý thống kê trên phần mềm Minitab version 15.10 (2010), với phép phân tích cơ bản là thống kê mô tả. Kết quả nghiên cứu được thể hiện bởi giá trị trung bình (M) và sai số của giá trị trung bình (SEM). 65 2.3.5. Nội dung 5 - Đánh giá giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn thô xanh 2.3.5.1. Vật liệu thí nghiệm Thí nghiệm đã được tiến hành trên 04 con cừu đực Phan Rang, có độ tuổi 6 - 7 tháng, khối lượng trung bình 18,5 ± 1,5kg. Thức ăn gồm 4 loại: cỏ tự nhiên, cỏ voi, lá mít và lá duối. 2.3.5.2. Thiết kế thí nghiệm Thí nghiệm được thiết kế theo ô vuông la tinh với 4 loại thức ăn kể trên, qua 4 giai đoạn. Thời gian cho mỗi giai đoạn là 20 ngày (15 ngày cho cừu ăn thích nghi với thức ăn thí nghiệm và 5 ngày cuối tiến hành thu mẫu). Sơ đồ bố trí thí nghiệm thể hiện như sau. Bảng 2.1. Sơ đồ thiết kế thí nghiệm Cừu số Giai đoạn 1 2 3 4 I Cỏ voi Cỏ tự nhiên Lá dưới Lá mít II Lá mít Cỏ voi Cỏ tự nhiên Lá duối III Lá dưới Lá mít Cỏ voi Cỏ tự nhiên IV Cỏ tự nhiên Lá dưới Lá mít Cỏ voi 2.3.5.3. Quản lý nuôi dưỡng Cừu được nuôi cá thể trong 4 cũi tiêu hoá riêng biệt, có máng ăn, máng uống và được cung cấp nước uống đầy đủ. Các loại thức ăn được lấy về lúc chiều tối của ngày hôm trước và để qua đêm cho ráo nước trước khi cho ăn. Cỏ tự nhiên được thu cắt hàng ngày, cỏ voi được trồng ở khuôn viên Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thuỷ An, lá mít và lá duối được thu hái tự nhiên. 66 Trước lúc cho cừu ăn, cỏ voi được cắt ngắn khoảng 10cm, các loại lá được tách cành. Cừu ở tất cả các nghiệm thức đều được cho ăn thức ăn tự do hàng ngày ước tính bằng 3% (theo DM) so với khối lượng cơ thể và cho ăn 5 bữa/ngày vào lúc 7.00, 9.00, 13.00, 16.00 và 21.00h. 2.3.5.4. Quy trình xử lý và phân tích mẫu Lượng thức ăn thu nhận được theo dõi hàng ngày bằng cách cân lượng thức ăn cho ăn và lượng dư thừa của từng loại thức ăn. Mẫu thức ăn (cả loại cho ăn và dư thừa) được lấy hàng ngày trong 5 ngày thu mẫu ở mỗi giai đoạn, sấy ở nhiệt độ 600C để cất giữ, phân tích thành phần hóa học sau này. Phân được thu sau khi gia súc thải ra, cuối mỗi ngày được trộn đều và xác định khối lượng rồi lấy mẫu phụ bằng 30% tổng lượng phân thải ra trong ngày, hàm lượng chất khô được xác định hàng ngày và phần còn lại được bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ - 200C. Cuối mỗi giai đoạn thí nghiệm, phân của từng con được trộn đều theo từng gia súc và sấy khô ở nhiệt độ 600C rồi nghiền qua lỗ sàng 1mm ở máy nghiền (Retsche, Đức) để phân tích thành phần hóa học. Nước tiểu được thu sau khi gia súc thải ra bằng bình hứng nước tiểu đã có sẵn dung dịch H2SO4 20% sao cho pH luôn luôn thấp dưới 2 để tránh mất mát nitơ trong quá trình thu mẫu. Cuối mỗi ngày, nước tiểu được trộn đều và đong bằng ống đong để xác định lượng nước tiểu tổng số. Sau đó lấy mẫu bằng 30% lượng nước tiểu và bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ -200C. Cuối giai đoạn (5 ngày) nước tiểu của từng con được trộn đều và lấy mẫu phụ để xác định hàm lượng nitơ. 67 2.3.5.5. Phân tích hoá học Mẫu thức ăn, phân được phân tích vật chất khô (DM), vật chất hữu cơ (OM), nitơ tổng số (N) và khoáng tổng số (Ash) theo AOAC (1990). Hàm lượng protein thô được xác định thông qua hàm lượng N tổng số nhân với hệ số 6,25 (N x 6,25). Xơ không hòa tan trong môi trường trung tính (NDF) được xác định theo Van Soest và CS. (1991). Năng lượng thô tổng số (GE) được xác định bằng cách đo trực tiếp trên Bomb Calorimeter (PAR 600, Mỹ). 2.3.5.6. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mềm Minitab version 15.10 (2010) theo phương pháp phân tích ANOVA. So sánh sự sai khác giữa các nghiệm thức bằng phương pháp Turkey với khoảng tin cậy 95%. Mô hình toán học như sau: Yijk = µ + Ri + Cj + Tk + eijk Trong đó; Y: tỷ lệ tiêu hóa của một chất dinh dưỡng của một thức ăn; µ: trung bình quần thể; Ri: ảnh hưởng của giai đoạn thứ i, i=1-4; Cj: ảnh hưởng của gia súc thứ j, i=1-4; Tk: ảnh hưởng của yếu tố thí nghiệm (loại thức ăn) thứ k, k=1-4; eijk: ảnh hưởng của yếu tố ngẫu nhiên. 68 CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. DIỄN BIẾN NHIỆT ĐỘ, ẨM ĐỘ VÀ THI Ở ĐIỂM NGHIÊN CỨU 3.1.1. Diễn biến nhiệt độ, ẩm độ, THI hàng tháng ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ, THI bình quân qua các tháng trong năm ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011 được thể hiện ở đồ thị 3.1. 31 95 29 90 85 25 23 80 21 Ẩ m đ ộ (% ) N h iệt đ ộ (0C ), T H I 27 75 19 70 17 15 65 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tháng Nhiệt độ TT Huế Nhiệt độ Ninh Thuận THI TT Huế Ẩm độ TT Huế THI Ninh Thuận Ẩm độ Ninh Thuận Đồ thị 3.1. Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ, THI bình quân tháng ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận (2007 - 2011) Số liệu đồ thị 3.1 cho thấy, nhiệt độ, ẩm độ, THI môi trường bình quân tháng ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận có sự khác biệt về giá trị tuyệt đối và quy luật biến thiên ở từng vùng. 69 Ở cả hai tỉnh, nhiệt độ biến thiên theo quy luật chung là: tăng dần từ tháng 1 (19,10C ở Thừa Thiên Huế và 24,80C ở Ninh Thuận) đến tháng 6 (290C), sau đó giảm dần đến tháng 12 (20,70C ở Thừa Thiên Huế và 25,30C ở Ninh Thuận). Nhiệt độ cao nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 (28,1 - 29,00C ở Thừa Thiên Huế và 28,4 - 29,00C ở Ninh Thuận); nhiệt độ thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (19,1 - 20,90C ở Thừa Thiên Huế và 24,8 25,50C ở Ninh Thuận). Tuy nhiên, nhiệt độ trung bình hàng năm ở Thừa Thiên Huế thấp hơn 2,80C so với Ninh Thuận (24,70C so với 27,50C), song chênh lệch nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất và lạnh nhất lớn hơn (8,90C so với 4,20C). Ẩm độ hàng năm ở Thừa Thiên Huế cao hơn 9,3% so với Ninh Thuận (87,3% so với 78%) và có sự biến động lớn giữa các tháng trong năm. Ở Thừa Thiên Huế, ẩm độ biến thiên theo quy luật: giảm dần từ tháng 1 (92,8%) đến tháng 7 (77,4%), sau đó tăng lên đến tháng 12 (93,4%); trong khi ở Ninh Thuận ẩm độ biến động thất thường giữa các tháng. Ẩm độ ở Thừa Thiên Huế thấp nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 (77,4 - 82,4%); mặc dù vậy vẫn cao hơn so với Ninh Thuận (75,6 - 76,4%); ẩm độ cao nhất là từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (90,4 - 93,4%), ngược lại đây là thời điểm ẩm độ Ninh Thuận thấp nhất (70,2 - 73,2%). Giá trị THI ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận có xu hướng tăng, giảm theo chiều tăng, giảm của nhiệt độ. THI bắt đầu tăng dần lên từ tháng 1 (19 – Thừa Thiên Huế; 23,8 – Ninh Thuận), đến tháng 6 (28 – Thừa Thiên Huế; 27,9 – Ninh Thuận), sau đó THI giảm dần vào tháng 12 (20,5 – Thừa Thiên Huế; 24,4 – Ninh Thuận). Giá trị THI cao nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 (27,3 - 28 ở Thừa Thiên Huế và 27,4 - 27,9 ở Ninh Thuận); THI thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (19,0 - 20,7 ở Thừa Thiên Huế và 23,8 - 24,6 ở Ninh Thuận). 70 Giá trị THI ở Ninh Thuận cao trong suốt cả năm, dao động 23,8 - 27,9; trong đó, có 4 tháng (từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau) giá trị THI trong khoảng 23,8 - 25,2 và 8 tháng (từ tháng 3 đến tháng 10) THI trong khoảng 25,8 - 27,9. Theo Marai và CS. (2000), giá trị THI>22,2 cừu bị stress, THI≥25,6 cừu bị stress cực kỳ nghiêm trọng. Với kết quả này, cừu ở Ninh Thuận luôn luôn bị stress nhiệt; trong đó, cừu bị stress nghiêm trọng khoảng 8 tháng. Thực tế, cừu Phan Rang tồn tại và phát triển rất tốt ở Ninh Thuận hàng trăm năm qua (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006; Mai và CS., 2005). Các tác giả cho biết, cừu Phan Rang sinh trưởng, sinh sản tốt, ít bệnh tật trong điều kiện chăn nuôi ở Ninh Thuận (Đoàn Đức Vũ và CS., 2006; Mai và CS., 2005). Đây là điều đáng lưu ý khi sử dụng thang đánh giá stress nhiệt của Marai và CS. (2000) đối với cừu Phan Rang trong điều kiện ở Việt Nam. Nhìn chung với đặc điểm thời tiết như vậy, Thừa Thiên Huế có hai mùa rõ rệt; mùa nóng (MN) từ tháng 6 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình tháng 28,1 - 29,00C, ẩm độ 77,4 - 82,4% và THI là 27,3 - 28; mùa lạnh (ML) từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau với nhiệt độ trung bình 19,1 - 20,90C, ẩm độ 90,4 - 93,4% và THI là 19,0 - 20,7. Như vậy, nhiệt độ, ẩm độ, THI ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận có sự khác biệt rõ rệt. Ninh Thuận được đặc trưng bởi thời tiết khí hậu khô - nóng, với nhiệt độ luôn cao và ẩm độ thấp trong suốt cả năm - nơi mà cừu đã được du nhập vào, tồn tại, phát triển và thích nghi ở đây hàng trăm năm. Trong khí đó, Thừa Thiên Huế khí hậu có đặc trưng chung là mùa lạnh: lạnh - ẩm và mùa nóng: khô - nóng. 71 3.1.2. Nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi ở Thừa Thiên Huế qua các mùa thí nghiệm 3.1.2.1. Nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi theo giờ đo trong ngày qua các mùa thí nghiệm Kết quả khảo sát sự biến thiên nhiệt độ, ẩm độ và THI tại 8 thời điểm trong ngày (1.00, 4.00, 7.00, 10.00, 13.00, 16.00, 19.00 và 22.00h) qua hai mùa (mùa nóng và mùa lạnh) được trình bày ở đồ thị 3.2. 40 95 90 85 30 80 75 25 70 20 Ẩm độ (%) THI; Nhiệt độ (0C) 35 65 60 15 55 10 50 1 4 7 10 13 16 19 22 Thời gian (giờ) Nhiệt độ (MN) THI (MN) Nhiệt độ (ML) THI (ML) Ẩm độ (MN) Ẩm độ (ML) Đồ thị 3.2. Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ, THI chuồng nuôi theo giờ trong mùa nóng và mùa lạnh ở Thừa Thiên Huế Kết quả đồ thị 3.2 cho thấy, nhiệt độ và THI chuồng nuôi vào mùa lạnh và mùa nóng có xu hướng biến thiên theo quy luật chung là: thấp nhất vào thời điểm 1 đến 4 giờ, tăng dần và đạt cực đại vào lúc 13 giờ, sau đó giảm dần đến 22 giờ. Ẩm độ biến thiên theo chiều ngược lại với nhiệt độ và THI, ẩm độ cao nhất vào thời điểm 1 đến 4 giờ, giảm dần và đạt cực tiểu vào lúc 13 giờ, sau đó tăng dần đến 22 giờ. 72 Nhiệt độ thấp nhất trong khoảng từ 22 giờ đến 4 giờ sáng của ngày kế tiếp, trung bình là 21,10C ở ML và 27,90C ở MN. Nhiệt độ cao nhất tại thời điểm 13 giờ, trung bình là 26,70C ở ML và 350C ở MN. Biên độ nhiệt ở ML chênh lệch lớn hơn MN, lúc 7 giờ (90C ở ML và 60C ở MN), 13 giờ (100C ở ML và 70C ở MN) và 19 giờ biên độ nhiệt lớn nhất 140C ở ML và 8 0C ở MN). Ẩm độ biến thiên ngược với sự biến thiên của nhiệt độ tại các thời điểm trong ngày. Ẩm độ cao nhất vào thời điểm 22 giờ đến 4 giờ của ngày kế tiếp, trung bình là 93% ở ML và 81% ở MN. Ẩm độ thấp nhất vào thời điểm 13 giờ, trung bình là 74,4% ở ML và 57,9% ở MN. Ẩm độ có biên độ thay đổi rất lớn, tối thiểu/tối đa cao, dao động lớn nhất là 52% ở 13 giờ trong ML (44/96%). Ở MN, biên độ nhiệt tối thiểu/tối đa dao động ít hơn so với ML. THI biến thiên theo xu hướng biến thiên của nhiệt độ. THI thấp nhất vào thời điểm 22 giờ đến 4 giờ của ngày kế tiếp, trung bình ở mùa lạnh là 21 và ở mùa nóng là 26,8. THI cao nhất ở thời điểm 13 giờ, trung bình là 25,7 ở mùa lạnh và 32,3 ở mùa nóng. Như vậy, nhiệt độ, ẩm độ và THI có sự biến thiên qua các giờ trong ngày ở cả hai mùa. Ở mùa nóng, nhiệt độ và THI tăng cao ở thời điểm 7 đến 19 giờ, trong lúc đó ẩm độ giảm thấp, nguy cơ gây stress nóng cho cừu. Ở mùa lạnh, nhiệt độ và THI giảm thấp lúc 19 giờ đến 4 giờ sáng ngày kế tiếp, kèm theo ẩm độ tăng cao, nên nguy cơ có thể cừu bị stress lạnh. Đây là vấn đề cần lưu ý khi nuôi cừu trong điều kiện thời tiết khí hậu ở Thừa Thiên Huế. 3.1.2.2. Nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi trong mùa nóng Tần suất xuất hiện nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi trong 3 tháng mùa nóng (từ tháng 6 đến tháng 8) theo trung bình số giờ đo tại 8 thời điểm trong ngày được trình bày ở bảng 3.1. 73 Bảng 3.1. Tần suất nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi trong mùa nóng Độ ẩm (%) <50 50-60 61-70 71-75 76-80 81-90 91-100 Tổng 2 2 5 24 25 1 4 26 3 14 6 13 31 50 Nhiệt độ (0C) 27 5 22 28 6 8 29 60 103 29 9 27 49 20 105 30 13 21 19 8 61 3 46 31 1 29 9 4 32 6 24 5 2 37 33 1 14 39 1 55 34 3 18 12 3 3 39 35 4 41 14 2 1 62 36 7 18 37 9 7 25 1 17 1 1 38 39 40 Tổng 24 105 148 82 124 142 5 630 Số liệu bảng 3.1 cho thấy, trong mùa nóng số giờ có ẩm độ cao chiếm khá nhiều và xảy ra ở thời điểm nhiệt độ <320C. Trong khi đó, các mức ẩm độ thấp xuất hiện tập trung ở nhiệt độ >320C. 74 Ẩm độ không khí cao (trên 80%) chiếm tỷ lệ 23,3% tổng số giờ đo và tập trung ở nhiệt độ không khí thấp (<320C). Điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình tỏa nhiệt bằng cách bốc hơi của cừu. Theo nhận xét của Alhidary và CS. (2012), McManus và CS. (2008), Srikandakumar và CS. (2003), trong điều kiện ẩm độ môi trường cao, nhiệt độ thấp, cơ chế thoát nhiệt qua da không phát huy tác dụng, cừu phải tăng tần số hô hấp để thải nhiệt ra ngoài. Ẩm độ không khí thấp (≤70%) chiếm tỷ lệ lớn 44% tổng số giờ đo và tập trung ở nhiệt độ không khí cao (>320C). Theo nhận xét của Srikandakumar và CS. (2003), ở điều kiện nhiệt độ 320C và ẩm độ 65% cừu bắt đầu bị stress nhiệt, dẫn đến thân nhiệt tăng, tần số hô hấp tăng. Như vậy, đáng chú ý là trong mùa nóng mặc dù nhiệt độ cao nhưng tần suất xuất hiện các mức ẩm độ cao chiếm tỷ lệ lớn. Ở Thừa Thiên Huế, không khí chứa nhiều hơi nước, là một trong số các vùng có ẩm độ không khí cao. 3.1.2.3. Nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi trong mùa lạnh Kết quả tính tần suất nhiệt độ và ẩm độ trong 3 tháng mùa lạnh (từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau) theo trung bình số giờ đo tại 8 thời điểm trong ngày được trình bày ở bảng 3.2. Số liệu bảng 3.2 cho thấy, trong mùa lạnh số giờ có ẩm độ cao xảy ra nhiều và thường ở vào các thời điểm có nhiệt độ không khí thấp (<270C). Trong khi đó các mức ẩm độ thấp xuất hiện ít và tập trung ở nhiệt độ (>270C). Mùa lạnh ẩm độ không khí cao (>80%) chiếm tỷ lệ lớn (79,95% tổng số giờ đo) và tập trung ở nhiệt độ không khí thấp (<270C). Khi ẩm độ không khí cao kết hợp với nhiệt độ không khí thấp có thể gây cảm lạnh cho cừu. Như vậy, trong mùa lạnh, độ ẩm không khí cao (>80%) chiếm tỷ lệ lớn. Ở Thừa Thiên Huế, vào mùa đông thường xuất hiện mưa phùn kéo dài và gió mùa đông bắc đã làm cho ẩm độ tăng lên khá cao. 75 Bảng 3.2. Tần suất nhiệt độ và ẩm độ không khí chuồng nuôi trong mùa lạnh Độ ẩm (%) <50 50-60 61-70 71-75 76-80 81-90 16 1 1 17 3 13 16 18 5 19 24 19 2 34 36 20 5 33 38 21 19 25 44 22 1 23 Nhiệt độ (0C) 91-100 Tổng 24 2 25 2 2 19 31 55 2 1 22 27 52 1 3 22 10 38 1 5 22 12 40 5 19 1 28 26 3 27 2 2 9 7 20 28 2 4 1 3 10 29 4 7 1 6 1 5 1 30 1 31 12 1 9 6 32 2 3 5 33 4 4 8 34 1 1 Tổng 1 8 2 32 21 27 149 206 444 3.1.2.4. THI theo các giờ đo trong ngày Kết quả tính THI chuồng nuôi trung bình theo 8 thời điểm trong ngày ở mùa nóng và mùa lạnh được trình bày ở bảng 3.3 và bảng 3.4. 76 Bảng 3.3. Tần suất THI các giờ trong ngày theo thang đánh giá stress nhiệt của Marai và CS. (2000) Mùa lạnh Mùa nóng Giờ Stress cực Stress trung Stress cực Stress Stress trong Stress trung kỳ nghiêm bình (nhẹ) nghiêm trọng kỳ nghiêm ngày bình (nhẹ) nghiêm trọng trọng trọng (22,2-<23,3) (23,3-<25,6) (≥25,6) (22,2-23,3) (23,3-<25,6) (≥25,6) 1 5 79 7 9 4 8 72 11 8 7 2 84 13 12 10 87 12 13 19 13 87 7 13 27 16 1 79 7 11 22 19 1 83 3 17 10 22 1 79 6 20 4 Tổng 18 650 66 103 82 Kết quả bảng 3.3 cho thấy, giá trị THI cao xuất hiện nhiều ở cả mùa nóng và mùa lạnh. THI ở mức cao (≥23,3) chiếm 100% số giờ đo ở mùa nóng và 73,7% số giờ đo ở mùa lạnh, tập trung vào thời điểm 10 - 19 giờ. Ngược lại, giá trị THI thấp (<23,3) chiếm tỷ lệ ít và chỉ xuất hiện ở mùa lạnh (26,3%) vào từ 22 giờ đến 7 giờ của ngày kế tiếp, đây là thời điểm có nhiệt độ thấp. Giá trị THI phân theo thang đánh giá stress nhiệt ở cừu của Marai và CS. (2000) cho thấy, các mức stress nhiệt có tần suất xuất hiện lớn vào cả mùa nóng và mùa lạnh, kể cả vào các thời điểm nhiệt độ thấp (từ 22 giờ đến 7 giờ ngày kế tiếp) trong mùa lạnh. Như vậy, điều này một lần nữa cho thấy thang đánh giá stress nhiệt của Marai và CS. (2000), có thể không phù hợp trong điều kiện môi trường ở Thừa Thiên Huế. Vì vậy, thí nghiệm đã tiến 77 hành đánh giá các phản ứng sinh lý, lượng thức ăn thu nhận của cừu Phan Rang ở các mức THI khác nhau ở Thừa Thiên Huế và đã xác định được các điểm THI giới hạn trên cừu (bảng 3.4). Chi tiết phân tích ở phần 3.2 và 3.3. Bảng 3.4. Tần suất xuất hiện THI theo các giờ trong ngày ở mùa nóng và mùa lạnh Giờ trong ngày Mùa nóng ≤22,2 Mùa lạnh >22,2 - 25,6 >25,6 28,5 >28,5 1 5 75 4 8 7 ≤22,2 >22,2 - 25,6 >25,6 >28,5 28,5 4 43 16 1 - 73 - 40 19 1 - 2 69 16 34 20 6 - 10 - 9 78 14 20 19 7 13 - - 83 11 20 17 12 16 1 6 73 18 17 18 7 19 1 25 58 28 20 11 1 22 1 63 18 31 23 6 - Tổng 18 320 330 219 155 79 27 Kết quả bảng 3.4 cho thấy, giá trị THI ở mức cao (>28,5) xuất hiện trong cả hai mùa, chiếm 21,9% số giờ đo và tập trung chủ yếu ở mùa nóng (20,3%). Trong mùa nóng, từ 7 đến 22h xuất hiện stress nhiệt mạnh, tuy nhiên stress mạnh chỉ tập trung từ 10-16h; trong khi ở mùa lạnh stress nhiệt mạnh chỉ có từ 10-16h. Khi THI tăng cao làm tăng thân nhiệt (Alhidary và CS., 2012; Marai và CS. 2007, 2009; Srikandakumar và CS., 2003); tăng tần số hô hấp (Alhidary và CS., 2012; Savage và CS., 2008; Marai và CS. 2007; Srikandakumar và CS., 2003); tăng nhiệt độ da (Marai và CS., 2009; McManus và CS., 2008; Bhatta và CS., 2005); đồng thời giảm lượng ăn vào của cừu (Alhidary và CS. 2012; Savage và CS., 2008; Marai và CS., 2007). Đây là điểm đáng lưu ý khi nuôi cừu trong mùa nóng ở Thừa Thiên Huế. 78 Từ các kết quả phân tích trên cho thấy, ở Thừa Thiên Huế ẩm độ không khí cao chiếm tỷ lệ lớn trong cả mùa nóng và mùa lạnh. Điều này một lần nữa cho thấy, mặc dù mùa nóng, nhiệt độ cao nhưng ẩm độ môi trường vẫn cao, có thể gây stress cho cừu. Đây là điểm thời tiết khác biệt rất lớn đối với Ninh Thuận và các địa phương khác đã có nuôi cừu trên cả nước. 3.2. QUAN HỆ GIỮA NHIỆT ĐỘ, ẨM ĐỘ VÀ THI VỚI CÁC CHỈ TIÊU SINH LÝ 3.2.1. Các chỉ tiêu sinh lý Xác định các chỉ tiêu sinh lý của 24 con cừu Phan Rang trong điều kiện chăn nuôi ở Thừa Thiên Huế và 88 con nuôi ở Ninh Thuận với các độ tuổi: 1, 3, 6, 9, 12 và 15 tháng tuổi. Kết quả được xử lý thống kê và trình bày ở bảng 3.5. Bảng 3.5. Các chỉ tiêu sinh lý của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận Thừa Thiên Huế Chỉ tiêu Ninh Thuận n M ± SEM n M ± SEM Thân nhiệt (0C) 24 38,99 ± 0,02 88 39,27 ± 0,03 Tần số hô hấp (lần/phút)* 24 34,15 ± 0,53 88 19,61 ± 0,49 Nhịp tim (lần/phút) 24 66,94 ± 0,31 88 66,36 ± 0,29 Nhiệt độ da (0C) 24 36,51 ± 0,04 88 35,39 ± 0,03 *Sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) Đặc điểm sinh lý là sự phản ánh khả năng thích ứng của cừu trong điều kiện môi trường sống mới. Các chỉ tiêu sinh lý phản ánh tình trạng sức khỏe của cơ thể cũng như khả năng sản xuất của chúng. Kết quả bảng 3.5 cho thấy, thân nhiệt, nhịp tim và nhiệt độ da của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận là không có sự sai khác (P>0,05). Giá trị thân nhiệt dao động trong 79 khoảng 38,99 – 39,270C; nhiệt độ da: 35,39 - 36,510C và nhịp tim: 66,36 66,94 lần/phút. Điều này cho thấy, cừu nuôi trong điều kiện môi trường ở Thừa Thiên Huế mặc dù khác với môi trường truyền thống (Ninh Thuận) nhưng thân nhiệt, nhịp tim và nhiệt độ da của cừu vẫn duy trì ổn định. Trong khi đó, tần số hô hấp của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế có xu hướng cao hơn đáng kể so với ở Ninh Thuận (P<0,05). Điều này có thể là do ở Thừa Thiên Huế, mặc dù nhiệt độ không khí cao nhưng ẩm độ vẫn luôn cao (trung bình năm là 87,3% so với 78% - Ninh Thuận) đã hạn chế sự tỏa nhiệt của cừu qua da nên cừu phải tăng tần số hô hấp để thải nhiệt. Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho biết, tăng tần số hô hấp là con đường thải nhiệt quan trọng ở cừu. Trong điều kiện nhiệt độ cao, kèm theo ẩm độ cao hoặc bảo hòa thì sự tỏa nhiệt bằng bốc hơi nước bị trở ngại, vì vậy cừu phải thải nhiệt ra môi trường bằng cách tăng tần số hô hấp để cân bằng nhiệt của cơ thể (Alhidary và CS., 2012; Fadare và CS., 2012; McManus và CS., 2008; Marai và CS., 2009; Bhatta và CS., 2005; Bhattacharya và Uwayjan, 1975). Theo Srikandakumar và CS. (2003), khi nhiệt độ môi trường tăng từ 320C trở lên, ẩm độ khoảng 65%, thân nhiệt của cừu bắt đầu tăng, dẫn đến tần số hô hấp của cừu tăng lên đáng kể. Theo Sarage và CS. (2008), tần số hô hấp của cừu nuôi trong phòng nóng (30 - 400C) cao hơn so với phòng mát (200C) (206 so với 149 lần/phút). Al-Haidary (2004) cũng cho biết, tần số hô hấp của cừu trong điều kiện stress nhiệt (33 – 38,50C) là 80 lần/phút, trong khi ở nhiệt độ 23,60C là 61 lần/phút. Mặt khác, cừu là gia súc có tuyến mồ hôi kém phát triển so với một số động vật đẳng nhiệt khác như trâu, bò. Đồng thời, cừu có bộ lông dày nên thải nhiệt qua da rất kém. Vì vậy, trong điều kiện nhiệt độ cao cừu phải tăng tần số hô hấp để thải nhiệt ra ngoài (Marai và CS., 2007; Bhatta và CS., 2005). Theo Marai và CS. (2007), khoảng 20% lượng nhiệt cơ thể cừu thải ra qua hô hấp 80 trong môi trường nhiệt độ 120C, nhưng chiếm đến 60% ở nhiệt độ môi trường cao (350C). Aleksiev (2008) cho biết, tần số hô hấp của cừu Tsigai buổi sáng là 36,6 lần/phút và buổi chiều là 55,9 lần/phút; sau khi được xén lông tần số hô hấp của cừu giảm đáng kể, lần lượt là 16,6 và 20,6 lần/phút. Theo Singh và CS. (1980), ở điều kiện nhiệt độ 200C tần số hô hấp của cừu Chokla thấp hơn dê Sirohi (22 so với 26 lần/phút), nhưng ở nhiệt độ 42,40C sau 30 phút tần số hô hấp của cừu Chokla cao hơn nhiều so với dê Sirohi. Theo Adam và McKinley (2009), tần số hô hấp của cừu bình thường khoảng 15 - 40 lần/phút, trong điều kiện môi trường thay đổi tần số hô hấp có thể đạt tối đa 350 lần/phút. Vì vậy, mặc dù kết quả đánh giá tần số hô hấp của cừu nuôi trong điều kiện ở Thừa Thiên Huế có cao hơn so với nuôi ở Ninh Thuận nhưng tần số hô hấp của cừu trong nghiên cứu này vẫn nằm trong khoảng sinh lý bình thường của cừu. Như vậy, điều kiện nhiệt độ và ẩm độ ở Thừa Thiên Huế đã không làm ảnh hưởng đến nhịp tim, thân nhiệt và nhiệt độ da ở cừu. Bước đầu cho thấy cừu Phan Rang có khả năng thích ứng được với môi trường ở Thừa Thiên Huế. 3.2.2. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với thân nhiệt 3.2.2.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với thân nhiệt Kết quả nghiên cứu quan hệ giữa nhiệt độ chuồng nuôi với thân nhiệt của cừu được trình bày ở đồ thị 3.3. Trong khoảng giới hạn từ 17,5 đến 33,50C, quan hệ giữa nhiệt độ chuồng nuôi (x1, 0C) với thân nhiệt cừu (Y1, 0C) thể hiện qua phương trình tương quan bậc 2 như sau: Y1 = 0,0014x12 - 0,0305x1 + 38,76 R2 = 0,77; P = 0,001 81 T h â n n h iệ t ( 0 C ) 39,6 y = 0,0014x2 - 0,0305x + 38,76 R2 = 0,7722 39,4 39,2 39,0 38,8 38,6 38,4 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 Nhiệt độ (0C) Đồ thị 3.3. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với thân nhiệt của cừu Qua tính toán sự tăng thân nhiệt của cừu ở các khoảng nhiệt độ chuồng nuôi khác nhau: ≤22,5; >22,5-26,3; >26,3-29,5 và >29,50C cho thấy thân nhiệt có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (bảng 3.6). Bảng 3.6. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến thân nhiệt Nhiệt độ (0C) Thân nhiệt (0C) Dao động M ± SEM ≤22,5 38,69 - 38,80 38,72a* ± 0,02 >22,5 - 26,3 38,80 - 38,90 38,85b ± 0,01 >26,3 - 29,5 38,99 - 39,04 39,02c ± 0,02 > 29,5 39,10 - 39,32 39,20d ± 0,02 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) 82 Số liệu bảng 3.6 cho thấy, nhiệt độ trong khoảng từ 17,5 đến 22,50C thân nhiệt của cừu tương đối ổn định, trung bình là 38,70C. Khi nhiệt độ tăng lên trong khoảng từ >22,5 - 26,5; >26,5 - 29,5 và >29,50C thân nhiệt của cừu tăng lên lần lượt là 0,13; 0,17 và 0,180C. Như đã biết, cừu là động vật đẳng nhiệt, thân nhiệt là một trong những chỉ tiêu sinh lý khá ổn định. Sự ổn định này là nhờ sự điều hòa của nhiều yếu tố trong cơ thể. Tuy nhiên, khi nhiệt độ môi trường quá cao (cao bằng hoặc cao hơn nhiệt độ cơ thể) đã làm ảnh hưởng đến quá trình tỏa nhiệt, khả năng thải nhiệt từ cơ thể ra môi trường bị hạn chế, cơ thể tích nhiệt, dẫn đến làm cho thân nhiệt của cừu tăng. Mặc dù nhiệt độ môi trường tăng đã làm tăng thân nhiệt của cừu (38,69 - 39,320C) nhưng nhiệt độ thân nhiệt vẫn ở trong khoảng sinh lý bình thường. Kết quả trong nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Alhidary và CS., 2012; McManus và CS., 2008; Bhatta và CS., 2005). Srikandakumar và CS. (2003) cho biết, thân nhiệt của cừu tăng lên đáng kể khi nhiệt độ môi trường >320C. Nhiệt độ môi trường tăng 14,20C (23,2 - 37,40C) thân nhiệt của cừu Merino (Úc) tăng 0,70C (39,03 - 39,100C) (Alhidary và CS., 2012). Theo McManus và CS. (2008), buổi sáng nhiệt độ 17,28 - 23,60C thân nhiệt của cừu Santa Ines (Brazin) là 38,250C, buổi chiều nhiệt độ 19,46 27,320C thân nhiệt của cừu là 39,440C. 3.2.2.2. Quan hệ giữa ẩm độ với thân nhiệt Quan hệ giữa ẩm độ chuồng nuôi với thân nhiệt của cừu được trình bày ở đồ thị 3.4. Trong khoảng ẩm độ không khí từ 56 - 93%; tương quan giữa ẩm độ (x2, %) với thân nhiệt cừu (Y2, 0C) như sau: Y2 = 0,0055x22 - 0,043x2 + 40,58 R2 = 0,64; P = 0,001 83 39,6 y = 0,0055x2 - 0,0243x + 40,58 R2 = 0,6405 Th â n nhiệ t (0 C ) 39,4 39,2 39,0 38,8 38,6 38,4 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100 Ẩm độ (%) Đồ thị 3.4. Quan hệ bậc hai giữa ẩm độ với thân nhiệt của cừu Qua tính toán giá trị thân nhiệt của cừu giảm tương ứng với mức ẩm độ tăng 2,5% cho thấy; khi ẩm độ 59 - 75%, thân nhiệt cừu trung bình là 39,210C; khi ẩm độ tăng từ >75 - 90% thân nhiệt của cừu giảm 0,360C; khi ẩm độ >90% thân nhiệt của cừu giảm 0,480C, sự sai khác này là có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (bảng 3.7). Bảng 3.7. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến thân nhiệt Ẩm độ (%) Thân nhiệt (0C) Dao động M ± SEM 59 - 75 39,1 - 39,3 39,21a* ± 0,02 >75 - 80 39,0 - 39,1 39,03b ± 0,03 >80 - 90 38,8 - 38,9 38,85c ± 0,03 >90 38,7 - 38,8 38,73d ± 0,03 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) 84 Ẩm độ không khí có ảnh hưởng đến cân bằng nhiệt của động vật. Tuy nhiên, tác động của ẩm độ phụ thuộc vào sự kết hợp với nhiệt độ môi trường. Khi ẩm độ môi trường cao kết hợp với nhiệt độ môi trường thấp tăng tỏa nhiệt ở cừu dẫn đến thân nhiệt giảm. Theo Alhidary và CS. (2012), ẩm độ 49,8% và nhiệt độ 37,40C thân nhiệt của cừu Merino (Úc) là 39,100C, khi ẩm độ tăng lên là 51,9% và nhiệt độ 23,20C thân nhiệt của cừu giảm còn 39,030C. Cừu Santa Ines (Brazin) buổi sáng ẩm độ 89,7%, thân nhiệt là 38,250C; buổi chiều ẩm độ 70,3% thân nhiệt của cừu là 39,440C (McManus và CS., 2008). Nghiên cứu của các tác giả Fadare và CS. (2012), Marai và CS. (2009), Bhatta và CS. (2005), Srikandakumar và CS. (2003) cũng cho kết quả tương tự. 3.2.2.3. Quan hệ giữa THI với thân nhiệt Kết quả nghiên cứu quan hệ của THI với thân nhiệt của cừu được trình bày ở đồ thị 3.5. y = 0.0025x2 - 0.0775x + 39.247 39.6 R2 = 0.773 Thân nhiệt (0C) 39.4 39.2 39.0 38.8 38.6 38.4 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 THI Đồ thị 3.5. Quan hệ bậc hai giữa THI với thân nhiệt của cừu Trong khoảng THI từ 17,2 đến 31,5 quan hệ giữa THI (Y3) với thân nhiệt (x3, 0C) thể hiện qua phương trình tương quan bậc 2 sau đây: 85 Y3 = 0,0025x32 - 0,0775x3 + 39,247 R2 = 0,64; P = 0,001 Sự thay đổi thân nhiệt theo mức giá trị THI và thang đánh giá của Marai và CS. (2000) như sau (bảng 3.8). Bảng 3.8. Các mốc THI ảnh hưởng đến thân nhiệt Thân nhiệt (0C) THI Dao động M ± SE ≤22,2 38,69 - 38,78 38,72a* ± 0,02 >22,2 - 23,3 38,80 - 38,85 38,82b ± 0,03 >23,3 - 25,6 38,85 - 38,94 38,90b ± 0,02 >25,6 - 28,5 38,91 - 39,01 39,01c ± 0,02 >28,5 39,09 - 39,30 39,20d ± 0,02 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Kết quả bảng 3.8 cho thấy, thân nhiệt của cừu có sự sai khác thống kê khi THI ở các mức ≤22,2; >22,2 - 25,6; >25,6 - 28,5 và >28,5 (P<0,05). Tuy nhiên, trong khoảng THI >22,2 - 26,5, thân nhiệt của cừu không có sự sai khác thống kê (P>0,05). Kết quả này cho thấy, nên phân chia ảnh hưởng của THI đến thân nhiệt theo 4 mức (≤22,2; >22,2 – 25,6; >25,6 – 28,5 và >28,5) thay vì 5 mức. Tính toán thân nhiệt tăng ở các mức THI cho thấy, THI ≤22,2 thân nhiệt của cừu trung bình là 38,720C. Khi THI tăng lên trong trong khoảng >22,2 – 25,6; >25,6 – 28,5 và >28,5 thì thân nhiệt của cừu tăng lên lần lượt là 0,18, 0,29 và 0,480C. Thân nhiệt có sự biến động trước sự thay đổi của THI, khi THI tăng cao đã làm tăng thân nhiệt của cừu. Thông thường thân nhiệt của cừu ổn định nhờ quá trình sinh nhiệt và thải nhiệt của cơ thể. Tuy nhiên, khi THI cao vượt quá khả năng điều hòa thân nhiệt, cân bằng sinh nhiệt và thải nhiệt bị mất, làm thân nhiệt thay đổi. 86 Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Alhidary và CS., 2012; Bhatta và CS., 2005; Marai và CS., 2009). Các tác giả cho biết, giá trị thân nhiệt của cừu tăng cao thường ứng với giá trị THI cao. Theo Marai và CS. (2009), thân nhiệt của cừu Suffolk khi THI = 14,5 là 38,70C và THI = 25,6 là 39,80C. McManus và CS. (2008) cũng cho biết, thân nhiệt cừu Santa Ines (Brazin) khi THI = 19,05 thân nhiệt là 38,250C; khi THI = 24,04 thân nhiệt của cừu là 39,440C. 3.2.3. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với tần số hô hấp Tần số hô hấp là con đường thải nhiệt quan trọng, là chỉ số dự báo stress nhiệt ở cừu. Kết quả tính toán về quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với tần số hô hấp của cừu được thể hiện như sau. 3.2.3.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với tần số hô hấp Kết quả đánh giá mối quan hệ giữa nhiệt độ chuồng nuôi với tần số hô hấp của cừu ở Thừa Thiên Huế được trình bày trên đồ thị 3.6. 90 T ầ n s ố h ô h ấ p ( lầ n /p h ú t ) 80 y = 0,1888x 2 - 6,3093x + 68,205 R2 = 0,8147 70 60 50 40 30 20 10 0 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 Nhiệt độ (0C) Đồ thị 3.6. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với tần số hô hấp của cừu 35 87 Kết quả đồ thị 3.6 cho thấy, nhiệt độ chuồng nuôi có ảnh hưởng đến tần số hô hấp của cừu. Trong khoảng nhiệt độ từ 17,5 đến 33,50C quan hệ giữa nhiệt độ (x4, 0C) với tần số hô hấp (Y4, lần/phút) như sau: Y4 = 0,1888x42 - 6,3093x4 + 68,205 R2 = 0,81; P = 0,001 Kết quả tính toán tần số hô hấp của cừu ở các mốc nhiệt độ cho thấy, khi nhiệt độ tăng từ 17,5 lên 22,50C không làm tăng tần số hô hấp, trung bình 17,98 lần/phút. Khi nhiệt độ tăng >22,5 - 29,50C đã làm tăng tần số hô hấp thêm 20,5 lần/phút. Khi nhiệt độ tăng >29,50C tần số hô hấp tăng lên rất cao, 41,43 lần/phút. Sự sai khác về tần số hô hấp của cừu trong nghiên cứu này là có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (bảng 3.9). Điều này cũng phù hợp với nhận xét cừu tăng tần số hô hấp để thải nhiệt ra ngoài khi nhiệt độ môi trường tăng cao (Alhidary và CS., 2012; Fadare và CS., 2012; McManus và CS., 2008; Marai và CS., 2007, 2009; Bhatta và CS., 2005; Srikandakumar và CS., 2003; Bhattacharya và Uwayjan, 1975). Bảng 3.9. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến tần số hô hấp Nhiệt độ (0C) Tần số hô hấp (lần/phút) Dao động M ± SEM ≤22,5 16,3 - 19,0 17,98a ± 1,74 >22,5 - 26,3 22,8 - 30,6 27,06b ± 1,62 >26,3 - 29,5 35,7 - 41,1 38,48c ± 2,05 >29,5 52,4 - 74,9 59,41d ± 1,62 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) 88 Trong các phản ứng sinh lý của động vật với sự thay đổi nhiệt độ môi trường thì sự thay đổi tần số hô hấp là phản ứng đầu tiên có liên quan đến quá trình trao đổi nhiệt, đặc biệt đối với cừu, như đã phân tích ở trên cừu có bộ lông dày nên phương thức thải nhiệt qua da kém hiệu quả. Mặt khác, khi nhiệt độ môi trường tăng cao, kết hợp với ẩm độ chuồng nuôi thấp nên phương thức thải nhiệt qua hô hấp đạt hiệu quả cao. 3.2.3.2. Quan hệ giữa ẩm độ với tần số hô hấp Kết quả đánh giá mối quan hệ giữa ẩm độ trong chuồng nuôi với tần số hô hấp của cừu ở Thừa Thiên Huế được trình bày trên đồ thị 3.7. T ầ n s ố h ô h ấ p (l ầ n / p h ú t) 90 y = 0,0094x2 - 2,8963x + 206,92 R2 = 0,7314 80 70 60 50 40 30 20 10 0 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100 Ẩm độ (%) Đồ thị 3.7. Quan hệ bậc hai giữa ẩm độ với tần số hô hấp của cừu Trong khoảng ẩm độ không khí từ 56 đến 96%, tương quan giữa ẩm độ (x5, %) với tần số hô hấp (Y5, lần/phút) như sau: Y5 = 0,0094x52 - 2,8963x5 + 206,92 R2 = 0,73; P = 0,001 89 Tần số hô hấp của cừu ít biến động khi ẩm độ >80%, trung bình 22,83 lần/phút. Ở mức ẩm độ 75 - 80%, tần số hô hấp tăng lên 25,78 lần/phút, trong khi ẩm độ <75% tần số hô hấp tăng 41,17 lần/phút (P<0,05) (bảng 3.10). Bảng 3.10. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến tần số hô hấp Ẩm độ (%) Tần số hô hấp (lần/phút) Dao động M ± SEM 59 - 75 56,4 - 64,1 60,05a ± 1,73 >75 - 80 38,1 - 41,6 44,66b ± 2,45 >80 - 90 26,4 - 28,5 26,77c ± 2,12 >90 17,8 - 20,0 18,88c ± 3,00 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Số liệu ở bảng 3.10 cho thấy, ẩm độ không khí ảnh hưởng đến tần số hô hấp. Thực tế, Thừa Thiên Huế ẩm độ không khí luôn có sự biến động mạnh, điều đó làm cho tần số hô hấp của cừu nuôi trong điều kiện này luôn không ổn định có thể sẽ ảnh hưởng đến sức sản xuất của con vật. Điều này phù hợp với các nhận xét khi ẩm độ thấp, nhiệt độ môi trường cao cừu phải tăng tần số hô hấp để thải nhiệt ra ngoài cơ thể (Marai và CS., 2009; Bhatta và CS., 2005). 3.2.3.3. Quan hệ giữa THI với tần số hô hấp Kết quả đánh giá mối quan hệ giữa THI chuồng nuôi với tần số hô hấp của cừu ở Thừa Thiên Huế được trình bày trên đồ thị 3.8. Trong khoảng nhiệt độ từ 17,5 đến 31,3 quan hệ giữa THI (Y6) với tần số hô hấp (x6, lần/phút) như sau: Y6 = 0,3265x62 - 12,25x6 + 132,05 R2 = 0,82; P = 0,001 90 y = 0,3265x 2 - 12,25x + 132,05 R2 = 0,8211 90 Tần số hô hấp (lần/phút) 80 70 60 50 40 30 20 10 0 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 THI Đồ thị 3.8. Quan hệ bậc hai giữa THI với tần số hô hấp của cừu Sự thay đổi tần số hô hấp theo các mốc THI căn cứ thang đánh giá của Marai và CS. (2000) như sau (bảng 3.11). Bảng 3.11. Các mốc THI ảnh hưởng đến tần số hô hấp THI Tần số hô hấp (lần/phút) Dao động M ± SE ≤22,2 16,3 - 18,9 17,95a ± 1,26 >22,2 - 23,3 22,0 - 23,8 22,94ab ± 1,92 >23,3 - 25,6 25,9 - 30,0 28,28b ± 1,49 >25,6 - 28,5 30,6 - 41,7 37,36c ± 1,36 >28,5 49,4 - 65,5 58,74d ± 1,36 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Kết quả bảng 3.11 cho thấy, tần số hô hấp của cừu có sự sai khác thống kê theo các khoảng phân chia THI của Marai và CS. (2000) (P<0,05). Tuy nhiên, tần số hô hấp ở mức THI ≤22,2 và >22,2 - 23,3 không có sai khác 91 thống kê và tương tự như ở hai mức tiếp theo là >22,2 - 23,3 và >23,3 - 25,6; Trong khi đó, sự sai khác rõ rệt ở các mức này với hai mức còn lại đã cho thấy trong kết quả của nghiên cứu này. Nếu như tần số hô hấp ở các mức THI ≤22,2 – 25,6 dao động 17,95 – 28,28 lần/phút thì các giá trị này ở mức THI >25,6 – 28,5 là 37,36 và >28,5 là 58,74 lần/phút. Như vậy, việc phân chia THI ra 5 mức độ khác nhau có thể chưa phù hợp với điều kiện khí hậu của miền Trung nói riêng và Việt Nam nói chung. Qua tính toán giá trị tần số hô hấp cho thấy, THI từ 17,5 - 22,2 tần số hô hấp trung bình là 17,95 lần/phút. Khi THI tăng từ >22,2 - 28,5 tần số hô hấp tăng thêm 19,4 lần/phút. THI tăng >28,5 tần số hô hấp tăng lên rất cao, thêm 40,8 lần/phút (bảng 3.11). Khi THI tăng, đồng nghĩa với việc con vật càng tiếp cận với stress nóng. Sự tăng tần số hô hấp trong nghiên cứu này là phù hợp với các khuyến cáo trên và nằm trong giới hạn phản ứng sinh lý ở cừu. Khi THI tăng thì tần số hô hấp tăng, đây là những đáp ứng để tăng thải nhiệt từ cơ thể ra ngoài môi trường nhằm duy trì thân nhiệt trong giới hạn sinh lý bình thường. Alhidary và CS. (2012), Srikandakumar và CS. (2003) cho biết, mùa lạnh (THI thấp) tần số hô hấp của cừu Merino và Omani thấp hơn mùa nóng (THI cao). Theo McManus và CS. (2008), tần số hô hấp của cừu Santa Ines (Brazin) khi THI = 19,05 là 35,66 lần/phút; khi THI = 24,04 tần số hô hấp của cừu là 49,85 lần/phút. 3.2.4. Quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với nhịp tim 3.2.4.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với nhịp tim Kết quả đánh giá quan hệ giữa nhiệt độ trong chuồng nuôi với nhịp tim của cừu ở Thừa Thiên Huế được trình bày trên đồ thị 3.9. 92 2 90 y = 0,0062x + 0,962x + 40,255 2 R = 0,6959 N h ịp tim (lầ n /p h ú t) 85 80 75 70 65 60 55 50 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 Nhiệt độ (0C) Đồ thị 3.9. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với nhịp tim của cừu Trong khoảng nhiệt độ chuồng nuôi từ 17,5 đến 33,50C mối tương quan giữa nhiệt độ (x7, 0C) với nhịp tim (Y7, lần/phút) như sau: Y7 = 0,0062x72 + 0,962x7 + 40,255 R2 = 0,70; P = 0,001 Qua tính toán cho thấy, khi nhiệt độ chuồng nuôi ở mức thấp ≤22,50C nhịp tim của cừu tương đối ổn định, trung bình là 62,4 lần/phút. Khi nhiệt độ tăng trong khoảng >22,5 - 29,50C nhịp tim có tăng, nhưng ở mức thấp (7,5 lần/phút). Khi nhiệt độ tăng >29,50C thì nhịp tim tăng thêm 14,6 lần/phút (P<0,05) (bảng 3.12). Nhiệt độ môi trường tăng cao đã làm tăng nhịp tim của cừu. Nhịp tim của cừu tăng trong một chừng mực nhất định là giúp cơ thể thải nhiệt lượng thừa thông qua tuần hoàn máu. Đưa lượng máu lưu thông đến các cơ quan ngoại biên nhiều hơn, giúp cừu thải nhiệt ra ngoài cơ thể nhanh hơn. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây (McManus và CS., 2008; Bhatta và CS., 2005). Theo McManus và CS. 93 (2008), buổi sáng nhiệt độ 17,28 - 23,60C nhịp tim của cừu Santa Ines (Brazin) là 92,82 lần/phút, buổi chiều nhiệt độ 19,46 - 27,320C nhịp tim của cừu là 104,63 lần/phút. Bảng 3.12. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến nhịp tim Nhịp tim (lần/phút) 0 Nhiệt độ ( C) Dao động M ± SEM ≤22,5 59,7 - 64,2 62,07a* ± 0,49 >22,5 - 26,3 65,8 - 69,8 67,68b ± 0,47 >26,3 - 29,5 71,4 - 75,4 72,88c ± 0,74 >29,5 74,7 - 79,6 77,35d ± 0,52 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) 3.2.4.2. Quan hệ giữa ẩm độ với nhịp tim Kết quả đánh giá quan hệ giữa ẩm độ trong chuồng nuôi với nhịp tim của cừu ở Thừa Thiên Huế được trình bày trên đồ thị 3.10. y = -0,0065x2 + 0,4756x + 73,916 R2 = 0,6141 90 N h ịp tim (lần /p h ú t) 85 80 75 70 65 60 55 50 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 Ẩm độ (%) Đồ thị 3.10. Quan hệ bậc hai giữa ẩm độ với nhịp tim của cừu 100 94 Quan hệ giữa ẩm độ không khí chuồng nuôi (x8, %) với nhịp tim (Y8, lần/phút) được thể hiện qua phương trình sau: Y8 = -0,0065x82 + 0,4756x8 + 73,619 R2 = 0,61; P = 0,001 Bảng 3.13. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến nhịp tim Ẩm độ (%) Nhịp tim (lần/phút) Dao động M ± SEM 59 - 75 74,8 - 79,4 77,45a* ± 0,68 >75 - 80 72,5 - 74,9 73,46b ± 0,98 >80 - 90 66,4 - 68,4 66,61c ± 0,81 > 90 60,8- 64,9 62,72c ± 0,97 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Kết quả ở bảng 3.13 cho thấy, nhịp tim giảm khác biệt ở các mức ẩm độ <75, <80 và >80% (P<0,05). Khi ẩm độ cao >80% nhịp tim của cừu 62,7 64,65 lần/phút; thấp hơn 7-11 lần/phút ở >75 – 80%; và thấp hơn 11 – 15 lần/phút ở ẩm độ 59 - 75%. Điều này cho thấy, cừu thích ứng tốt hơn với môi trường có ẩm độ thấp. Theo McManus và CS. (2008), nhịp tim của cừu Santa Ines (Brazin) khi ẩm độ 89,7% là 92,82 lần/phút, khi ẩm độ giảm còn 70,3% nhịp tim tăng lên là 104,63 lần/phút. 3.2.4.3. Quan hệ giữa THI với nhịp tim Tương quan giữa THI chuồng nuôi (x9) với nhịp tim cừu (Y9, lần/phút) được thể hiện ở đồ thị 3.11 và phương trình sau: Y9 = 0,0293x92 + 0,0129x9 + 50,049 R2 = 0,69; P = 0,001 95 y = 0,0293x2 + 0,0219x + 50,049 R2 = 0,6917 90 85 N h ịp tim (lần /p h ú t) 80 75 70 65 60 55 50 45 40 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 THI Đồ thị 3.11. Quan hệ bậc hai giữa THI với nhịp tim của cừu Sự thay đổi nhịp tim theo các mốc THI căn cứ thang đánh giá của Marai và CS. (2000) như sau (bảng 3.14). Bảng 3.14. Các mốc THI ảnh hưởng đến nhịp tim THI Nhịp tim (lần/phút) Dao động M ± SE ≤ 22,2 59,60 - 64,70 61,75a* ± 0,46 >22,2 - 23,3 65,73 - 66,70 66,08ab ± 0,70 >23,3 - 25,6 66,80 - 70,10 68,60b ± 0,49 >25,6 - 28,5 72,40 - 74,60 73,95c ± 0,54 >28,5 76,70 - 78,00 76,82d ± 0,49 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Kết quả bảng 3.14 cho thấy, nhịp tim của cừu có sự sai khác thống kê khi THI ≤22,2; >22,2 - 25,6; >25,6 -28,5 và >28,5 (P<0,05). Trong khoảng 96 THI >22,2 - 26,5, thân nhiệt của cừu không có sự sai khác thống kê (P>0,05). Kết quả này cho thấy, nên phân chia ảnh hưởng của THI đến thân nhiệt theo 4 mức (≤22,2; >22,2 – 25,6; >25,6 – 28,5 và >28,5) thay vì 5 mức. Nhịp tim của cừu có sự biến động phụ thuộc vào THI với mức độ khác nhau. Tuy nhiên, so với thân nhiệt và tần số hô hấp, nhịp tim bị ảnh hưởng bởi THI ít hơn. Khi THI tăng, nhịp tim và tần số hô hấp đều tăng, nhưng nhịp tim không tăng nhiều như tần số hô hấp. Kết quả này phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đây (McManus và CS., 2008; Bhatta và CS., 2005). 3.2.5. Quan hệ giữa nhiệt độ, độ ẩm và THI với nhiệt độ da 3.2.5.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với nhiệt độ da Tương quan giữa nhiệt độ chuồng nuôi với nhiệt độ da ở cừu được thể hiện ở đồ thị 3.12. 39,5 39,0 38,5 38,0 37,5 37,0 36,5 36,0 35,5 35,0 34,5 N h iệ t đ ộ d a (0 C ) y = 0,0216x2 - 0,9021x + 44,706 R2 = 0,8372 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 Nhiệt độ (0C) Đồ thị 3.12. Quan hệ bậc hai giữa nhiệt độ với nhiệt độ da của cừu 35 97 Trong khoảng nhiệt độ chuồng nuôi từ 17,5 đến 33,50C, tương quan giữa nhiệt độ (x10, 0C) với nhiệt độ da (Y10, 0C) thể hiện qua phương trình sau: Y10 = 0,0216x102 - 0,9021x10 + 44,706 R2 = 0,84; P = 0,001 Qua tính toán nhiệt độ da tăng ở mức nhiệt độ chuồng nuôi tăng 0,50C cho thấy, khi nhiệt độ chuồng nuôi ≤22,5 - 26,3, nhiệt độ da không có sự sai khác (P>0,05), trung bình là 35,470C. Khi nhiệt độ chuồng nuôi tăng từ >26,3 - 29,50C nhiệt độ da tăng 0,640C; khi nhiệt độ chuồng nuôi tăng lên >29,5 nhiệt độ da tăng cao (thêm 2,270C), sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (bảng 3.15). Bảng 3.15. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến nhiệt độ da 0 Nhiệt độ ( C) Nhiệt độ da (0C) Dao động M ± SEM ≤22,5 35,3 - 35,4 35,32a* ± 0,11 >22,5 - 26,3 35,4 - 35,9 35,63ab ± 0,11 >26,3 - 29,5 35,9 - 36,4 36,11c ± 0,15 >29,5 37,4 - 38,5 37,74d ± 0,11 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Ở vật nuôi, nhiệt độ da khá ổn định; tuy nhiên, nó cũng thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Nhiệt độ da cao vào mùa hè, khi trời nắng nóng, nhiệt độ môi trường cao và giảm thấp ở mùa đông, khi nhiệt độ môi trường thấp (Haidary và CS., 2012; Marai và CS., 2009; Bhatta và CS., 2005). Trong ngày vào mùa hè buổi sáng nhiệt độ da thấp, sau đó tăng dần vào buổi trưa và tăng cao vào nhất vào buổi chiều (Haidary và CS., 2012; McManus và CS., 2008; Marai và CS., 2007). Nhiệt độ da của cừu Rambouillet ở nhiệt độ môi trường 240C là 35,10C, khi nhiệt độ 400C nhiệt độ da là 38,80C (Singh và CS., 1980). 98 3.2.5.2. Quan hệ giữa ẩm độ với nhiệt độ da Quan hệ giữa độ ẩm chuồng nuôi với nhiệt độ da của cừu được trình bày ở đồ thị 3.13. 39,5 y = 0,0014x2 - 0,3162x + 52,479 R2 = 0,6865 N h i ệ t đ ộ d a (0 C ) 39,0 38,5 38,0 37,5 37,0 36,5 36,0 35,5 35,0 34,5 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100 Ẩm độ (%) Đồ thị 3.13. Quan hệ bậc hai giữa ẩm độ với nhiệt độ da của cừu Phương trình tương quan giữa ẩm độ chuồng nuôi (x11, %) với nhiệt độ da (Y11, 0C) của cừu: Y11 = 0,0014x112 - 0,3162x11 + 52,479 R2 = 0,69; P = 0,001 Qua tính toán ở mức ẩm độ tăng 2,5% cho thấy, khi ẩm độ 59 - 75%, nhiệt độ da của cừu là 37,950C. Khi ẩm độ tăng từ >75 - 80% nhiệt độ da của cừu giảm 1,250C; khi ẩm độ >80 - 90% nhiệt độ da của cừu giảm 2,310C (P<0,05). Tuy nhiên, không thấy có sự sai khác ở mức ẩm độ >80 - 90% và >90% (P>0,05) (bảng 3.16). 99 Bảng 3.16. Các mốc ẩm độ ảnh hưởng đến nhiệt độ da Nhiệt độ da (0C) Ẩm độ (%) Dao động M ± SEM 59 - 75 37,3 - 38,6 37,95a* ± 0,17 >72,5 - 80 36 - 37,2 36,70b ± 0,25 >80 - 90 35,4 - 35,9 35,64c ± 0,21 > 90 35,3 - 35,4 35,35c ± 0,25 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) 3.2.5.3. Quan hệ giữa THI với nhiệt độ da Tương quan giữa THI chuồng nuôi với nhiệt độ da ở cừu được thể hiện N h i ệ t đ ộ d a (0 C ) ở đồ thị 3.14. 39,5 39,0 38,5 38,0 37,5 37,0 36,5 36,0 35,5 35,0 34,5 y = 0,0309x2 - 1,2932x + 48,781 R2 = 0,8273 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 THI Đồ thị 3.14. Quan hệ bậc hai giữa THI với nhiệt độ da của cừu Phương trình tương quan giữa THI chuồng nuôi (x12) với nhiệt độ da (Y12, 0C) của cừu: 100 Y12 = 0,0309x2 - 1,2932x + 48,781 R2 = 0,82; P = 0,001 Sự thay đổi nhiệt độ da theo các mốc THI căn cứ thang đánh giá của Marai và CS. (2000) như sau (bảng 3.17). Kết quả ở bảng 3.17 cho thấy, nhiệt độ da ổn định trong khoảng THI <22,2 - 25,6 (P>0,05) và chỉ sai khác có ý nghĩa thống kê khi THI >25,6. Tuy nhiên, nhiệt độ da trong khoảng THI >25,6 - 28,5 thấp hơn ở THI >28,5 (P<0,05). Như vậy, để xác định ảnh hưởng của THI đến nhiệt độ da, có thể chia THI thành ba mức <25,6; 25,6 – 28,5 và >28,5 thay vì 4 mức như đã đề xuất với thân nhiệt. Bảng 3.17. Các mốc THI ảnh hưởng đến nhiệt độ da THI Nhiệt độ da (0C) Dao động M ± SE ≤ 22,2 35,3 - 35,4 35,35a* ± 0,07 >22,2 - 23,3 35,3 - 35,5 35,53a ± 0,10 >23,3 - 25,6 35,6 - 35,7 35,68a ± 0,09 >25,6 - 28,5 35,9 - 36,4 36,07b ± 0,81 >28,5 37,3 - 37,8 37,75c ± 0,09 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Như vậy, khi điều kiện nhiệt độ, ẩm độ và THI môi trường thay đổi đã làm biến đổi một số chỉ tiêu sinh lý của cừu như tần số hô hấp, nhịp tim, thân nhiệt và nhiệt độ da của cừu. Đây là những phản ứng đầu tiên của cừu cũng như các động vật đẳng nhiệt khác, nhằm duy trì nhiệt độ cơ thể ở mức ổn định, duy trì các hoạt động sinh lý bình thường của con vật. Sự thay đổi các chỉ tiêu sinh lý trong nghiên cứu này nằm trong khoảng bình thường. 101 3.2.6. Quan hệ giữa mùa với các chỉ tiêu sinh lý máu 3.2.6.1. Các chỉ tiêu sinh lý máu Các chỉ tiêu sinh lý máu của động vật là sự phản ánh trạng thái trao đổi chất, sự thích nghi, trạng thái sức khỏe, sức sản xuất của con vật trong những điều kiện cụ thể, nhất định. Để đánh giá chi tiết về khả năng thích ứng của cừu trong điều kiện môi trường ở Thừa Thiên Huế, các chỉ tiêu sinh lý máu của cừu đã được tiến hành phân tích trên 24 con cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế và 61 con cừu nuôi ở Ninh Thuận với với các nhóm tuổi: 1, 3, 6, 9, 12 và 15 tháng tuổi. Kết quả được tổng hợp xử lý thống kê và thể hiện ở bảng 3.18. Bảng 3.18. Các chỉ tiêu sinh lý máu của cừu Phan Rang Chỉ tiêu Thừa Thiên Huế Ninh Thuận n M ± SEM n M ± SEM Số lượng hồng cầu (triệu/mm3) 24 7,08 ± 011 61 7,52 ± 0,15 Hàm lượng hemoglobin (g%) 24 8,24 ± 0,15 61 8,93 ± 0,19 Chỉ số hematocrit (%) 24 40,30 ± 1,71 61 42,01 ± 2,24 Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3) 24 8,69 ± 0,23 61 8,85 ± 0,30 Kết quả bảng 3.18 cho thấy, tất cả các chỉ tiêu theo dõi (hồng cầu, bạch cầu, hemoglobin và hematocrit) không có sự sai khác giữa hai nhóm cừu nuôi ở Ninh Thuận và Thừa Thiên Huế (P>0,05). Ở nghiên cứu này, số lượng hồng cầu dao động 7,08-7,52 triệu/mm3. Kết quả nhiều nghiên cứu trong nước cho thấy, số lượng hồng cầu ở cừu dao động 9,49 - 10,23 triệu/mm3 (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Trần Quang Hân, 2007b) và cao hơn kết quả của nghiên cứu hiện tại. Sự sai khác này có thể do chế độ dinh dưỡng của cừu ở các phương thức nuôi khác nhau. Như đã trình 102 bày ở phần trước cừu trong nghiên cứu này thức ăn chủ yếu là cỏ tự nhiên và các thức ăn thô, các loại thức ăn tinh bổ sung rất hạn chế. Các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy số lượng hồng cầu của cừu phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng (Binev và CS., 2006; Olayemi và CS., 2000). Theo Binev và CS. (2006), hồng cầu của cừu Ile de France khi ăn ở khẩu phần hạn chế là 7,79 triệu/mm3, khi ăn khẩu phần có mức năng lượng và protein cao là 9,74 triệu/mm3. Hồng cầu cừu trong điều kiện nuôi thâm canh là 8,17 triệu/mm3 và nuôi quảng canh là 7,92 triệu/mm3 (Olayemi và CS., 2000); hồng cầu cừu Kajli là 7,20 - 10,60 triệu/mm3 (Saddiqi và CS., 2011), hồng cầu cừu Naimey là 7,9 – 8,4 triệu/mm3 (Al-Haidary, 2004). Jelineks và CS (1986) cho biết, hồng cầu của cừu dao động lớn (6,5-10,3 triệu/mm3 máu). Như vậy, số lượng hồng cầu trong máu của cừu nuôi trong điều kiện môi trường ở Thừa Thiên Huế là trong khoảng sinh lý bình thường. Hàm lượng hemoglobin của cừu trong nghiên cứu là 8,24 - 8,93g%. Theo kết quả nghiên cứu của Đinh Văn Bình và CS. (2007), hàm lượng hemoglobin của cừu Phan Rang nuôi tại Ba Vì là 7,3g%. Số liệu trước đây cũng cho thấy hàm lượng hemoglobin có sự dao động lớn 6,19 - 13,53g% (Saddiqi và CS., 2011; Srikandakumar và CS., 2003; Olayemi và CS., 2000). Hàm lượng hemoglobin của cừu Omani là 13,43 - 13,53g% và cừu Merino là 10,53-12,65g% (Srikandakumar và CS., 2003); cừu Santa Ines và Bergamasca (Brazin) là 9,12 - 9,16g% (McManus và CS., 2008); cừu Belice (Ý) là 8,98g% (Piccione và CS., 2008); cừu Naimey là 11,04 – 11,4 g% (Al-Haidary, 2004); cừu West Africa Dwarf trong điều kiện nuôi thâm canh là 7,38g% và nuôi quảng canh là 6,19g% (Olayemi và CS., 2000). Như vậy, kết quả đánh giá về hàm lượng hemoglobin ở trong nghiên cứu này là nằm trong trạng thái sinh lý bình thường. 103 Chỉ số hematocrit của cừu dao động trong khoảng 40,30 - 42,01%. Kết quả này cao hơn các công bố trước đó (McManus và CS., 2008; Piccione và CS., 2008; Trần Quang Hân, 2007b; Jelíneks và CS., 1986). Số liệu các nghiên cứu dao động là 24,14 – 34,8%. Trần Quang Hân (2007b) cho biết, chỉ số hematocrit của cừu nuôi ở Đăklăk là 34,54-34,8%. Tuy nhiên, kết quả này phù hợp với khuyến cáo của Ullrey và CS., (1965). Theo Ullrey và CS. (1965), chỉ số hematocrit của cừu có sự dao động lớn 27,2 - 41,9%. Số lượng bạch cầu dao động 8,69 - 8,85 nghìn/mm3. Kết quả này nằm trong giới hạn các nghiên cứu tương tự ở nước ta (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Trần Quang Hân, 2007b). Các tác giả cho biết, số lượng bạch cầu của cừu nuôi ở Ba Vì và Đăklăk dao động 8,01 - 9,5 nghìn/mm3. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu trên cừu Awali thấp hơn (4,1-6,2 nghìn/mm3) (Bchattacharya và Uwayjan, 1975) và trên cừu ở Brazin cao hơn (11,77-14,77 nghìn/mm3) (McManus và CS., 2008); cừu West Africa Dwarf là 15,35 - 15,54 nghìn/mm3 (Olayemi và CS., 2000). Sự sai khác này có thể do khác biệt về giống. Như vậy, các chỉ tiêu sinh lý máu (hồng cầu, hemoglobin, hematocrit và bạch cầu) của cừu nuôi trong điều kiện nhiệt độ, ẩm độ ở Thừa Thiên Huế mặc dù có sự dao động, nhưng vẫn nằm trong giới hạn sinh lý máu bình thường của giống cừu và không có sự sai khác với cừu nuôi ở Ninh Thuận. Kết quả này một lần nữa có thể kết luận, giống cừu Phan Rang có khả năng thích ứng được với điều kiện môi trường ở Thừa Thiên Huế. 3.2.6.2. Quan hệ của mùa với các chỉ tiêu sinh lý máu Sinh lý máu của cừu chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau trong đó có nhân tố mùa vụ do sự thay đổi về nhiệt độ và ẩm độ, vì vậy thí nghiệm đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của mùa đến sinh lý máu. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.19. 104 Bảng 3.19. Quan hệ giữa mùa với các chỉ tiêu sinh lý máu ở cừu Chỉ tiêu Mùa nóng Mùa lạnh n M ± SEM n M ± SEM Số lượng hồng cầu (triệu/mm3) 20 6,80 ± 0,18 20 6,89 ± 0,16 Hàm lượng hemoglobin (g%)* 20 6,94 ± 0,19 20 8,60 ± 0,16 Chỉ số hematocrit (%) 20 38,29 ± 2,46 20 39,82 ± 2,46 Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3) 20 8,06 ± 0,41 20 8,73 ± 0,35 *Sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) Kết quả ở bảng 3.19 cho thấy, số lượng hồng cầu, chỉ số hematocrit và số lượng bạch cầu không sai khác thống kê giữa hai mùa (P>0,05). Trong khi đó hàm lượng hemoglobin thì lại có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa mùa nóng và mùa lạnh (P<0,05). Hàm lượng hemoglobin ở mùa lạnh cao hơn mùa nóng (8,6 g% so với 6,94 g%). Sự sai khác có thể do nhiệt độ thấp và ẩm độ cao trong mùa lạnh làm quá trình trao đổi chất, đặc biệt trao đổi nhiệt được tăng cường nên tăng hàm lượng hemoglobin. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Fadare và CS., 2012; McManus và CS., 2008; Srikandakumar và CS., 2003; Bchattacharya và Uwayjan, 1975). Srikandakumar và CS. (2003) cho biết, hàm lượng hemoglobin của cừu Merino (Úc) ở mùa lạnh là 12,65 g% trong khi đó ở mùa nóng là 10,53 g%. Từ các phân tích trên cho thấy, cừu Phan Rang nuôi trong điều kiện Thừa Thiên Huế mặc dù có sự biến động các chỉ tiêu sinh lý máu nhưng vẫn ở trong trạng thái bình thường. Căn cứ vào chỉ tiêu sinh lý máu bước đầu có thể thấy cừu thích ứng với điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường sống mới ở Thừa Thiên Huế. 105 3.3. QUAN HỆ GIỮA NHIỆT ĐỘ VÀ THI VỚI LƯỢNG THỨC ĂN THU NHẬN Nghiên cứu xác định mối quan hệ giữa nhiệt độ và THI với lượng thức ăn thu nhận đã được tiến hành trên 12 con cừu Phan Rang với các độ tuổi 6, 9 và 12 tháng tuổi, từ tháng 4 đến tháng 8/2009 và từ tháng 11/2009 đến tháng 2/2010, kết quả được trình bày như sau: 3.3.1. Quan hệ giữa nhiệt độ với lượng thức ăn thu nhận Quan hệ giữa nhiệt độ chuồng nuôi với lượng thức ăn thu nhận của cừu được trình bày ở đồ thị 3.15. 2 55,00 y = -0,0874x + 3,0284x + 23,861 2 R = 0,8127 Lượng thức ăn thu nhận (gDM/kgLW/ngày) 50,00 45,00 40,00 35,00 30,00 25,00 20,00 15,00 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 Nhiệt độ (0C) Đồ thị 3.15. Quan hệ giữa nhiệt độ với lượng thức ăn thu nhận của cừu Trong khoảng nhiệt độ chuồng nuôi 17,5 đến 33,50C, tương quan giữa lượng thức ăn thu nhận và nhiệt độ chuồng nuôi như sau: Y13 = -0,0874x132 + 3,0284x13 + 23,861 R2 = 0,81; P = 0,001 106 Trong đó; Y13: lượng thức ăn thu nhận (gDM/kgLW/ngày); x13: nhiệt độ (0C). Qua theo dõi, tính toán lượng thức ăn thu nhận của cừu ở mức nhiệt độ thay đổi là 0,50C cho thấy; nhiệt độ trong khoảng ≤22,50C lượng thức ăn thu nhận của cừu trung bình là 49,3 gDM/kgLW/ngày (100%). Khi nhiệt độ tăng, lượng thức ăn thu nhận của cừu có xu hướng giảm, tuy nhiên không lớn. Nhiệt độ trong khoảng >22,5 - 29,50C, lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm khoảng 9,2 gDM/LW/ngày (giảm 18,7%, so với ở nhiệt độ ≤22,50C). Nhưng khi nhiệt độ tăng cao >29,50C lượng thức ăn thu nhận giảm của cừu giảm khoảng 11,6 gDM/LW/ngày (giảm 23,5%, so với nhiệt độ ≤22,50C) (P<0,05) (bảng 3.20). Ở mốc nhiệt độ >29,5 - 32,50C, cứ tăng 10C lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm 12,2 - 17,2 g/DM/LW/ngày (so với nhiệt độ ≤22,50C). Cụ thể nhiệt độ tăng từ 29,5 - 30,5; 30,5 - 31,5 và 31,5 - 32,50C lượng thức ăn thu nhận giảm lần lượt là 12,2; 14,7 và 17,2 gDM/LW/ngày. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của các tác giả trước đây (Ames và Brink, 1977; Keyserlingk và Mathison, 1993). Bảng 3.20. Các mốc nhiệt độ ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận Nhiệt độ (0C) Lượng thức ăn thu nhận (gDM/LW/ngày) Dao động M ± SEM ≤22,5 47,6 - 51,0 49,3a* ± 0,98 >22,5 - 26,3 42,7 - 47,4 45,2b ± 0,85 >26,3 - 29,5 36,8 - 42,9 40,1c ± 0,98 >29,5 26,4 - 36,1 37,7d ± 0,91 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Theo một số tác giả, khi cừu tiếp xúc với nhiệt độ môi trường cao, cừu phải tăng sự thải nhiệt ra ngoài để duy trì nhiệt độ cơ thể, dẫn đến tăng tần số 107 hô hấp, tăng lượng nước uống và đồng thời giảm lượng ăn vào (Alhidary và CS., 2012; Savage và CS., 2008; Marai và CS., 2007). Theo Published và CS. (2010), quan hệ giữa lượng ăn vào (FT) và nhiệt độ môi trường (T) theo phương trình hồi quy của Ames và Brink (1977) là: FT = 111,29 - 0,52T 0,007T2 và để tính toán sự thay đổi lượng ăn vào tác giả lấy nhiệt độ 17,50C là mốc nhiệt độ chuẩn, lượng ăn vào 100%. Tuy nhiên, cừu ít nhạy cảm với stress nhiệt hơn so với các gia súc khác trong cùng một điều kiện môi trường. Mặt khác, trong điều kiện thiếu nước hoặc khẩu phần thức ăn mất cân đối, thiếu dinh dưỡng có thể làm tăng stress nhiệt ở cừu (Marai và CS., 2007). Các nghiên cứu cho thấy, lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm đáng kể trong môi trường nhiệt độ cao (Alhidary và CS., 2012; Savage và CS., 2008; Marai và CS., 2007; Llamas-Lamas và Comb, 1990). Theo Alhidary và CS. (2012), cừu Merino (Úc) ở nhiệt độ 16 - 240C, lượng thức ăn thu nhận trung bình là 1.008 g/ngày (tương đương với 3,33% LW); nhưng ở nhiệt độ 28 380C lượng thức ăn thu nhận là 774 g/ngày (tương đương với 2,65% LW), giảm 22,1%. Kết quả nghiên cứu của Savage và CS. (2008), cho thấy cừu được nuôi trong phòng mát (200C) lượng vật chất khô thu nhận là 1578 g/con/ngày (tương đương 3% LW), cao hơn so với cừu ở phòng nóng (30 400C) lượng vật chất khô thu nhận là 1136 g/ngày (tương đương 2,4% LW). Theo Guerrini (1981), lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm 5 - 33% trong môi trường nóng - ẩm và 3 - 9% trong môi trường nóng - khô so với môi trường lạnh khô. Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự, lượng thức ăn thu nhận của cừu trong mùa thu cao hơn so với mùa hè (Goetsch và Johnson, 1999); môi trường lạnh cao hơn môi trường ấm (Li và CS., 2002); trong môi trường nóng - ẩm, nóng - khô lượng thức ăn thu nhận giảm so với môi trường lạnh - khô và lạnh - ẩm (Guerrini, 1981). Theo Pluske và CS. 108 (2010), nhiệt độ môi trường ở các tháng trong năm có ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận của cừu. Ở các tháng có nhiệt độ cao (30,8 - 320C) lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm đáng kể (Pluske và CS., 2010). Như vậy, kết quả của thí nghiệm này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trên. 3.3.2. Quan hệ giữa THI với lượng thức ăn thu nhận Quan hệ giữa THI chuồng nuôi với lượng thức ăn thu nhận của cừu được trình bày ở đồ thị 3.16. 55,00 2 y = -0,1461x + 5,594x - 4,1092 2 R = 0,8112 Lượng thức ăn thu nhận (gDM/kgLW/ngày) 50,00 45,00 40,00 35,00 30,00 25,00 20,00 15,00 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 THI Đồ thị 3.16. Quan hệ giữa THI với lượng thức ăn thu nhận của cừu Tương quan giữa THI với lượng thức ăn thu nhận của cừu được thể hiện qua phương trình sau: Y14 = -0,1461x142 + 5,594x14 - 4,1092 R2 = 0,81; P = 0,001 Trong đó: Y14: lượng thức ăn thu nhận (g DM/kgLW/ngày); x14: THI. 109 Qua tính toán giá trị THI ở mức 0,5 cho thấy, THI trong khoảng ≤22,2 lượng thức ăn thu nhận của cừu trung bình là 49,11 gDM/kgLW/ngày (100%). Khi THI >22,2 - 25,6 lượng thức ăn thu nhận của cừu không có sự sai khác (P>0,05). Khi THI >25,6 - 28,5 lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm, tuy nhiên không lớn, khoảng 8,02 gDM/LW/ngày (giảm 16,3%, so với THI≤22,2). Khi THI >28,5 - 31,5 lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm rõ rệt, trung bình giảm 16,84 gDM/LW/ngày giảm khoảng 34,3%, so với THI ≤22,2) (P<0,05) (bảng 3.21). Khi giá trị THI >28,5 - 31,5, cứ tăng lên 1 giá trị thì lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm 6,1 - 15,2 g/DM/LW/ngày (so với THI ≤22,2). Cụ thể, THI tăng từ 28,5 - 29,5; 29,5 - 30,5 và 30,5 - 31,5 lượng thức ăn thu nhận giảm lần lượt là 11,4; 17,6 và 19,6 gDM/LW/ngày. Bảng 3.21. Các mốc THI ảnh hưởng đến lượng thức ăn thu nhận THI Lượng ăn vào (gDM/LW/ngày) Dao động M ± SE ≤ 22,2 48,0 - 51,0 49,11a* ± 0,75 > 22,2 - 23,3 46,1 - 47,7 46,78ab ± 1,15 > 23,3 - 25,6 43,6 - 47,6 45,15b ± 0,81 >25,6 - 28,5 39,3 - 42,6 41,09c ± 0,81 > 28,5 26,4 - 36,0 32,27d ± 0,81 *Các số liệu cùng cột có chữ số mũ khác nhau có sai khác thống kê (P<0,05) Theo Alhidary và CS. (2012), ở điều kiện THI chuồng nuôi thấp (THI = 21,9) lượng thức ăn thu nhận của cừu là 1.029 g/ngày (tương đương 3,39% LW), khi THI tăng cao (THI = 33,8) lượng thức ăn thu nhận của cừu là 902 g/ngày (tương đương 3,11% LW), giảm 13,2%. Goetsch và Johnson (1999) nhận xét, THI trong mùa thu cao hơn so với mùa hè, do đó lượng thức ăn thu nhận của cừu cũng có sự sai khác giữa hai mùa. 110 3.4. KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA CỪU PHAN RANG NUÔI Ở THỪA THIÊN HUẾ 3.4.1. Một số chỉ tiêu sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt 3.4.1.1. Khả năng sinh trưởng Sự thay đổi về khối lượng Tiến hành theo dõi khả năng sinh trưởng của 20 con cừu Phan Rang với các độ tuổi khác nhau (3, 6, 9, 12, 15 tháng tuổi) nhập từ Ninh Thuận về nuôi ở Thừa Thiên Huế và 05 cừu con được cừu mẹ sinh ra ở đây. Đồng thời khảo sát trên đàn cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận gồm 207 con với các độ tuổi tương ứng. Kết quả được tổng hợp và thể hiện qua bảng 3.22. Bảng 3.22. Khối lượng (kg) của cừu Phan Rang qua các tháng tuổi Tháng tuổi Sơ sinh 3 6 9 12 15 Ba Vì* Tính biệt Thừa Thiên Huế n M ± SEM n M ± SEM M ± SEM Đực 3 2,1 ± 0,23 - - 2,59 ± 0,7 Cái 2 2,3 ± 0,10 - - 2,27 ± 0,6 Đực 2 11,5 ± 0,29 22 14,59 ± 0,3 12,48 ± 3,2 Cái 4 11,7 ± 0,56 35 10,94 ± 0,3 11,36 ± 2,4 Đực 6 16,9 ± 0,35 24 20,83 ± 0,4 17,47 ± 5,7 Cái 8 15,3 ± 0,47 24 17,92 ± 0,3 16,99 ± 3,7 Đực 8 19,5 ± 0,43 9 26,22 ± 0,4 24,19 ± 3,3 Cái 9 18,2 ± 0,31 34 22,82 ± 0,4 21,64 ± 1,2 Đực 10 22,3 ± 0,77 22 31,05 ± 0,4 29,09 ± 4,1 Cái 11 21,6 ± 0,65 16 27,63 ± 0,6 24,63 ± 1,7 Đực 10 26,1 ± 1,55 7 33,4 ± 0,5 33,3 ± 2,3 Cái 12 24,0 ± 1,00 14 29,21 ± 0,5 26,1 ± 3,3 * Ninh Thuận n: số lượng cừu; Nguồn Đinh Văn Bình và CS. (2007) 111 Kết quả bảng 3.22 cho thấy, khối lượng cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế thấp hơn ở Ninh Thuận trong suốt thời gian 3 đến 15 tháng tuổi. Từ 6 tháng tuổi trở đi, cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế đã có khối lượng thấp hơn rõ rệt so với nuôi ở Ninh Thuận. Ở 15 tháng tuổi, cừu ở Thừa Thiên Huế có khối lượng trung bình 25kg, trong khi ở Ninh Thuận là 31kg. Bên cạnh đó, khối lượng của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế cũng thấp so với cừu nuôi ở Ba Vì (Hà Nội). Sự sai khác có thể do nhiều yếu tố, trong đó có môi trường, việc cung cấp dinh dưỡng và nguồn thức ăn không phù hợp. Các nghiên cứu trước đây cho thấy, môi trường có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tiềm năng di truyền của cừu, là yếu tố có ảnh hưởng đến khối lượng sơ sinh và khả năng sinh trưởng của cừu (Akhtar và CS., 2001, 2012; Baneh và Hafezian, 2009; Lavvaf và CS., 2007; Behzadi và CS., 2007; Saghi và CS., 2007; Singh và CS., 2006; Srikandakumar và CS., 2003; Carrillo và Segura, 1993; William và CS., 1976). Theo Akhtar và CS. (2012), Lavvaf và CS. (2007), Singh và CS. (2006), cừu con sinh ra trong các năm sinh khác nhau, các mùa khác nhau có khối lượng và tốc độ sinh trưởng khác nhau. Các tác giả cho thấy, cừu lai Corrirdale và Merino sinh ra từ năm 1986 - 1996 (Ấn Độ) khối lượng sơ sinh có sự dao động lớn theo năm sinh (2,89 - 3,30kg), khối lượng 1 năm tuổi (13,65 - 24,20kg), tăng trọng (68,6 - 89,4 g/con/ngày) (Singh và CS., 2006); cừu Moghani (Iran) 1999 - 2004, khối lượng sơ sinh (4,17 - 4,74kg), khối lượng 6 tháng tuổi (31,62 - 37,38kg), tăng trọng (160 - 196 g/con/ngày) (Lavvaf và CS., 2007); cừu Kermani (Iran) 1993 - 1997, khối lượng sơ sinh (2,73 - 3,77kg), khối lượng 1 năm tuổi (19,38 - 31,49kg) (Behzadi và CS., 2007). Theo Singh và CS. (2006), cừu sinh ra trong mùa xuân lúc 1 năm tuổi là 16,94kg và trong mùa thu là 22,66kg. Theo Pluske và CS. (2010), nhiệt độ môi trường ở các tháng trong năm có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cừu. 112 Khối lượng và khả năng sinh trưởng của cừu phụ thuộc vào phương thức nuôi dưỡng, đặc biệt là chế độ dinh dưỡng (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Kusmartono, 2007; Nguyễn Ngọc Tấn và CS., 2006; Ngô Tiến Dũng và CS. 2004; Mejía và CS., 1997; Orden và CS., 2000). Theo Nguyễn Ngọc Tấn và CS. (2006), cừu Dopper nuôi quảng canh có khối lượng cơ thể thấp hơn so với nuôi thâm canh. Theo Mejía và CS. (1997), Kusmartono (2007), Orden và CS. (2000), sử dụng khẩu phần có tỷ lệ thức ăn thô xanh thấp, cân đối dinh dưỡng đã cải thiện khối lượng và tốc độ sinh trưởng của cừu con. Cừu cải thiện đáng kể về khối lượng, chất lượng thịt, khả năng sinh sản, sinh trưởng khi được bổ sung thức ăn trong quá trình nuôi dưỡng. Thông thường khối lượng sơ sinh con đực lớn hơn so với con cái (Akhtar và CS., 2012; Baneh và Hafezian, 2009; Behzadi và CS., 2007; Lavvaf và CS., 2007; Trần Quang Hân, 2007; Đinh Văn Bình và CS. 2007; Singh và CS., 2006; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006; William và CS., 1976). Tuy nhiên, số liệu trong nghiên cứu này cho thấy không có sự sai khác về khối lượng sơ sinh giữa con đực và cái có thể do số lượng cá thể quan sát trong thí nghiệm còn ít (5 con). Khối lượng sơ sinh của cừu Phan Rang sinh ra ở Ninh Thuận theo nghiên cứu của Đoàn Đức Vũ và CS. (2006) là 2,6 kg ở con đực và 2,4 kg ở con cái; theo Đinh Văn Bình và CS. (2007) là 2,59 kg và 2,27 kg, tương ứng; khi được đưa ra nuôi tại Ba Vì cũng cho kết quả tương tự. Tốc độ sinh trưởng Tốc độ sinh trưởng của cừu qua các giai đoạn được trình bày ở bảng 3.23. Bảng 3.23 cho thấy, cừu Phan Rang giai đoạn sơ sinh đến hết 3 tháng tuổi có tốc độ sinh trưởng cao nhất cả về sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối. Ở các giai đoạn tuổi lớn hơn tốc độ sinh trưởng giảm dần và có xu hướng ổn định trên 12 tháng tuổi. Kết quả này phù hợp với quy luật sinh 113 trưởng chung của cừu và các nghiên cứu của Đinh Văn Bình và CS. (2007), Trần Quang Hân (2007), Singh và CS. (2006), Đoàn Đức Vũ và CS. (2006). Bảng 3.23. Tốc độ sinh trưởng của cừu qua các giai đoạn Tính biệt 0-3 tháng 4-6 tháng 7-9 tháng 10 - 12 tháng Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày) Đực 104,4 60,0 28,9 31,1 Cái 104,4 40,0 32,2 37,8 Sinh trưởng tương đối (%) Đực 138,2 38,0 14,3 13,4 Cái 138,4 26,7 17,3 17,1 Chỉ tiêu Cừu Phan Rang giai đoạn sơ sinh đến hết 3 tháng tuổi (giai đoạn cừu con theo mẹ) có tốc độ sinh trưởng cao nhất; đây là giai đoạn cơ thể cừu có cường độ trao đổi chất mạnh nhất, đồng thời cừu được cung cấp dinh dưỡng có giá trị từ nguồn sữa mẹ. Giai đoạn từ 4 đến 6 tháng tuổi tốc độ sinh trưởng giảm dần; là giai đoạn khủng khoảng về dinh dưỡng vì lượng sữa cừu mẹ bị cạn dần, chuẩn bị cai sữa trong lúc đó cừu con chưa quen với việc lấy thức ăn, cừu mới tập ăn, thích ứng với điều kiện môi trường mới nên tốc độ sinh trưởng giảm so với giai đoạn trước đó (Baneh và Hafezian, 2009; Đinh Văn Bình và CS., 2007; Trần Quang Hân, 2007; Lavvaf và CS., 2007; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006). Theo Singh và CS. (2006), cừu lai Corriedale và cừu Merino (Nga) với cừu Nali cho thấy ở giai đoạn sơ sinh đến cai sữa tăng trọng cừu con là 82,6 g/con/ngày, giai đoạn sau cai sữa chỉ còn 27,6 g/con/ngày. Theo Lavvaf và CS. (2007), tăng trọng của cừu Moghani ở giai đoạn sơ sinh đến cai sữa (3 tháng tuổi) là 0,180 kg/ngày và giai đoạn từ cai sữa đến 6 tháng tuổi là 0,151 kg/ngày. Theo Baneh và Hafezian (2009), tăng trọng của cừu Ghezel ở giai đoạn sơ sinh đến cai sữa là 0,198 kg/ngày và giai đoạn từ cai sữa đến 6 tháng tuổi là 0,115 kg/ngày. Theo Saghi và CS. (2007), cừu Baluchi (Iran) ở giai đoạn sơ sinh đến cai sữa là 182,7 - 199,6 g/ngày. 114 Giai đoạn 7 - 9 tháng tuổi trở đi tốc độ sinh trưởng có chiều hướng giảm và ổn định trên 12 tháng tuổi. Đây là giai đoạn cừu bước sang thời kỳ trưởng thành, cừu thành thục về thể vóc (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Trần Quang Hân, 2007; Singh và CS., 2006; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006). Tăng trọng của cừu ở các giai đoạn tuổi phụ thuộc vào cừu con được sinh ra trong những năm sinh khác nhau, có điều kiện thời tiết khí hậu khác nhau; cừu đực tăng trọng nhanh hơn cừu cái; số lượng cừu con sinh ra/lứa; tuổi của cừu mẹ (Baneh và Hafezian, 2009; Lavvaf và CS., 2007; Saghi và CS., 2007). Kích thước các chiều đo của cừu Tầm vóc của cừu thường được đánh giá thông qua các chiều đo: cao vây, vòng ngực và dài thân chéo. Kết quả trung bình các chiều đo của cừu được trình bày ở bảng 3.24, 3.25 và 3.26. Bảng 3.24. Cao vây (cm) của cừu qua các tháng tuổi Tháng tuổi 3 6 9 12 Tính biệt Thừa Thiên Huế Ninh Thuận Ba Vì* n M ± SEM n M ± SEM M ± SEM Đực 2 49,0 ± 1,20 22 48,18 ± 0,98 53,6 ± 4,5 Cái 4 46,0 ± 1,30 35 45,27 ± 0,86 51,5 ± 3,8 Đực 6 56,8 ± 1,20 24 52,46 ± 0,82 55,3 ± 3,3 Cái 8 53,1 ± 1,10 24 53,08 ± 1,08 54,3 ± 2,6 Đực 8 61,3 ± 2,00 9 62,56 ± 1,38 57,5 ± 5,2 Cái 9 58,3 ± 0,71 34 62,62 ± 0,86 56,8 ± 5,0 Đực 10 66,5 ± 1,20 22 63,41 ± 1,59 61,1 ± 5,7 Cái 9 65,3 ± 1,80 34 63,65 ± 0,90 61,7 ± 4,6 n: số lượng cừu; *Số liệu tham khảo của Đinh Văn Bình và CS.(2007) 115 Kết quả bảng 3.24 cho thấy, cao vây của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế hầu như không có sự sai khác so với cừu nuôi ở Ninh Thuận giữa các độ tuổi, ngoại trừ cừu đực lúc 6 tháng tuổi và cừu cái lúc 9 tháng tuổi là có sự sai khác. Sự thay đổi về cao vây theo quy luật chung là tăng nhanh ở thời kỳ còn non, sau đó tăng chậm lại và ổn định ở tuổi trưởng thành. Từ 12 tháng tuổi trở lên cao vây của cừu hầu như không thay đổi đáng kể. Trong cùng một lứa tuổi, cao vây cừu đực lớn hơn cừu cái. Điều này cũng phù hợp với quy luật thay đổi về khối lượng của cừu. Cao vây của cừu ở trong thí nghiệm mặc dù ở giai đoạn còn non (dưới 3 tháng tuổi) thấp hơn cừu nuôi ở Ba Vì, tuy nhiên ở các giai đoạn tuổi cao hơn cao vây lớn hơn. Theo Đoàn Đức Vũ và CS. (2006), cao vây của cừu Phan Rang lúc trưởng thành là 72,5 cm (cừu đực) và 63,5 cm (cừu cái). Như vậy, cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế phát triển chiều cao vây là bình thường. Kết quả theo dõi vòng ngực của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế được trình bày ở bảng 3.25. Bảng 3.25. Vòng ngực (cm) của cừu qua các tháng tuổi Tháng tuổi 3 6 9 12 Thừa Thiên Huế n M ± SEM n M ± SEM M ± SEM Đực 2 56,5 ± 0,87 22 58,68 ± 0,69 59,9 ± 3,2 Cái 4 55,0 ± 1,30 35 54,49 ± 0,74 58,7 ± 2,6 Đực 6 63,6 ± 0,98 24 64,5 ± 0,52 62,5 ± 2,4 Cái 8 61,6 ± 0,48 24 61,79 ± 0,91 60,1 ± 2,7 Đực 8 67,8 ± 1,50 9 71,44 ± 1,70 68,7 ± 6,6 Cái 9 65,2 ± 1,50 34 70,0 ± 0,94 65,5 ± 4,7 Đực 10 72,0 ± 1,50 22 77,23 ± 1,28 79,2 ± 3,9 Cái 11 71,9 ± 1,60 16 70,0 ± 0,93 72,1 ± 4,2 * Ninh Thuận Ba Vì* Tính biệt n: số lượng cừu; Số liệu tham khảo của Đinh Văn Bình và CS.(2007) 116 Kết quả bảng 3.25 cho thấy, vòng ngực của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế không có sự sai khác với cừu nuôi ở Ninh Thuận giữa các độ tuổi, ngoại trừ cừu cái lúc 9 tháng tuổi là có sự sai khác. Sự thay đổi về vòng ngực cũng theo quy luật chung là tăng nhanh ở thời kỳ còn non, sau đó tăng chậm lại và ổn định ở tuổi trưởng thành. Trong cùng một lứa tuổi, vòng ngực cừu đực lớn hơn cừu cái. Điều này cũng phù hợp với quy luật thay đổi về khối lượng của cừu. Vòng ngực của cừu ở trong thí nghiệm cũng tương đương với cừu nuôi ở Ba Vì. Theo kết quả khảo sát của Đoàn Đức Vũ và CS. (2006), trung bình vòng ngực cừu Phan Rang ở cừu đực là 82,4 cm và cừu cái là 73,9 cm. Như vậy, phát triển vòng ngực của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế là bình thường. Kết quả theo dõi dài thân chéo của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế được trình bày ở bảng 3.26. Bảng 3.26. Dài thân chéo (cm) của cừu qua các tháng tuổi Tháng tuổi 3 6 9 12 Ninh Thuận Ba Vì* Tính biệt Thừa Thiên Huế n M ± SEM n M ± SEM M ± SEM Đực 2 49,5 ± 0,29 22 51,09 ± 1,35 57,2 ± 5,5 Cái 4 48,0 ± 0,37 35 48,29 ± 0,93 55,5 ± 4,8 Đực 6 54,8 ± 1,60 24 58,79 ± 0,91 59,7 ± 6,3 Cái 8 54,4 ± 1,00 24 55,17 ± 1,07 58,6 ± 5,4 Đực 8 63,8 ± 1,60 9 65,67 ± 1,19 62,4 ± 3,8 Cái 9 62,7 ± 0,80 34 63,65 ± 0,90 61,7 ± 4,6 Đực 10 67,8 ± 1,30 22 68,55 ± 1,28 65,8 ± 4,6 Cái 11 67,4 ± 0,94 16 66,44 ± 1,20 64,1 ± 5,3 n: số lượng cừu; *Số liệu tham khảo của Đinh Văn Bình và CS. (2007) 117 Kết quả bảng 3.26 cho thấy, dài thân chéo của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế không có sự sai khác so với cừu nuôi ở Ninh Thuận qua các độ tuổi, ngoại trừ cừu đực lúc 6 tháng tuổi là có sự sai khác so với cừu nuôi ở Ninh Thuận. Sự thay đổi về dài thân chéo cũng theo quy luật chung là tăng nhanh ở thời kỳ còn non, sau đó tăng chậm lại và ổn định ở tuổi trưởng thành. Trong cùng một lứa tuổi, dài thân chéo của cừu đực lớn hơn cừu cái (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006). Điều này cũng phù hợp với quy luật thay đổi về khối lượng của cừu. Như vậy, cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế phát triển dài thân chéo vây là bình thường. Như vậy, kích thước các chiều đo của cừu như cao vây, vòng ngực và dài thân chéo, không thấy có sự chênh lệch đáng kể giữa số đo của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế so với Ninh Thuận, cũng như số liệu đã công bố của Đinh Văn Bình và CS. (2007), trên đàn cừu Phan Rang nuôi ở Ba Vì. Như vậy, sự phát triển tầm vóc cao vây, vòng ngực và dài thân chéo của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế là bình thường. 3.4.1.2. Kết quả mổ khảo sát một số chỉ tiêu sản xuất thịt của cừu Năng suất thịt là tiêu chí quan trọng để đánh giá sức sản xuất của gia súc. Nhằm đánh giá khả năng sản xuất thịt của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế, thí nghiệm đã tiến hành mổ khảo sát thành phần thân thịt trên 6 con cừu Phan Rang (3 cái và 3 đực) ở 9 tháng tuổi, kết quả trung bình được trình bày ở bảng 3.27. Kết quả bảng 3.27 cho thấy, trong cùng một độ tuổi giết mổ nhưng tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ thịt tinh của cừu Phan Rang nuôi tại Thừa Thiên Huế thấp hơn so với cừu nuôi ở Ninh Thuận và Ba Vì (Đinh Văn Bình và CS., 2007). Tỷ lệ thịt xẻ của cừu ở thí nghiệm này trung bình 30,3% và thịt tinh 27,02% đều 118 thấp hơn so với ở Ninh Thuận (tương ứng 41,8 và 30,2%) và Ba Vì (tương ứng 43,6% và 32,05%). Sự sai khác này có thể do phương pháp giết mổ khác nhau, trong thí nghiệm này, khối lượng thịt xẻ không bao gồm da, điều này có thể là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thịt xẻ thấp. Ngoài ra, có thể do cừu chưa đạt được độ mập tương ứng do điều kiện nuôi dưỡng và môi trường, và có thể do số lượng giết mổ ít (6 con) cũng ảnh hưởng đến kết quả. Pouliot và CS. (2009) và Negussie và CS. (2004) có nhận xét rằng điều kiện môi trường có ảnh hưởng đến tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ thịt tinh của cừu. Bảng 3.27. Thành phần thân thịt của cừu Phan Rang Chỉ tiêu Đơn vị tính Thừa Thiên Huế Ninh Thuận* Ba Vì* Cừu đực Cừu cái con 3 3 4 6 tháng 9 9 9 9 Khối lượng sống kg 22,5 20 22,1 22,5 Thịt xẻ % 31,2 29,4 41,8 43,6 Thịt tinh % 26,6 27,8 30,2 32,05 Xương % 11,1 13,5 15,3 8,74 Máu % 2,8 2,2 4,1 3,1 Đầu % 8 9,7 6,88 7,07 Chân % 2,9 2,6 3,22 2,59 Da, lông, đuôi % 11,2 10,3 - - Phủ tạng % 11,4 10,7 - - Độ dày mỡ lưng cm2 0,6 0,6 - - Diện tích mắt thịt cm2 6,4 5,9 - - Số cừu giết mổ Tuổi * Nguồn: Đinh Văn Bình và CS.(2007) 119 3.4.2. Khả năng sinh sản của cừu cái Đàn cừu Phan Rang nhập về nuôi ở Thừa Thiên Huế chủ yếu là cừu tơ trong độ tuổi sinh trưởng và sinh sản. Kết quả theo dõi đặc điểm sinh lý sinh sản và khả năng sinh sản của 4 con cừu tơ và 1 con cừu mẹ đã sinh lứa đầu ở Ninh Thuận về nuôi tại Thừa Thiên Huế được trình bày ở bảng 3.28. Do số lượng cừu hạn chế nên kết quả nghiên cứu chỉ là bước đầu được công bố để tham khảo và cần phải lặp lại với số lượng lớn hơn. Bảng 3.28. Các chỉ tiêu sinh sản của cừu cái nuôi tại Thừa Thiên Huế Chỉ tiêu theo dõi Đơn vị Thừa Thiên Huế tính n M ± SE Ninh Thuận* Ba Vì* Tuổi động dục lần đầu Ngày 4 201,3 ± 2,84 185 181 Khối lượng động dục lần đầu Kg 4 19,5 ± 0,87 16 17,0 Tuổi phối giống lần đầu Ngày 4 349,5 ± 20,8 305 295 Khối lượng phối giống lần đầu Kg 4 21,9 ± 1,83 22,5 23,1 Tuổi đẻ lứa đầu Ngày 4 501,5 ± 21,5 465 455 Khối lượng đẻ lứa đầu Kg 4 26 ± 1,41 27 27,8 Thời gian mang thai (ngày) Ngày 5 152 ± 1,14 150 146 Số con đẻ ra/ lứa Con 5 1 ± 0,00 1,33 1,36 * Nguồn tham khảo của Đinh Văn Bình và CS. (2007) Số liệu bảng 3.28 cho thấy, tuổi động dục lần đầu, tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế muộn hơn so với nuôi ở Ninh Thuận và Ba Vì. Khối lượng động dục lần đầu của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế lớn hơn ở Ninh Thuận và Ba Vì. Tuy nhiên, khối lượng phối giống lần đầu và khối lượng khi đẻ lứa đầu lại có giá trị thấp hơn. 120 Tuổi động dục lần đầu của cừu Phan Rang là 201,3 ngày, muộn hơn so với cừu nuôi ở Ninh Thuận, cũng như nuôi ở Ba Vì. Theo Đinh Văn Bình và CS. (2007), tuổi động dục lần đầu của cừu Phan Rang là 181 ngày ở lứa thứ nhất nuôi ở Ba Vì. Theo Đoàn Đức Vũ và CS. (2006), tuổi động dục lần đầu của cừu Phan Rang khoảng 5 - 6 tháng. Điều này có thể là do một số tác động như thay đổi phương thức nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý cừu trong độ tuổi này. Tuy nhiên, theo các kết quả nghiên cứu trước đây cho biết tuổi động dục lần đầu của cừu cũng có sự biến động lớn. Theo Qureshi và CS. (2010), tuổi động dục lần đầu của cừu Kajli (Pakistan) là 629,2 ngày, tương ứng với khối lượng động dục lần đầu là 40,0 kg. Như vậy, tuổi động dục lần đầu của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế là nằm trong khoảng bình thường của loài cừu. Khối lượng động dục lần đầu của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế (19,5 kg) lớn hơn cừu nuôi ở Ninh Thuận và Ba Vì. Theo Đinh Văn Bình và CS. (2007), khối lượng động dục lần đầu của cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận là 16 kg và ở Ba Vì là 17 kg. Điều này có thể do tuổi động dục lần đầu muộn hơn nên dẫn đến khối lượng khi động dục lần đầu cao hơn. Tuổi phối giống lần đầu của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế là 349,5 ngày. Theo Đoàn Đức Vũ và CS. (2006), tuổi phối giống lần đầu của cừu Phan Rang là 9 - 10 tháng, thì cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế là chậm hơn. Tuổi đẻ lứa đầu của cừu Phan Rang ở Thừa Thiên Huế là 501,5 ngày. Theo Qureshi và CS. (2010), tuổi đẻ lứa đầu, khối lượng khi đẻ lứa đầu phụ thuộc vào cừu con được sinh ra trong những năm sinh khác nhau, mùa sinh sản, chuồng trại, chế độ dinh dưỡng, tuổi sinh sản, số con sinh ra/ lứa. Theo Đinh Văn Bình và CS. (2007), tuổi đẻ lứa đầu của cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận là 465 ngày, ở Ba Vì là 455 ngày. Theo Qureshi và CS. (2010), tuổi đẻ lứa đầu của cừu Kajli (Pakistan) là 806,0 ngày. 121 Thời gian mang thai của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế là 152 ngày, tương đương với cừu nuôi ở Ninh Thuận (150 ngày) và Ba Vì (146) (Đinh Văn Bình và CS., 2007). Theo Đoàn Đức Vũ và CS. (2004), cừu Phan Rang thời gian mang thai là 150 ngày. Điều này là phù hợp với nhận xét thời gian mang thai có tính di truyền cao và tương đối ổn định, không bị ảnh hưởng của môi trường và chế độ dinh dưỡng (Nguyễn Ngọc Tấn và CS., 2006). Cả 5 cừu mẹ đều sinh một con, khối lượng sơ sinh từ 1,85 - 2,42 kg/con, nằm trong khoảng giá trị bình thường của giống cừu Phan Rang khi nuôi ở Ninh Thuận cũng như khi đưa ra nuôi thích nghi ở các tỉnh phía Bắc (Đinh Văn Bình và CS., 2007). Theo Đoàn Đức Vũ và CS. (2006), cừu Phan Rang chủ yếu sinh một con, tỷ lệ sinh đôi và sinh ba chỉ chiếm 15 - 20 %. Như vậy, qua theo dõi khả năng sinh sản của 5 con cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế, các đặc điểm sinh lý sinh sản mặc dù có những biến động do tác động chủ quan nhưng cũng nằm trong giới hạn sinh sản bình thường. Tuy nhiên, như đã đề cập vì số lượng cá thể ít nên số liệu về sinh sản chỉ là kết quả ban đầu, cần tiếp tục theo dõi để có số liệu đầy đủ hơn. 3.5. ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA MỘT SỐ LOẠI THỨC ĂN THÔ XANH Đánh giá giá trị dinh dưỡng các loại thức ăn thô xanh nhằm tìm kiếm các loại thức ăn mới làm thức ăn cho cừu, góp phần đa dạng hóa các nguồn thức ăn tại chỗ để nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi cừu ở Thừa Thiên Huế, thí nghiệm đã được tiến hành trên 4 loại thức ăn sẵn có ở Thừa Thiên Huế, kết quả nghiên cứu như sau: 3.5.1. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn Kết quả phân tích thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn được trình bày ở bảng 3.29. 122 Bảng 3.29. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn (M ± SD*) Loại thức ăn Chỉ tiêu Cỏ tự nhiên Cỏ voi (VA-06) Lá mít Lá duối Vật chất khô (%) 20,5 ± 0,55 19,1 ± 0,90 32,5 ± 2,10 29,2 ± 3,07 Chất hữu cơ (% DM) 87,9 ± 0,62 85,5 ± 1,31 91,3 ± 1,19 84,7 ± 2,73 Protein thô (% DM) 10,4 ± 0,95 8,6 ± 0,61 13,5 ± 1,74 16,7 ± 2,32 NDF (% DM) 60,1 ± 2,34 61,8 ± 3,19 48,2 ± 2,90 39,4 ± 2,71 Năng lượng thô (kcal/kg DM) 3742±58,13 3609±24,58 Khoáng (% DM) 12,1 ± 0,62 14,5 ± 1,31 4069±128,64 3549±119,70 8,7 ± 1,19 15,3 ± 2,73 Qua bảng 3.29 cho thấy, thành phần hóa học và giá trị năng lượng của các loại thức ăn trong thí nghiệm là khá cao; hàm lượng vật chất khô 19,1 (cỏ voi) 32,5% (lá mít) và hàm lượng protein 8,6% (cỏ voi) - 16,7% (lá duối). Điều đáng chú ý, ngoài hai loại thức ăn quen thuộc là cỏ tự nhiên và cỏ voi thì lá mít và lá duối là nguồn thức ăn khá phổ biến ở đây và có thể cung cấp quanh năm. Hai loại thức ăn này có hàm lượng protein thô cao hơn so với hai loại cỏ. Kết quả phân tích của chúng tôi cũng tương đương với một số nghiên cứu của các tác giả đã công bố trước đây (Võ Thị Kim Thanh, 2008; Nguyễn Xuân Bả và CS., 2009; Đinh Văn Cải và CS., 2004; Vũ Chí Cương và CS., 2004). Cỏ tự nhiên có tính ngon miệng cao, là thức ăn truyền thống đối với cừu. Thành phần loài của cỏ tự nhiên có sự biến động trong năm, do vậy hàm lượng các chất dinh dưỡng cũng có sự dao động, nhất là hàm lượng xơ thô và hàm lượng protein. Kết quả này là phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Nguyễn Hữu Văn và CS., 2012; Nguyễn Thị Thanh, 2008; Vũ Chí Cương và CS., 2004). Các tác giả cho biết DM của cỏ tự nhiên là 21,8%; OM là 88,9%, CP là 12,3 - 14,7%, NDF là 58,4 - 59,2% và khoáng là 9,4 - 11,1%. 123 Cỏ voi là cây thức có năng suất chất xanh, thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng khá cao và có sự biến động trong điều kiện thâm canh ở Việt Nam (Nguyễn Xuân Bả và CS., 2010; Vũ Chí Cương và CS., 2010; Lê Đức Ngoan và CS., 2007). Theo kết quả của Nguyễn Xuân Bả và CS. (2010), Vũ Chí Cương và CS. (2010), thành phần hóa học của cỏ voi: DM là 11,85 - 14,9%; CP là 13,22 - 14,5%, NDF là 65,49 - 65,5%, và khoáng là 10,5 - 12,81%. Lá mít thành phần dinh dưỡng khá cao và có sự dao động lớn (Nguyễn Thị Thanh, 2008; Van và CS., 2005; Islam và CS. (1997). Theo Mui và Preston (2005), thành phần hóa học của lá mít: DM là 30,3 - 35,4%; CP là 13,3 - 17,9%; NDF là 40,7 - 62,6%; khoáng là 4,95 - 12,7%. Kết quả phân tích trong thí nghiệm (bảng 3.27) là hoàn toàn phù hợp với kết quả đó. Lá duối có thành phần hóa học và dinh dưỡng cao, đặc biệt là protein (16,7%), cao hơn so với cỏ tự nhiên (10,4%), cỏ voi (8,6%) và lá mít (13,5%). Tuy nhiên, ở Việt Nam thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của lá duối chưa được quan tâm nghiên cứu làm thức ăn cho gia súc, chỉ có một số nghiên cứu sử dụng cây duối trong việc điều chế thuốc nam chữa bệnh. Như vậy, lá mít và lá duối có thể là nguồn bổ sung protein cho cừu, góp phần giải quyết thiếu hụt thức ăn và giảm chi phí thức ăn. Tuy nhiên, cần thiết phải đánh giá giá trị dinh dưỡng của chúng. 3.5.2. Lượng thức ăn và chất dinh dưỡng thu nhận của cừu đối với các loại thức ăn Lượng thức ăn và chất dinh dưỡng thu nhận của gia súc là chỉ tiêu rất quan trọng nhằm đánh giá chất lượng thức ăn và liên quan chặt chẽ với sức sản xuất, hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Kết quả đánh giá lượng thức ăn và chất dinh dưỡng thu nhận của cừu được thể hiện ở bảng 3.30. 124 Bảng 3.30. Lượng thức ăn và chất dinh dưỡng thu nhận của cừu Loại thức ăn Chỉ tiêu Cỏ tự Cỏ voi nhiên (VA-06) Lá mít Lá duối SEM1 P (kg/con/ngày) 0,53a 0,54a 0,40b 0,40b 0,013 0,000 % LW 3,05ab 3,23a 2,46b 2,40b 0,161 0,007 Chất hữu cơ (kg/con/ngày) 0,47a 0,46a 0,37b 0,33c 0,009 0,000 Protein thô (kg/con/ngày) 0,056a 0,047b 0,055a 0,066c 0,002 0,004 0,32a 0,33a 0,19b 0,15c 0,005 0,000 Năng lượng (kcal/con/ngày) 2000a thô 1951a 1637b 1398c 34,23 0,000 Vật chất khô NDF a,b, c, Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái ở mũ khác nhau là sai khác (P<0,05) Bảng 3.30 cho thấy, các loại thức ăn khác nhau đã ảnh hưởng đến lượng thức ăn chất dinh dưỡng thu nhận của cừu (P<0,05). Lượng vật chất khô thu nhận của cừu dao động từ 0,4 đến 0,54 kg DM/con/ngày, tương đương 2,4 -3,23% khối lượng cơ thể. Lượng thức ăn và chất dinh dưỡng thu nhận của cừu có sự dao động đáng kể đối với các loại thức ăn và khẩu phần khác nhau (Vũ Chí Cương và CS., 2009; Nguyễn Hải Quân và Nguyễn Xuân Bả, 2008; Nguyễn Xuân Bả, 2007; Kusmartono, 2007; Ngô Tiến Dũng và CS., 2004; Orden và CS., 2000; Premaratne và CS., 1997; Mejía và CS., 1991; Timothy và CS., 1986). Các tác giả cho biết lượng thức ăn thu nhận của cừu dao động lớn từ 0,47 kgDM/con/ngày (rơm lúa) (Premaratne và CS., 1997) đến 1,57 kgDM/con/ngày (mít ủ + lá sắn) (Kusmartono, 2007). Nếu tính lượng thức ăn thu nhận của cừu so với khối lượng cơ thể cũng dao động nhiều, từ 1,9% (rơm lúa) (Nguyễn Hải Quân và Nguyễn Xuân Bả, 2008) đến 5% (lá cây dâu) (Nguyễn Xuân Bả, 2007). Tính theo khối lượng trao đổi, Vũ Chí Cương và CS. (2009) cho biết, lượng cỏ voi thức ăn thu nhận là 105,2 g/kgW0,75. 125 Có thể thấy, cả hai loại cỏ vẫn là thức ăn được cừu thu nhận nhiều hơn so với lá duối hay lá mít (P<0,05), trong khi đó lượng lá mít cũng như lá duối thức ăn thu nhận là tương đương nhau. Điều này có thể là do cỏ tự nhiên, cỏ voi là những thức ăn đã quen thuộc và có tính ngon miệng cao hơn. Mặt khác, trong thành phần hoá học của lá mít và lá duối có chứa chất tannin (3,32 10,6% ở lá mít) (Van và CS., 2005; Nguyen Thi Mui và Preston, 2005) có thể giảm tính ngon miệng với cừu. Tuy vậy, lượng protein thu nhận lại có xu hướng ngược lại. Protein thu nhận ở cừu ăn khẩu phần lá duối (66g/con/ngày) cao hơn ở các khẩu phần còn lại (P<0,05) và ở khẩu phần cỏ voi là thấp nhất (47 g/con/ngày). Nguyên nhân do sự khác nhau về hàm lượng protein trong từng loại thức ăn (bảng 3.29). 3.5.3. Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của cừu đối với các loại thức ăn Kết quả đánh giá tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của cừu được trình bày ở bảng 3.31. Bảng 3.31. Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng ở cừu (%) Loại thức ăn Cỏ voi Chỉ tiêu Cỏ tự nhiên (VA-06) Vật chất khô 74,6a Chất hữu cơ Lá mít Lá duối SEM1 P 76,6a 64,5ab 57,1b 3,63 0,03 77,0a 78,9a 66,8b 65,9b 2,79 0,03 Protein thô 76,7a 77,2a 49,6b 71,8a 2,47 0,00 NDF 74,7a 79,8a 52,5b 57,6b 3,93 0,01 Năng lượng thô 74,6a 77,4a 63,7b 60,2b 2,51 0,01 a,b, Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái ở mũ khác nhau là sai khác (P< 0,05) Qua bảng 3.31 cho thấy, tỷ lệ tiêu hóa thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn trên cừu là khá cao và có sự sai khác giữa các loại thức ăn (P<0,05). Tỷ lệ tiêu hóa vật chất khô dao động 57,1% (lá duối) - 76,6% (cỏ 126 voi); chất hữu cơ là 65,9% (lá duối) - 78,9% (cỏ voi); protein thô 49,6% (lá mít) - 77,2% (cỏ voi). Theo Bayble và CS. (2007), tỷ lệ tiêu hoá OM của cỏ nhiệt đới thường nhỏ hơn 70% và có thể đạt trên 70% đối với cỏ non. Tỷ lệ tiêu hóa vật chất khô ở lá duối và lá mít không sai khác (P>0,05) và thấp hơn cỏ voi và cỏ tự nhiên đáng kể (P<0,05). Tương tự, tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ ở cỏ voi cũng như cỏ tự nhiên cao hơn so với ở lá duối và lá mít (P<0,05), trong khi đó giữa cỏ voi và cỏ tự nhiên cũng như giữa lá duối và lá mít là tương đương nhau về tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ (P>0,05). Khác với quy luật trên, tỷ lệ tiêu hóa protein ở cỏ voi, cỏ tự nhiên và lá duối không sai khác thống kê (P>0,05) và cao hơn đáng kể so với lá mít (P<0,05). Điều này có thể là do có sự khác biệt về chất lượng protein trong các loại thức ăn. Tỷ lệ tiêu hóa NDF cũng như tỷ lệ tiêu hóa năng lượng có xu hướng giống nhau, ở cỏ voi cũng như cỏ tự nhiên cao hơn so với lá duối hay lá mít (P<0,05). Kết quả trong thí nghiệm này tương đương với một số kết quả nghiên cứu khác (Kusmartono, 2007; Vũ Chí Cương và CS., 2004; Orden và CS., 2000; Premaratne và CS., 1997; Timothy và CS., 1986). Theo Vũ Chí Cương và CS. (2010), tỷ lệ tiêu hóa tiêu hóa cỏ voi ở cừu là DM 63,3%, OM 64,6%, CP 74,3% và NDF 64,2%. Các nghiên cứu về tỷ lệ tiêu hóa của lá duối và lá mít trên dê cho thấy kết quả tương tự với nghiên cứu này. Insung và CS. (2012), Paengkoum (2011) cho biết, tỷ lệ tiêu hóa DM của lá duối: 66,9 - 68,4%, OM: 69,7-71,67%, CP: 59,8% và NDF: 54,5%; Nguyen Thi Mui và Preston (2005) cho biết tỷ lệ tiêu hóa DM của lá mít: 45%, CP: 50,5% và NDF là 43%. 3.5.4. Hàm lượng dinh dưỡng của các loại thức ăn tiêu hóa trên cừu Với mục tiêu nhằm đánh giá giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn khá phổ biến cho cừu ở Thừa Thiên Huế, thí nghiệm đã tính toán hàm lượng dinh dưỡng của các loại thức ăn tiêu hóa trên cừu, kết quả được trình bày ở bảng 3.32. 127 Bảng 3.32. Hàm lượng dinh dưỡng của các loại thức ăn tiêu hóa trên cừu Loại thức ăn Chỉ tiêu Cỏ tự nhiên Cỏ voi (VA-06) Lá mít Lá duối Vật chất khô (g/kg TA tươi) 152,90 146,38 209,72 166,67 Chất hữu cơ (g/kg vật chất khô TA) 676,89 674,94 609,68 558,59 Protein thô (g/kg vật chất khô TA) 79,72 66,40 66,67 119,83 NDF (g/kg vật chất khô TA) 448,86 492,86 253,13 226,99 Năng lượng thô tiêu hóa (kcal/kg vật chất khô) 2792,63 2793,53 2590,11 2138,12 a,b, Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái ở mũ khác nhau là sai khác (P< 0,05) Qua bảng 3.32 cho thấy, hàm lượng các chất dinh dưỡng tiêu hóa của các loại thức ăn trên cừu có sự sai khác giữa các loại thức ăn. Lượng vật chất khô tiêu hóa dao động 146,38- 209,72 g/kg; chất hữu cơ là 558,59 - 676,89 g/kg; protein thô 66,4 - 119,83 g/kg. So với cỏ tự nhiên và cỏ voi, lượng vật chất khô và protein thô tiêu hóa của lá mít và lá duối khá cao, cao hơn cỏ tự nhiên và cỏ voi, đặc biệt là lượng protein tiêu hóa ở lá duối (119,83 g/kg). Trong lúc đó lượng vật chất khô và protein thô ăn vào thấp (bảng 3.29), tỷ lệ tiêu hóa lượng vật chất khô và protein thô thấp (bảng 3.31). 3.5.5. Tích lũy nitơ (N) của cừu Kết quả đánh giá năng tích lũy nitơ của cừu được thể hiện ở bảng 3.33. Qua bảng 3.32 cho thấy, lượng N thu nhận ở cừu cho ăn lá duối cao hơn so với các loại thức ăn còn lại (P<0,05). Lượng N thu nhận thấp nhất ở cừu ăn cỏ voi (P<0,05), trong khi đó N thu nhận ở cừu cho ăn cỏ tự nhiên và lá mít là tương đương nhau (P>0,05). Các nguồn thức ăn thô cũng ảnh hưởng đến lượng N tích lũy ở cừu (P<0,05), lượng N tích lũy cao nhất là ở cừu cho ăn cỏ tự nhiên, tiếp theo là lá 128 duối, cỏ voi và thấp nhất là lá mít. Tỷ lệ tích lũy N (% so N thu nhận) thấp ở khẩu phần lá mít, trong khi đó BV không có sự sai khác thống kê giữa các khẩu phần (P>0,05). Giá trị BV của các loại thức ăn nằm trong khoảng 70,383,2. Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối của BV ở có tự nhiên và lá mít (83,2 và 80,1) cao hơn cỏ voi và lá duối (77,9 và 70,3). Bảng 3.33. Tích lũy nitơ ở cừu Loại thức ăn Chỉ tiêu Cỏ tự Cỏ voi Lá nhiên (VA-06) mít N thu nhận (g) 8,92a 7,47b 8,72a 10,50c 0,330 0,00 N thải qua phân (g) 2,08a 1,71a 4,39b 2,99c 0,245 0,00 N tiêu hóa ăn vào (g) 6,84ac 5,76a 4,33b 7,51c 0,330 0,00 N thải qua nước tiểu (g) 1,11a 1,26a 0,84a 2,18b 0,200 0,01 N tích lũy (g) 5,73ac 4,50abc 3,49b 5,33c 0,439 0,04 Tỷ lệ tích lũy N (% N thu nhận) 63,8a 60,1a 40,0b 51,1ab 3,675 0,02 BV (%) 83,2 77,9 80,1 70,3 3,159 0,11 a,b, c, Lá duối SEM1 P Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái ở mũ khác nhau là sai khác (P<0,05) Theo Kusmartono (2007) sử dụng khẩu phần phụ phẩm mít ủ, phụ phẩm mít ủ + lá anh đào, phụ phẩm mít ủ + lá sắn trên khẩu phần cơ sở là rơm lượng nitơ thu nhận, tỷ lệ nitơ tích lũy so với nitơ thu nhận ở cừu lần lượt là 25,43; 30,53; 37,66 g/ngày và 52,3; 59,1; 58,9%. Theo Paengkoum (2011), ở dê ăn lá duối lượng nitơ thu nhận là 0,52 DM kg/con/ngày, tỷ lệ tích lũy nitơ là 59,8% so với nitơ thu nhận. Kết quả phân tích các loại thức ăn trên cho thấy, ngoài cỏ tự nhiên và cỏ voi thì lá mít và lá dưới đều có hàm lượng protein cao (13,5 - 16,7% tương ứng), có thể được sử dụng như nguồn bổ sung protein cho cừu nuôi trong điều kiện nông hộ. 129 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 1. KẾT LUẬN Cừu Phan Rang đã tồn tại và thích nghi hơn một trăm năm nay ở Ninh Thuận, với đặc trưng bởi thời tiết khô - nóng, nhiệt độ trung bình cao và ẩm độ thấp. Cừu Phan Rang khi nuôi trong điều kiện ở Thừa Thiên Huế, thời tiết có đặc trưng chung là lạnh - ẩm; mùa đông lạnh - ẩm, mùa hè khô – nóng; nhiệt độ và THI thấp hơn Ninh Thuận, ngược lại ẩm độ cao hơn; bước đầu đã rút ra một số kết luận sau: 1. Các chỉ tiêu sinh lý (thân nhiệt, nhịp tim, nhiệt độ da, hồng cầu, hemoglobin, hematocrit và bạch cầu) của cừu nuôi ở Thừa Thiên Huế không có sự sai khác so với ở Ninh Thuận; trong khi tần số hô hấp cao hơn (14,54 lần/phút) song vẫn nằm trong khoảng sinh lý chung của cừu. Nhiệt độ, ẩm độ và THI có tương quan chặt chẽ với tần số hô hấp (R2: 0,73-0,82) và hàm lượng hemoglobin (P<0,05). Các chỉ tiêu sinh lý của cừu tăng lên đáng kể (P<0,05) ở các mốc nhiệt độ >29,50C, THI >28,5 và ẩm độ <75%. 2. Nhiệt độ và THI có tương quan chặt chẽ (P<0,05) với lượng thức ăn thu nhận của cừu. Nhiệt độ trong khoảng >29,5 - 32,50C, cứ tăng 10C lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm 14,7 gDM/LW/ngày. Khi giá trị THI >28,5, cứ tăng lên 1 giá trị thì lượng thức ăn thu nhận của cừu giảm 16,2 gDM/LW/ngày. 3. Phần lớn các chỉ tiêu sinh trưởng của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế là bình thường và tương tự cừu nuôi ở các vùng khác trong nước; ngoại trừ khối lượng và tỷ lệ thịt xẻ thấp hơn cừu nuôi ở Ninh Thuận. 4. Ngoài cỏ tự nhiên và cỏ voi, lá mít và cành lá duối có thể được sử dụng như nguồn thức ăn cho cừu trong chăn nuôi nông hộ. 130 Từ các kết luận trên bước đầu cho thấy, cừu Phan Rang có khả năng thích ứng với môi trường nhiệt độ và ẩm độ ở Thừa Thiên Huế. 2. ĐỀ NGHỊ 1. Tiếp tục các nghiên cứu về sinh sản của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế để có kết luận rõ hơn về khả năng thích nghi trong điều kiện môi trường ẩm độ cao. 2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến năng suất và phẩm chất thịt cừu trong điều kiện nóng ẩm nhằm hoàn thiện quy trình chăn nuôi cừu trong hệ thống sản xuất ở Thừa Thiên Huế. 131 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 1. Bùi Văn Lợi, Nguyễn Xuân Bả, Nguyễn Hữu Văn và Lê Đức Ngoan (2013). Xác định khả năng sinh trưởng và sinh sản của cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi. Số 82013, trang 65-74. 2. Bùi Văn Lợi, Nguyễn Xuân Bả, Nguyễn Hữu Văn, Đinh Văn Dũng và Lê Đức Ngoan (2012). Đánh giá giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn thô xanh cho cừu ở Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi. Số 10-2012, trang 63-68. 132 TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Xuân Bả, Nguyễn Tiến Vởn, Nguyễn Hữu Văn và Tạ Nhân Ái (2010). Khả năng sản xuất chất xanh một số giống cỏ ở các vùng của tỉnh Quảng Trị. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 22: 52-59. 2. Nguyễn Xuân Bả, Vũ Duy Giảng và Lê Đức Ngoan (2004a). Một số kết quả nghiên cứu sử dụng cây dâm bụt (Morus alba) làm thức ăn cho gia súc nhai lại. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 5: 643-646. 3. Nguyễn Xuân Bả, Lê Đức Ngoan và Vũ Chí Cương (2004b). Giá trị dinh dưỡng của lá dâm bụt ủ chua và ảnh hưởng của các mức bổ sung lá dâm bụt ủ đến lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa, tích lũy ni tơ ở cừu sinh trưởng. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 11: 1513-1515. 4. Nguyễn Xuân Bả và Lê Đức Ngoan (2002). Xác định giá trị dinh dưỡng của một số thức ăn không truyền thống cho trâu bò ở miền Trung, Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 12: 1089-1090. 5. Đinh Văn Bình, Nguyễn Thị Kim Lin, Hoàng Thế Nha, Nguyễn Đức Tưởng, Ngọc Thị Thiểm, Hoàn Minh Thành, Chu Đức Tuỵ, Nguyễn Thị Mai, Ngô Tiến Giang, Nguyễn Thị Bốn, Trần Như Giao, Nguyễn Văn Dinh (2007). Báo cáo nghiên cứu đánh giá khả năng sản xuất của giống cừu Phan Rang nhập từ Ninh Thuận sau 10 năm nuôi tại miền Bắc Việt Nam. Tuyển tập công trình Báo cáo Tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ của Trung tâm nghiên cứu dê, thỏ Sơn Tây, Hà Nội. 6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011). Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo nghiệm, kiểm định giống vật nuôi. Công báo số 581 + 582, Hà Nội. 133 7. Đinh Văn Cải, De Boever và Phùng Thị Lâm Dung (2004). Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn cho trâu bò khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Báo cáo khoa học Chăn nuôi thú y. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, trang: 137-147. 8. Cục chăn nuôi (2009). Phát triển gia súc lớn Việt Nam cơ hội và thách thức. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội, trang. 77 - 88. 9. Cục chăn nuôi (2007). Đề án phát triển chăn nuôi dê, cừu giai đoạn 20072010, 2015. Hà Nội, 6/2007. 10. Cục thống kê Thừa Thiên Huế (2012). Niên giám thống kê Thừa Thiên Huế năm 2011. Nhà xuất bản Công ty cổ phần in và sản xuất bao bì Huế. 11. Cục thống kê Ninh Thuận (2012). Niên giám thống kê Ninh Thuận năm 2011. 12. Vũ Chí Cương, Nguyễn Đức Chuyên, Đinh Văn Tuyền, Phạm Bảo Duy, Bùi Thị Thu Hiền, Nguyễn Viết Đôn, Nguyễn Văn Quân và Lê Thị Oanh (2010). Ảnh hưởng của giống, loài gia súc đến tỷ lệ tiêu hóa và giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn thô dùng cho gia súc nhai lại. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 24: 37-45. 13. Vũ Chí Cương, Nguyễn Thiện Trường Giang và Nguyễn Văn Quân (2009). Ảnh hưởng của tuổi tái sinh mùa đông đến năng suất, thành phần hóa học, tỷ lệ tiêu hóa và giá trị dinh dưỡng của cỏ voi (Pennisetum purpureum). Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 16: 27-34. 14. Vũ Chí Cương, Nguyễn Xuân Hòa, Phạm Hùng Cường, Paulo Salgado và Lưu Thị Thi (2004). Thành phần hóa học, tỷ lệ tiêu hóa và giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn chủ yếu dùng cho bò. Báo cáo khoa học Chăn nuôi thú y. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, trang: 35-54. 134 15. Ngô Tiến Dũng, Nguyễn Thị Mùi, Đinh Văn Bình, Ngọc Thị Thiểm (2004). Kết quả nghiên cứu thay thế cám hỗn hợp bằng ngọn lá sắn phơi khô trong khẩu phần cơ bản rơm ủ urê - rỉ mật và cỏ ghi nê đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cừu. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi, trang: 89-95. 16. Văn Tiến Dũng và Đinh Văn Tuyền (2010). Bước đầu theo dõi tập tính và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm (THI) với các chỉ tiêu sinh lý của bê lai Sind và F1 Red Angus nuôi bán chăn thả tại Đăk Lăk. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 23: 63-71. 17. Ngô Sỹ Giai và Trịnh Hoàng Dương (2009). Bước đầu sử dụng chỉ số nhiệt ẩm (THI) để đánh giá khả năng phát triển chăn nuôi gia súc và gia cầm ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 – Viện Khoa học khí tượng thủy văn và Môi trường, trang: 70 – 79. 18. Đặng Thái Hải và Nguyễn Thị Tú (2010). Ảnh hưởng của stress nhiệt đến đàn bò sữa Holstein Friesian (HF) và các con lai (HF x Lai Sind) nuôi tại xí nghiệp Dương Hà (Gia Lâm – Hà Nội) trong mùa hè và biện pháp khắc phục. Tạp chí Chăn nuôi, 4: 27-35. 19. Đặng Thái Hải và Nguyễn Thị Tú (2008). Ảnh hưởng của stress nhiệt đến một số chỉ tiêu sinh lý của đàn bò lai hướng sữa nuôi tại huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An trong mùa hè. Tạp chí Khoa học phát triển, 1(4): 26-32. 20. Trần Quang Hân (2007a). Năng suất, phẩm chất thịt và hiệu quả kinh tế của nuôi cừu Phan Rang tại Tây Nguyên. Tạp chí Chăn nuôi, 3: 16-20. 21. Trần Quang Hân (2007b). Nghiên cứu các chỉ tiêu sinh học và tinh hình nhiễm bệnh của cừu Phan Rang nuôi tại Tây Nguyên. Tạp chí Chăn nuôi, 4: 20-24. 135 22. Nguyễn Thạc Hòa, Nguyễn Ngọc Lương, Nguyễn Đình Đảng và Nguyễn Thị Cử (2009). Kết quả thử nghiệm hệ thống phun nước, quạt gió mới nhằm giảm stress nhiệt cho bò sữa tại công ty sữa và giống bò Phù Đổng - Hà Nội. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 16: 63 - 70. 23. Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Ngọc Tấn và Đinh Văn Cải (2006). Thí nghiệm trồng cỏ tại vùng khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Tạp chí Khoa học kỹ thuật chăn nuôi, 12: 23-26. 24. Đào Đức Kiên, Trịnh Vinh Hiển và Nguyễn Kỳ Sơn (2006). Nghiên cứu xác định công thức tảng khoáng liếm thích hợp trên cừu sinh sản. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi, Phần nghiên cứu về Giống vật nuôi, trang: 1-6. 25. Nguyễn Bá Mùi và Nguyễn Xuân Vỹ (2009). Tập tính của cừu Phan Rang nuôi tại Đăk Lăk. Tạp chí Khoa học và phát triển, 1(7): 25-31. 26. Nguyễn Thị Mùi, Nguyễn Đức Tưởng, Khúc Thị Huệ, Phạm Trọng Đại, Trần Văn Nghĩa, Đinh Văn Bình, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Thị Duyên (2006). Nghiên cứu tập tính sinh hoạt, ăn uống và nhai lại của dê Bách Thảo và cừu Phan Rang nuôi tại Ninh Thuận. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi. 27. Nguyễn Thị Mùi, Đỗ Thị Thanh Vân, Phạm Trọng Bảo và Đinh Văn Bình (2004). Nghiên cứu xác định tiêu chuẩn ăn tối ưu cho một số giống dê nhập nội giai đoạn sinh trưởng 3 đến 9 tháng tuổi. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi. Trang 106 - 115. 28. Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Xuân Bả và Bùi Văn Lợi (2011). Tình hình nhiễm ký sinh trùng trên đàn cừu nuôi tại Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thủy An và hiệu quả sử dụng thuốc tẩy trừ. Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 67: 69-77. 136 29. Lê Đức Ngoan, Nguyễn Xuân Bả và Nguyễn Hữu Văn (2007). Thức ăn cho gia súc nhai lại trong nông hộ miền Trung. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 30. Lê Văn Phước, Lê Đức Ngoan và Nguyễn Xuân Bả (2007a). Ảnh hưởng của chỉ số nhiệt ẩm (THI) đến một số chỉ tiêu sinh lý bò lai Sind ở Thừa Thiên Huế. Tạp chí khoa học Nông nghiệp, 5: 46-49. 31. Lê Văn Phước, Nguyễn Kim Đường và Lê Đức Ngoan (2007b). Ảnh hưởng của mùa vụ và mức năng lượng trong khẩu phần đến một số chỉ tiêu sản xuất của lợn lai F1 (Yorkshire x Móng Cái) và lợn Yorkshire nuôi thịt. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 4: 10-14. 32. Nguyễn Hải Quân và Nguyễn Xuân Bả (2008). Ảnh hưởng của mức bổ sung bả sắn ủ chua đến lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa và một số chỉ tiêu môi trường dạ cỏ của cừu được nuôi bằng rơm lúa. Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 46: 97-105. 33. Nguyễn Phú Son, Võ Thị Thanh Lộc, Võ Thanh Dũng, Nguyễn Thị Thu An, Phạm Hải Bửu, Nguyễn Thị Kim Thoa, Võ Thái Tuấn, Lê Bửu Minh Quân, Đoàn Hoài Nhân và Huỳnh Trường Huy (2012). Báo cáo phân tích chuỗi giá trị các sản phẩm bò, cừu và dê tỉnh Ninh Thuận. Trường Đại học Cần Thơ. 34. Nguyễn Ngọc Tấn, Đinh Văn Cải và Nguyễn Thị Thu Hồng (2006). Nghiên cứu cải thiện chế độ nuôi dưỡng cừu Phan Rang. Tạp chí Khoa học kỹ thuật chăn nuôi, 12: 20-22. 35. Võ Thị Kim Thanh (2008). Tiềm năng sử dụng của một số loại thức ăn địa phương cho trâu bò tại Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 46: 115-121. 137 36. Nguyễn Minh Thông, Tăng Trúc Quyên và Nguyễn Huy Tưởng (2008). Ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường nuôi, giống heo và phái đến các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu heo nuôi tại trại thực nghiệm Đại học Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ. 37. Đàm Văn Tiện (2006). Thời gian gặm cỏ và nhai lại của cừu nuôi trong điều kiện chăn thả hoàn toàn ở tỉnh Ninh Thuận. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 3: 97-98. 38. Vương Tuấn Thực, Vũ Chí Cương, Nguyễn Thạc Hòa và Nguyễn Thiện Tường Giang (2007). Ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ, chỉ số ẩm nhiệt THI (Temprerature humidity index) đến lượng nước uống, lượng thứ ăn ăn vào và năng suất, chất lượng sữa của bò lai F1, F2 nuôi tại Ba Vì trong mùa hè. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 4: 56-64. 39. Vương Tuấn Thực, Vũ Chí Cương, Nguyễn Thạc Hòa và Nguyễn Thiện Trường Giang (2006). Ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ, chỉ số nhiệt ẩm (THI - Temprerature humidity index) đến một số chỉ tiêu sinh lý của bò lai F1, F2 nuôi tại Ba Vì trong mùa hè. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 3: 46-54. 40. Tổng cục thống kê (2012). Niên giám thống kê năm 2011. 41. Nguyễn Trọng Trữ (1967). Nuôi Cừu. Nha Mục Súc xuất bản. 42. UBND tỉnh Ninh Thuận (2012). Báo cáo tình hình chăn nuôi cừu. 43. Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Thị Thơm và Nguyễn Tiến Vởn (2011). Nghiên cứu sử dụng thân chuối được bổ sung các thức ăn sẵn có và nguồn nitơ khác nhau để nuôi dê nhốt. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 15: 54-58. 138 44. Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Xuân Bả và Bùi Văn Lợi (2008). Đánh giá giá trị dinh dưỡng của bả sắn công nghiệp ủ chua với các phụ gia để làm thức ăn cho gia súc nhai lại. Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 46: 129-135. 45. Viện Chăn nuôi quốc gia (2005). Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc – gia cầm Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 46. Đoàn Đức Vũ, Vương Ngọc Long và Hồ Quế Anh (2006). Đặc điểm ngoại hình thể chất và khả năng sinh sản của giống cừu Phan Rang. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 10: 11-13. B. Tài liệu tiếng Anh 47. Acharya R. M. (2009). Small ruminant production in arid and semi-arid Asia. Http://www.fao.org/docrep/009/ah221e/AH221E14.htm. 48. Adams D. and McKinley M. (2009). The Sheep. ANZCCART C/o The University of Adelaide South Australia 5005, Fact Sheet A9. 49. Addass P., Aerez I. K. A., Midau A., Lawan A. U. and Tizhe M. A. (2010). Haemato - Biochemical findings of indigenous sheep breeds in Mubi Adamawa State, Nigeria. Global Vet, 4(2): 164 - 167. 50. Adogwa A., Mutani A., Ramnanan A. and Ezeokoli C. (2005). The effect of gastrointestinal parasitism on blood copper and hemoglobin levels in sheep. Can. Vet. J, 46(11): 1017–1021. 51. Afzal M. and Naqvi A. N. (2004). Livestock resources of Pakistan: present status and future trends. Quarterly science vision, 9(1-2) (Jul Dec, 2003) & 3-4 (Jan - Jun, 2004). 52. Akhtar M., Javed K., Abdullah M., Ahmad N. and Elzo M. A. (2012). Environmental factors affecting preweaning growth traits of Buchi sheep in Pakistan. J. Amin. Plant Sci. 22 (3): 529 - 536. 139 53. Akhtar P., Ahmand Z., Mohiuddin G., Ali S. and Javed K. (2001). Environmental factors affecting pre-weaning growth traits of Hissardale sheep in Pakistan. Pakistan Vet. J, 21(1): 17 - 21. 54. Akbar M. A. and Alam M. N. (1991). Effects of feeding mango (Mangifera indica) and shaora (Streblus asper) tree leaves to Black Bengal goats of Bangladesh. Small. Rumin. Res, 6(1): 25-30. 55. Alhidary I. A., Shini S., Al Jassim R. A. M. and Gaughan J. B. (2012). Physiological responses of Australian Merino wethers exposed to high heat load. J. Anim. Sci, 90: 212-220. 56. Al-Haidary A. A. (2004). Physiological responses of Naimey sheep to heat stress challenge under semi-arid environments. Int. J. Agri. Biol. 6(2): 307-309. 57. Aleksiev Y. (2008). Effect of shearing on some physiological responses in lactating sheep kept indoor. Bulg. J. Agric. Sci., 14: 417-423. 58. Ames D. R. and Brink D. R. (1977). Effect of temperature on lamb performance and protein efficiency ratio. J. Anim Sci., 44:136-144. 59. AOAC (1990). Official Methods of Analysis. 15th edn. Association of Official Analytical Chemists, Washington, DC., USA. 60. Avondo M. and Lutri L. (2004). Feed Intake. Dairy Sheep Nutrition. CABI Publishing: 65-78. 61. Balley C. B. (1964). Effect of enivironmeiital temperatune on feed digestion, water metaboltsm, body temperailiire, and certain blood characteristics of sheep. Can. J. Anim. Sci. 44: 68-75. 62. Ball-Gisch L. (2012). Heat Stress & Sheep. www.lavenderfleece.com 140 63. Baneh H. and Hafezian, S. H. (2009). Effects of environmental factors on growth traits in Ghezel sheep. African. J. Biotech, 8(12): 2903-2907. 64. Behzadi, M. R. B., Shahroudi, F. E. and Van Vleck L. D. (2007). Estimates of genetic paramenters for growth traits in Kermani sheep. J. Anim. Breed. Genet., 124(5): 296 - 301. 65. Berman A., Folman Y., Kaim M., Mamen M., Herz Z., Wolfenson D. (1985). Upper critical temperatures and forced ventilation effects for high-yielding dairy cows in a subtropical climate. J. Dairy Sci. 68:1488– 1495. 66. Bhatia S. and Arora R. (2005). Biodiversity and conservation of Indian Sheep denetic resources - An Overview. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 18(10): 1387-1402. 67. Bhatta R., Swain N., Verma D. L. and Singh N. P. (2005). Effect of housing on physiological responses and energy expenditure of Sheep in a Semi-arid region of India. Asian-Aust. J. Anim. Sci. 18 (8): 1188-1193. 68. Bhattacharya A. N. and Uwayjan M. (1975). Effect of high ambient temperature and low humidity on nutrient utilization and on some physiological responses in Awasi Sheep fed different levels of roughage. J. Anim. Sci, 40: 320-328. 69. Binh D. V., Ly L. V. and Mai N. T. (2008). Phan Rang sheep-typical development of indigenous breed in Viet Nam. Conference seedings. Impacto ft heg i-obalisation ont hea nimalg eneticr esources. 7th RBI Globacl onference on the Conservatioonf Anima Gleneti Rcesources. 70. Binh D. V. and Lin N. K. (2005). Research and the development of improved small ruminant production systems in Vietnam. In International 141 Workshop on Small Ruminant production and Development in South East Asia. Ha Noi, Vietnam, 2-4 Mach, pp. 5-17. 71. Binev R., Slavova P. and Laleva S. (2006). Effects of fasting on blood cells from lambs of various breeds. Trakia J. Sci, 4(3): 37-43. 72. Cardellino R. C. and Mueller J. P. (2011). Fibre production and sheep breeding in South America. Proc. Assoc. Advmt. Anim. Breed. Genet, 18: 366 - 373. 73. Carrillo L. and Segura J. C. (1993). Environmental and genetic effects on preweaning growth performance of hair sheep in Mexico. Tropical. Anim.al Health. Prod, 25(3): 173-178. 74. Devendra C. (2005). Small ruminant in Asia: Contribution to food security, poverty alleviation and opportunities for productivity enhancement. In International Workshop on Small Ruminant production and Development in South East Asia. Ha Noi, Vietnam 2-4 Mach, pp.1933. 75. Devendra C. (2001). Small ruminants: Imperatives for productivity enhancement improved livelihoods and rural growth - A Review. AsianAust. J. Anim. Sci,14(10): 1483 - 1496. 76. Devendra C. (2000). Crop-Animal production systems in tropical Regions - A Review. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 13(2): 265 - 276. 77. Dutt R. H. (1964). Detrimental effects of high ambient temperature on fertility and early embryo survival in sheep. I. J. of Biometeorology, 8(1): 47 - 56. 78. Fadare A. O., Peters S. O., Yakubu A., Sonibare A. O, Adeleke M. A., Ozoje M. O. and Imumorin I. G. (2012). Physiological and haematological indices suggest superior heat tolerance of white-coloured 142 West African Dwarf sheep in the hot humid tropics. Trop. Anim. Health. Prod. 45(1): 157-65. 79. FAO (2012). www.faostat.fao.org 80. Fazio M., Medica P., Mignacca S., Cravana C. and Ferlazzo A. (2011). Haematological and Cortisol Changes after a 3 h Road Journey in Sheep. J. Anim. Vet. Adv, 10(19): 2487 - 2492. 81. Finocchiaro R., Van Kaam J. B., Portolano B. and Misztal I (2005). Effect of heat stress on production in Mediterranean dairy sheep. J. Dairy Sci, 88(5): 1855-1864. 82. Fuquay, J.W. (1981). Heat stress as it affects animal production. J. Anim. Sci, 52: 164–174. 83. Geng Ailian, Zang Qiang, Chen Gang, Shi Zhengxiang, Li Baoming (2008). Behavioral response of pregnant ewes to high ambient temperature in loose housing system. Int J. Agric & Biol Eng, 1(1): 3136. 84. Goetsch A. L. and Johnson Z. B. (1999). Feed intake and digestion in the summer and fall by different breeds of ewes consuming forages differing in quality. Small. Rumin. Res, 31: 109 - 116. 85. Gül S. (2012). Effect of season on some reproductive behavioural characteristics of awassi sheep under sub-tropical mediterranean climatic conditions. J. Anim. Plant. Sci, 22(3): 831-834. 86. Guerrini V.H. (1981). Food intake of sheep exposed to hot-humid, hotdry, and cool-humid environments. Guerrini Am J. Vet Res. 42(4):65861. 143 87. Al-Haidary A. A., Aljumaah R. S., Alshaikh M. A., Abdoun K. A., Samara E. M., Okab A. B. and Alfuraiji M. M. (2012). Thermoregulatory and physiological responses of Najdi Sheep exposed to environmental heat load prevailing in Saudi Arabia. Pakistan. Vet. J, 32(4): 515-519. 88. Haddad S. G., Kridli R. T. and Al-Wadi D. M. (2005). Influence of varying levels of dietary undegraded protein intake on nutrient intake, body weight change and reproductive parameters in postpartum Awassi Ewes. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 18(5): 637-642. 89. Hahn G. L, John B. G., Terry L. M. and Roger A. E. (2009). Chapter 5: Thermal indices and their applications for livestock environments. In J. A. DeShazer, ed. Livestock energetics and thermal environmental management, 113 - 130. St. Joseph, Mich: ASABE. Copyright 2009 American Society of Agricultural and Biological Engineers. ASABE 801M0309. ISBN 1-892769-74-3. 90. Hamadeh S. K., Moussa Z., Abi Said M., Barbour E. (1997). Physiological indicators of adaptation in Awassi and Finn x Texel x Awassi sheep. In: Gabiña D. (ed.), Bodin L. (ed.). Data collection and definition of objectives in sheep and goat breeding programmes: New prospects. Zaragoza: CIHEAM, 1997. p. 231-236 (Options Méditerranéennes: Série A. Séminaires Méditerranéens; n. 33). 91. Hassan A., Shomo F. and Iniguez L. (2008). Small ruminant production: challenges and opportunities for poverty alleviation in West Asia and North Africa. ICARDA, Aleppo, Syria. iv + 23 pp. 92. Hassan F. K. Al-G. (2012). Effect of Environmental High Temperature on the Reproductive activity of Awassi Ram Lambs. The Iraqi J. Vet. Med, 36(2): 244 – 253 . 144 93. Herrig J. J., Simone. M. H. and Daniel J. A. (2006). Shearing lambs improves growth performance during periods with elevated thermal load. Sheep Res. Rep, 1: 1-7. 94. Hosri Ch. and Nehme M. (2009). Small ruminant production systems in north Lebanon: Technical and economic analysis. Options Méditerranéennes, Série A, No. 70. 95. Islam M., Chowdhury S. A. and Alam M. R. (1997). The effect of supplementation of jackfruit leaves (Artocarpus heterophyllus) and mashkalai (Vigna mungo) bran to common grass on the performance of goats. Asian – Aust. J. Anim. Sci, 10( 2): 206-209. 96. Insung O., Vearasilp T., Meulen U. and Chakeredza S. (2012). Influences of plant species and conservation methods on voluntary intake and digestibility of dry matter and organic matter of ruzi grass (Brachiaria ruziziensis) and streblus leaves (Streblus asper Lour) in goats under the humid Tropical climate in Southern part of Thailand. 97. Jelínek P, Frais Z, Helanová I. (1986). Dynamics of basichematologic values in ewes during the course of a year. Vet Med (Praha). 1985 Jun; 31(6):359-70. 98. Kamalzadeh A., Bruchem J. V., Koops W. J., Tamminga S. and Zwart D. (1997). Feed quality retriction and compensatory growth in growing sheep: feed intake, digestion, nitrogen banance and modelling changs in feed efficiency. Livest. Prod. Sci, 52: 209–217. 99. Katoh K., Buranakarl C., Matsunaga N., Lee S. R., Sugawara T. and Y. Sasaki (1989). Effects of heat exposure on water metabolism and passage in sheep. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 2(2): 91 - 97. 145 100. Keyserlingk G.E.M. V. and Mathison G. W. (1993). The effect of ruminal escape protein and ambient temperature on the efficiency of utilization of metabolizable energy by lambs. J. Anim. Sci, 71:2206-2217. 101. Koyuncu M. and Canbolat O. (2009). Effect of different dietary energy levels on the reproductive performance of Kivircik sheep under a semiintensive system in the South-Marmara region of Turkey. J. Anim. Feed. Sci, 18: 620–627. 102. Kusmartono (2007). Effects of supplementing Jackfruit (Artocarpus heterophyllus L) wastes with urea or Gliricidia/cassava leaves on growth, rumen digestion and feed degradability of sheep fed on rice straw basal diet. Livest. Res. Rural D, 19(2). http://lrrd.org/lrrd19/2/kusm19021.htm 103. Lavvaf A., Noshary A. and Keshtkaran A. (2007). Environmental and genetic effects on early growth traits in Moghani sheep breeds. Pakistan J. Biol. Sci, 10(15): 2595 - 2598. 104. Li F. Y., Vibart R., Dynes R. A., Vogeler I. and Brown M. (2012). Effects of weather variability on sheep and beef farming in nothern Southlland, New Zealand: A modelling analysis. Proceedings of the New Zealand Grassland Association 74: pp. 77 - 84. 105. Mai. N. T., Ly L. V., Binh D. V. and Tri T. K. (2005). Phanrang sheep is a potentially useful breed for Ninhthuan province. In International Workshop on Small Ruminant production and Development in South East Asia. Ha Noi, Vietnam 2-4 Mach. 106. Mahgoub O., Lu C. D. and Early R. J. (200). Effects of dietary energy density on feed intake, body weight gain and carcass chemical composition of Omani growing lambs. Small Rumin. Res, 37: 35 - 42. 146 107. Marai I. F. M., El-Darawany A. A., Abou-Fandoud E. I. and AbdelHafez M. A. M. (2009). Reproductive and physiological traits of Egyptian Suffolk rams as affected by selenium dietary supplementation during the sub-tropical environment of Egypt. Archiv Tierzucht, 52(4): 402-409. 108. Marai I. F. M., El-Darawanya A. A., Fadielb A. and Abdel-Hafezc M. A. M. (2007). Physiological traits as affected by heat stress in sheep—A review. Small Rumin. Res, 71: 1–12. 109. Marai I. F. M., Ayyat M. S. and Abd El-Monem U. M. (2001). Growth performance and reproductive traits at first parity of New Zealand white female rabbits as affected by heat stress its alleviation under egyptian conditions. Trop. Anim. Health. Prod, 33: 451 - 462. 110. Marai, I.F.M., Bahgat, L.B., Shalaby, T.H., Abdel-Hafez, M.A. (2000). Fattening performance, some behavioural traits and physiological reactions of male lambs fed concentrates mixture alone with or without natural clay, under hot summer of Egypt. Ann. Arid Zone 39: 449–460. 111. Maurya V. P., Naqvi S. M. K., Gulyani R., Joshi A. and Mittal J. P. (2005). Effect of thermal stress on sexual behaviour of superovulated bharat merino ewes. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 18(10): 1403-1406. 112. McManus C., Paludo G. R., Louvandini H., Gugel R. and Sasaki L. C. B. (2008). Heat tolerance in Brazilian sheep: Physiological and blood parameters. Trop. Anim. Health. Prod, 41: 95-101. 113. Mejía C. E., Rosales M., Vargas J. E. and Murgueitio E. (1991). Intensive production from African hair sheep fed sugar cane tops, multinutritional blocks and tree foliage. Livest. Res. Rural. Devel, 3(1), http://www.lrrd.org/lrrd3/1/mejia.htm. 147 114. Mulugeta F. and Genrehiwot T. (2013). Effect of sesame cake supplementation on feed intake, body weight gain, feed conversion efficiency and carcass parameters in the ration of sheep fed on wheat bran and teff (Eragrostis teff) straw. Momona Ethiopian J. Sci, (1): 89-106. 115. Mui N. T. and Preston T. R. (2005). Feeding systems for goats in the tropics. In International Workshop on Small Ruminant production and Development in South East Asia. Ha Noi, Vietnam 2-4 Mach, pp. 53- 63. 116. Negussie E., Rottmann O. J., Pirchner F. and Rege J. E. O. (2004). Growth and carcass composition of tropical fat-tailed Menz and Horro sheep breeds. J. Anim. Sci, 78: 245 - 252. 117. Ngategize P. K. (1989). Constraint identification and analysis in African small ruminant systems - Identification et analyse des contraintes dans les systmes de production des petits ruminants en Afrique. Intnational Livestock Centre for Africa, pp. 7-22. 118. Olayemi F. O., Farotimi J. O and Fagbohun O. A. (2000). Haematology of the west african dwarf sheep under two different management systems in Nigeria. Afr. J. Biomed. Res, 3: 197-198. 119. Otchere E. O. (2009). Small ruminant production in tropical Africa. Http://www.fao.org/docrep/009/ah221e/ah221e18.htm. 120. Orden E. A., Abulrazak S. A., Cruz E. M., Orden M. E. M., Inchinohe T. and Fujihara T. (2000). Leucaena leucocephala and Gliricidia sepium Supplementation in sheep fed with ammonia treated rice straw: effects on intake, digestibility, microbial protein yield and live - weight changes. Asian - Aus. J. Anim. Sci, 13(12): 1659-1666. 148 121. Ozung P. O., Nsa E. E., Ebegbulem, V. N. and Ubua, J. A. (2011). The potentials of small ruminant production in cross river rain forest zone of nigeria: A review. Continental J. Anim. Vet. Res, 3(1): 33-37. 122. Paim T. P., Borges B. O., Lima P. M. T., Dallago B. S. L., Louvandini H. and McManus C. (2012). Relation between thermographic temperatures of lambs and thermal comfort indices. Int. J. Appl. Anim. Sci, 1(4):108-115. 123. Paengkoum P. (2011). Effects of Streblus asper Lour foliage on digestibility, rumen fermentation, and nitrogen balance of growing goats. Trop. Anim. Health. Prod, 43: 491-494. 124. Paladines O. L., Reid J. T., Van Niekerk B. D. H. and Bensadoun A. (2008). Energy utilization by sheep as influenced by the physical form, composition and level of intake of diet. J. Nutri,83: 49-59. 125. Piccione G., Lutri L., Casella S., Ferrantelli V. and Pennisi P. (2008). Effect of shearing and environmental conditions on physiological mechanisms in ewes. J. Envir. Biol, 29(6): 877-880. 126. Pluske J. M., Slade A. M. and Vercoe P. E. (2010). Weather and Wethers: effects of wind, temperature and rain on sheep feedlot production. Aust. Agribusi. Rev, 18: 193-214. 127. Pouliot E., Gariepy C., Theriault M., Avezard C., Fortin J. and Castonguay F. W. (2009). Growth performance, carcass traits and meat quality of heavy lambs reared in a warm or cold environment during winter. J. Anim. Sci. 89: 229-239. 128. Premaratne S., Bruchem J. V. and Perera H. G. D. (1997). Effect of type and level of foliage supplementation on voluntary intake and 149 digestibility of rice straw in sheep. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 10(2): 223228. 129. Qureshi M. A., Babar M. E. and Ali A. (2010). Performance of Kajli Sheep in Pakistan: Reproduction as Influenced by Environment. Pakistan J. Zool, 42(4): 413-417. 130. Radin L., Šimpraga M., Vojta, A. and Marinculić A. (2008). Indigenous sheep breeds in organic livestock production in karst areas of Croatia. 16th IFOAM Organic World Congress, Modena, Italy, June 1620. Archived at http://orgprints.org/11569. 131. Raiq M. (1995). Status and scope of small ruminants production in dry areas of Pakistan - A Review. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 8(3): 205-212. 132. Rastogi S., Dinesh K. K. and Rawat A. K. S. (2006). Streblus asper Lour. (Shakhotaka): A Review of its chemical, pharmacological and ethnomedicinal properties. Evid Based Com. Alte. Med, 3(2): 217-222. 133. Reefmann N., Kaszàs F. B., Wechsler B. and Gygax, L. (2009). Physiological expression of emotional reactions in sheep. Physi. Behav, 98: 235-241. 134. Rosa H. J. D. and Bryant M. J. (2003). Seasonality of reproduction in sheep. Small Rumin. Res, 48: 155-171. 135. Savage D., Nolan J., Godwin I., Aoetpah A., Nguyen T., Baillie N. and Lawler C. (2008). Importance of drinking water temperature for managing heat stress in sheep. J. Exp. Agr, 48: 1044-1047. 136. Saab S. A., Fawwak T. S., Kallassy N., Walid Y. D.arweesh and Pauline Y. A. (2011). Effect of adaptation and heat stress on reproductive performances of fat- tail awassi rams in eastern mediterranean. Lebanese Sci. J, 12(1): 31-44. 150 137. Saddiqi H. A., Nisa M., Mukhtar N., Shahzad M. A., Jabbar A. and Sarwar M. (2011). Documentation of physiological parameters and blood profile in newly born Kajli Lambs. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 24(7): 912918. 138. Saghi D. A., Khadivi H., Navidzadeh M. and Nikbakhti M. (2007). Study on influence of environmental effect on birth weight, weaning weight and daily growth of Baluchi Sheep. Pakistan J. Nutri, 6(5): 436437. 139. Sarwar M., Shahzad M. A. and Nisa M. (2010). Small ruminant production in Pakistan. Eg. J. of Sh. G. Sci, 5(1): 17-26. 140. Sayed A. B. N. (2009). Effect of different dietary energy levels on the performance and nutrient digestibility of Lambs. Vet. World, 2(11): 418420. 141. Schlink A.C., Nguyen M. L., and Viljoen G.J. (2010). Water requirements for livestock production: a global perspective. Rev. sci. tech. Off. int. Epiz, 29 (3): 603-619. 142. Silanikove N. (2000). Effects of heat stress on the welfare of extensively managed domestic ruminants. Livest. Prod. Sci, 67: 1-18. 143. Singh, M., Rai, A.K., More, T., Dhaliwal, J.S. (1980). Note on comparative physiological response of sheep and goats to high ambient temperature. Ind. J. Anim. Sci. 50 (2), 202-205. 144. Singh D., Kumar R., Pander B. L., Dhaka S. S. and Singh S. (2006). Genetic parameters of growth traits in crossbred Sheep. Asian-Aust. J. Anim. Sci, 19(10): 1390-1393. 145. Soliman E. B., Abd El-Moty A. K. I. and Kassab A. Y. (2012). Combined effect of vitamin E and selenium on some productive and 151 physiological characteristics of ewes and their lambs during suckling period. Egyptian J. Sheep. Goat. Sci, 7(2): 31-42. 146. Srikandakumar A., Johnson E. H. and Mahgoub O. (2003). Effect of temperature stress on respiration rates, rectal temperature and blood chemistry Omani and Australian Merino sheep. Small. Rumin. Res, 49: 193-198. 147. Tien D. V. and Beynen A. C. (2005). Growth performance of Lambs in Phangrang, Vietnam: Effects of a dietary supplement containing pricklypear cactus. Trop. Anim. Health. Prod, 37(3): 237-44. 148. Timothy C. Q. and and Burk A. D. (1986). A comparative study of feeding behavior and digestive function in dairy goats, wool and hair sheep. J. Anim. Sci, 63: 1516-1526. 149. Thom, E. C. (1959). The discomfort index.Weatherwise 12: 57. 150. Thwaites C. J. (1967). Prolonged heat stress and wool growth in sheep. Int. J. Biometeor, 11(3): 297-300. 151. Ullrey D. E., Miller E. R., Long C. H. and Vincent B. H. (1965). Sheep hematology from birth to maturity I. Erythrocyte population, size and hemoglobin concentration. J. Anim. Sci, 24: 135-140. 152. Valderrábano J., Delfa R. and Uriarte J. (2002). Effect of level of feed intake on the development of gastrointestinal parasitism in growing lambs. Vet. Parasit. 104: 327-338. 153. Van, D. T. T., Mui N. T. and Ledin I. (2005). Effect of group size on feed intake, aggressive behaviour and growth rate in goat kids and lambs. In International Workshop on Small Ruminant production and Development in South East Asia. Ha Noi, Vietnam, 2-4 Mach. pp. 45-52. 152 154. Van Soest, P.J., J. B. Robertson and B. A. Lewis (1991). Methods for dietary fibre, neutral detergent fibre and non-starch polysaccharide in relation to animal nutrition. J. Dairy Sci. 74, 3583-3597. 155. Waldron S. A., Brown C. G., Longworth J. W. and Zhang C. G. (2007). China's livestock revolution: Agribusiness and policy developments in the Sheep meat Industry. CAB International, Wallingford. 156. William D. H., Kennick W. H. and Bogart R. (1976). Genetic, Environmental and interaction effects in Sheep II. Lamb growth and carcass merit. J. Anim. Sci, 42: 307-316. 157. Wright P. L., Pope A. L. and Phillips P. H. (1962). Effect of Protein and Energy Intake on Lamb Production and Certain Blood Constituents of Ewes. J. Anim. Sci, 21: 602-610. 158. Ma Y. H., Rao S. Q., Lu S. J., Hou G. Y., Guan W. J., Li H. B., Li X., Zhao Q. J., Guo J. (2006). Phy logeography and origin of sheep breeds in Northern China. Conser. Genet, 7(1): 117-127. 153 PHẦN PHỤ LỤC 154 MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Hình 1. Xác định các chỉ tiêu sinh lý của cừu 155 Hình 2. Xác định các chỉ tiêu sinh trưởng và sinh sản 156 Hình 3. Thí nghiệm tiêu hóa thức ăn