5. Kỷ yếu - Khoa Xã Hội Học
Transcription
5. Kỷ yếu - Khoa Xã Hội Học
International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 A preliminary analysis on the Female Migrant Workers’ Working conditions in China Dr. Zhao Wei School of Philosophy and Sociology, Beijing Normal University Tóm tắt Không như các quốc gia khác, ở Trung Quốc, ý nghĩa của lao động di cư muốn hàm chỉ đến di dân nông thôn ra thành thị. Theo các số liệu thống kê, di dân ở Trung Quốc đã đạt đến con số 260 triệu người, trong đó lao động nữ chiếm 33,6%. Đa số lao động nữ làm việc trong các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ. Lực lượng lao động di cư ở Trung Quốc ngày càng thu hút sự quan tâm bởi các tiềm năng kinh tế cũng như các tác động xã hội của nó đến xã hội Trung Quốc. Trong hai thập kỉ qua, đã có nhiều nghiên cứu về khuynh hướng nhân khẩu học cũng như các tác động kinh tế của hiện tượng di dân nông thôn-thành thị. Một số bài viết phản ánh về điều kiện làm việc, bảo vệ quyền lợi, sự đồng cảm của xã hội cũng như ý thức giai tầng của người dân di cư. Có khá ít bài viết phản ánh theo các góc nhìn của các nhóm xã hội, ví dụ như dưới góc độ giới. Dựa trên mẫu khảo sát nhỏ ở hai thành phố của Trung Quốc, nghiên cứu này cố gắng phác họa thêm một số mô tả về điều kiện làm việc của nữ lao động di cư ở lĩnh vực sản xuất, đồng thời cũng thảo luận thêm về những khó khăn trong điều kiện làm việc của lao động nữ di cư, như thu nhập thấp, thời gian làm việc kéo dài, ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã hội. Có thể thấy rằng mặc dù nền kinh tế phát triển nhanh, hàng loạt các chính sách, luật về lao động được ban hành nhưng điều kiện làm việc của người lao động vẫn không được cải thiện đáng kể. Thêm vào đó, với sự thay đổi của quy trình sản xuất cũng như tính phức tạp trong quan hệ lao động, lao động nữ di cư phải đối mặt với nhiều thách thức mới trong việc bảo vệ quyền lợi của họ. Tệ hơn nữa, tổ chức công đoàn đã không đóng vai trò tích cực trong việc cải thiện điều kiện lao động cho lao động nữ di cư. Trong bài viết này cũng sẽ đề cập đến vai trò của các tổ chức phi chính phủ về lao động trong việc tổ chức và thúc đẩy tăng nhận thức của lao động nữ di cư. 1 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 1. Introduction In the context of globalization, the topic of migrant workers, including the female migrant workers draw more and more attention by scholars and social policy makers. Distinguished from other countries, in China larger number of migrant workers flow inside the country and they are called “peasant workers” (nong min gong). This term refers to those who have rural household registration (hu hou), contracted land in rural areas, but work in non-agricultural industries in urban areas and make their living on wages. In English version, “nong min gong” is translated into migrant workers. China’s opening up and entering the global economy has created millions of migrant workers. According to the government’s data, the total number of national migrant workers reaches 262.6 million in 2012. From the perspective of gender, male migrant workers make up 66.4 percent and female migrant workers make up 33.6 per cent. The major group of migrant workers is young adults (National Bureau of Statistics, 2013). The data of 2011 shows that the number of the new generation migrant workers (referring to the migrant workers born after 1980) reaches 85 million including 40.8 per cent of female migrant workers. The proportion of female migrant workers is nearly 50 per cent between the age of 16 and 20, while the proportion of female migrant workers of the old generation (referring to the migrant workers born before 1980) is just 26.9 per cent (Household Surveys Office of National Bureau of Statistics, 2011). Due to the large number of migrant workers and typical characteristic of mobility, the characteristics of the migrant workers have defined China’s development strategy, labour market and industrial relations, the Chinese migrant workers inside China is included into the research field of migrant workers. The research of female migrant workers has been received attention since the early 1990s as this issue involves research fields such as gender, family, labour and mobility. In the existed research in China, gender differences and gender inequality in the process of rural-to-urban migration are analyzed basically from the view of the different social structure. Age, education and marriage structure are the common variable. Different sources of quantitative analysis indicate that , in the contemporary China, the male make up much higher proportion in rural-to-urban migration in the early stage of the reform and opening up. With the development of the urbanization and the changing of the structure of the industry, the number and proportion of the female’s migration rises quickly. According to the data of nationwide census in 2000, the male make up 50.4% of floating population and the female make up 49.6% (Cai Fang, 2003). While the proportion of the male’s initiative of mobility is higher. 2 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The female rural floating population has fewer chances than the male in upward mobility and the increasing range of career levels is smaller than the male (Cai Yuping, 2011). Within the enterprise, facing the continuous improving of production process and the increasing of the labor shortage, the employers and management have to retain workers in different methods. It appears to be more and more prevalent that workers are classified and arranged into different positions and given different treatment. There will be increasing opportunities for capitalists to differentiate workers by gender difference. Therefore, the gender inequality in work and family of the migrant workers will be more obvious (Cai Yuping, 2011). During the process of production, as the organization structure of factories has been male-centered, the management makes use of traditional gender norms, embeds them into management means and cause gender differences (Lee, 1998). After analyzing the statistic data from 1982 to 2005, Li Chunling (2009) put forwards that gender segregation continues to maintain for blue-collar occupations and half blue-collar occupations. The gender segregation for white-collar occupations will decrease, while the gender segregation continues to maintain for blue-collar occupations and half blue-collar occupations. Even though the male occupation and female occupation categories vary, but there’s no signs showing gender segregation fades. The research above analyzes gender differences in Chinese society with a large number of migrant workers and in the process of occupational mobility since the reform and opening up from a macroscopic perspective. Most of the empirical research refer to the female migrant workers focuses on the Pearl River Delta regions in the 1990s. Along with the development of urbanization and industrialization, a large scale of female migrant workers flood into cities and enterprises. Their flow range is larger and last longer. However, there is little research on the effect of this process on female migrant workers, the needs of female migrant workers and labor NGO’s role in improving the working and living state of migrant workers. With the funding from Rosa Luxemburg Foundation,Beijing office, the investigation of the working conditions and their demanding of female migrant workers in manufacturing industry is in progress. The research tries to investigate the working and living conditions of female migrant workers and their demandingness. The reason for choosing manufacturing industry and the new generation of workers is that most of migrant workers work in manufacturing industry and more than 35 per cent of migrant workers work in this industry. In addition, from 3 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 the perspective of practical work, the majority of the Chinese labour NGO focus their work on the workers in manufacturing industry. The work of female migrant industrial workers might be their next key working target. 2. Primary description of the research As the research is in progress, this draft article is just a brief analysis of the investigation in Beijing and Chengdu, Sichuan Province where the empirical research have been finished. With the help of the local labour NGOs in Beijing and Chengdu, 220 questionnaires have been gained and 200 of them are valid. 2.1. Basic social structure of migrant workers As for the age structure, the workers in manufacturing industry, whose average age is 24 years old, are relatively younger. The workers’ age structures of different types of enterprises show different characteristics. The workers in large scale electronic enterprises are younger, while the workers in medium and small scale labour intensive enterprises, such as garment and process are relatively older. For instance, the average age of workers in a small plastic processing enterprise in Beijing is 35 years old, while that of the workers in a large scale electronic enterprise in Chengdu is just 21 years old. The age distribution of male workers is average, containing almost all the age groups from 17 to 40 years old. Female workers focus on two age groups: one is from 17 to 24 years old and the other one is over 30 years old. That means most female workers choose to leave their jobs voluntarily or passively after the marriage and in childcare period. They come back to their jobs after duration. As for education, the female’s education level is lower than the male. Among the workers whose education level is lower than junior middle school, the male make up 22.6 per cent and the female make up 41.2 per cent. 2. 2. The working conditions of female migrant workers In general, the bad working condition of the migrant workers has been criticised in China for a certain period. Their major problems are overtime work, no labour contract, low or arrear wage. Compared with the male migrant workers, the female workers have to suffer the worse working state. Form the data that was collected from Beijing and Chengdu, female migrant workers’ wages are lower than those of the male. The male’s actual income is 2676 RMB per month but the female’s actual income is just 2433 RMB per month, higher 250 RMB than female. The lower 4 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 payment of the female workers is mainly decided by work positions. Women tend to engage in a simple unskilled work. For instance, in a garment factory and plastic products factory, when the female workers were asked about the skills of their jobs, they often replied that there were no skill demand in their job and they could know how to do it by only watching for a while. More male workers are arranged to skilled jobs and their wages are higher than those of the female. Refer to the working time, there is no significant difference. The average working days in a week and working time in a day are 5.5 days per week and 9.5 hours per day respectively. The female’s working days and working time are a little bit longer than those of the male. As the investigation was conducted in summer, the workers reflect that this period is the off season for manufacturing industry so the working time is shorter and that will be longer in other seasons. As for social insurance, regarding the proportion of people who have social insurance, the male’s is higher than the female’s. The reason is that the proportion of the female who work in small and medium scale enterprise is higher and small scale enterprises don’t often buy social insurance in accordance with state regulations. 2.3 The career development and promotion of female migrant workers Some existed researches show that the female have to stop their career development owing to marriage and duration. They return to their jobs after duration and the period of looking after babies. Career disruption affects career development and promotion considerably. Some authors further stressed that this situation becomes more serious in China due to the barriers between urban and rural areas. A great number of female migrant workers have not only to leave their jobs but also leave the city for hometown to get married and give birth to babies at the age of marriage and duration. Their job disruption period tends to be two years or above. When they come back to the jobs, the experience and skills cumulated before and the social network in the city or in their jobs have been disrupted. Therefore it’s very difficult for female migrant workers to get career development and promotion. Our investigation proves the similar conclusions. However, at the same time, regarding career development, it is found that there are no significant differences in the male and female’s judgment of promotion chances when they have the same education level (lower than high school). The workers whose education levels are high school or below don’t think they have any promotion chances. Normally in enterprise, it is required that the head of the workshop should have the certification of the college. The worker who only get the high shool degree could not be promoted as the managers, no matter of one’s gender and performance. The difference is that the male’s proportion of expecting to get more promotion chances is higher 5 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 than that of the female. “To get promotion might be a dream to me”, a male worker with junior school education level said. 2.4 The female migrant workers’ job mobility The occupational mobility rate of the migrant workers is very high, they alway change jobs quite frequently. The data shows that the migrant workers have changed 2.83 companies and enterprises since they worked. The male workers’ proportion of changing enterprises is higher than that of the female. The further analysis indicates that the female workers’ job mobility has direct relationship with age, marriage and duration. Most of female migrant workers’ flow track is that they leave their hometowns (most of their hometown are poor areas in the middle and west China) to work in the production line in manufacturing industries in southeast coastal area after graduating from junior school with the age of 16 years old. They return to their hometown at the age of marriage and duration (only few female migrant workers marry the male with urban hu kou in the city). This period continues three to six years. After duration, they have to leave the child in hometown and go back city to work. In order to look after the family, the female worker have to shorten their flow distance and choose to work in the cities nearer to their hometown. For example, the married female migrant workers in Beijing are usually from adjacent provinces such as Hebei, Henan and Shandong. Some female workers also choose to work in the city the same as their husbands. Therefore, they have to work in the factories which easy to ask leave. This kind factories are generally in the characteristic of small size, labour intensive, unskilled irregular and the bad working conditions. Even so, there are still a lot of female migrant workers can’t live together with their family. They have to suffer to family separation. Below is an example of migrant workers’ living state: A female migrant worker and his husband work in Beijing but they can only meet once a week because they don’t have enough money to rent house and their factories are too far from each other. Their 3-year-old kid lives in the country in Hebei and they can only meet the kid once half a year. A migrant couple both worked in factories in the same city but they could not live together. After marriage and duration, both of them work in the construction sites in order to live together. They live in the dormitory provided by the construction company with another four male workers in one room. Their children stay in hometown with grandparents. 6 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 A migrant couple from Sichuan, the husband works in a construction site and the wife works in an electronic enterprise. They meet each other once two month and they meet their kid once a year. 3. Brief analysis The problems (as mentioned above, include bad working conditions, the obstacle in carrier development and family separation) that female migrant workers are faced with should be analyzed in the background of China's industrialization and urbanization. In reality, all the migrant workers are facing the same problems such as the bad working conditions and the difficulty in city integration. Due to the segmentation between urban and rural areas and the labor market closely related to that, almost all the migrant workers have to endure harsh working conditions, including low payment, overtime and low social insurance coverage rate, etc. The workers with low education levels can hardly gain promotion chances dues to the stationary class structure and narrow upward mobility path. From the view migrant workers, comparative speaking, more female workers tend to content with the present state. When asked the satisfaction with the working conditions, job prospects, the female workers always replied: Ok, fine, just so so. While the male still have some expectations but they also admit it’s hard to change the current situation. They don’t think they could change the their own situations. A 27 years old female migrant workers told, I had changed at least 5 jobs and worked in 4cities in order to hurt a good job. At least, I lost my hope and went back hometown to get married. Then I had a boy. Currently, my husband and I and my parents in law are working in four workplaces in three cities. My mom is in hometown with my 5years old child. Our wage are very low and working time is very long. My hope is my child will not be a migrant worker. As you know, my parents used to be migrant workers, my parents in law have been migrant workers for more than 20 years. We try our best to improve the live. But, you can see my situation... More and more migrant workers don’t want to separate from their family and try their best to keep a complete family. In fact, there are lots of families where couples, parents and children live apart in several cities. The problem of the female’s special rights and interests can hardly be solved without improving basic working and living conditions. The most primary task is to improve migrant workers’ working and living conditions. To understand the demand of the female workers and help labour NGOs to develop the work for female migrant workers will be our work in next step. 7 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Reference Cai Yuping, Duping, 2011, Inequality within Inequality, Hong Kong of Institute of Asia Pacific Studies, Occupational Paper No.214. Cai Fang, 2003, the Report of Chinese Population and Labor No.4: Urban Poverty Problems in Transition, Beijing: Social Sciences Academic Press. National Bureau of Statistics, 2013, the National Monitoring Report of Migrant Workers in 2012 http://www.stats.gov.cn/tjfx/jdfx/t20130527_402899251.htm Li Chunling, 2009, the Current Situation and Trend of Occupational Gender Segregation in China, Jiangsu Social Science, No.3. Lee. C. K. 1998. Gender and the South China Miracle Two of Factory Women, Berkeley: University of California Press. 8 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Women and Labour Migration in India Ranjita Biswas School of Women’s Studies, Jadavpur University, India Tóm tắt Đa số các nghiên cứu về di dân chủ yếu về nam giới di cư. Hệ quả là nó đã bỏ qua vai trò của nữ giới trong nền kinh tế cũng như những đóng góp của họ trong lực lượng di cư. Quan điểm truyền thống từng cho rằng phụ nữ di cư phụ thuộc vào sự di cư của các thành viên nam giới và được dẫn dắt bởi các quyết định của gia đình. Phụ nữ di cư một mình thường được hiểu là những người đàn bà đơn thân như góa phụ, những cô gái trốn chạy, những người hiếm muộn, nghèo nàn, không có khả năng tiếp cận với các nguồn lực của hộ gia đình ở nông thôn. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy một xu hướng mới khi mà phụ nữ (kể cả kết hôn và độc thân) đều rời khỏi làng quê, để lại gia đình đến thành phố làm việc. Thực tế là hầu hết những phụ nữ này tìm công việc trong nước vốn đảm bảo mang lại cho họ những việc làm quen thuộc và nơi làm việc an toàn dễ dàng trong quá trình ra quyết định. Hình thái này dựa trên sự hiểu biết về di dân trong suốt một thời gian dài chủ yếu là di cư tạm thời hơn là di cư theo mùa. Mặt khác, khả năng di cư ngắn hạn cũng đã khuyến khích phụ nữ di chuyển ra khỏi khu vực thường trú của họ, loại hình di cư này cũng đã cho thấy sự gia tăng nhanh chóng hình thức di cư ngắn hạn tìm việc làm. Hơn thế nữa, các nghiên cứu cũng đã đề xuất rằng di dân nữ giới không chỉ chịu ảnh hưởng bởi nhu cầu kinh tế, thị trường lao động, kĩ năng của cá nhân, mà còn bởi động lực từ gia đình, các hệ thống giá trị văn hóa xã hội và định kiến giới Bài viết này một mặt đề cập đến quá trình di cư của những phụ nữ đơn thân, mặt khác cố gắng chỉ ra bằng cách nào họ đưa ra quyết định lựa chọn giữa việc “ở lại” hay “ra đi”. Tiến trình di cư của phụ nữ và sự tham gia của họ vào lực lượng lao động bằng cách nào đó đã tác động đến vấn đề giới, sự phân chia tầng lớp và những thách thức định kiến về vai trò của nữ giới trong gia đình và ngoài xã hội? Có mối tương quan giữa tình trạng hôn nhân với sự tham gia ít hơn của nhóm phụ nữ này ở nơi làm việc? 9 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 For a very long time migration studies have mostly focused on male migration. Traditionally it has been believed that women’s migration is dependent on the migration of male members, either following marriage or accompanying husband to his destination of work. Such decisions to migrate were thought to be guided by familial decisions. Women migrating alone were usually understood to be single women like widows, run away girls, barren, deserted women, who did not have access to rural household resources. Migration studies have consequently either overlooked woman’s role as economic agents or marginalized her contribution to being associational migrants. From 1901 onwards, women’s migration has been the single largest section of migration in India but this was almost always thought to be for reasons of marriage. What was disregarded was that even in colonial India, there was employment related migration of both married and single women to not only mines and plantations as indentured labour but also to factories and a range of informal employments in the cities. Moreover, even as associational migrants, women’s labour in sites of migration was often crucial for the family’s economic survival. Even today, as was seen in a study done by us in the city of Kolkata, when men and women migrate together, the lead migrant might be the woman in that she is the one with an assurance of a job in the city and the man follows her in the hope of finding some employment. Recent gender sensitive analysis of international labor migration reveals a certain feminization of migration in some labour exporting countries (Siddiqui, quoted in Manchandani, 2006: 206). According to a recent report, the number of female migrants across the world increased by 63% -- from 35 million to 57 million -- between 1965 and 1990, an increase 8% higher than that of male migrants. Women migrating across borders show various patterns of movement. Those migrating permanently do for the purpose of marriage or for the purpose of family reunification. Some migrations are also due to displacement linked to natural disasters, or to escape social and political conflict situations like wars or other forms of violence. This paper discusses more specifically women’s migration for the purpose of employment. Recent studies have revealed a new trend where women (both married and unmarried) are moving out of their villages alone, leaving behind their families and homes, to work in places across the world. According to reports issued by the United Nations Secretary General, female migration has gone up from 9.3 per cent in 1999 to 17 per cent in 2004, 10 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Generally, two broad streams of labour movements can be seen from Asian countries in recent times. One to the oil rich gulf countries in west Asia and the other to the emerging economies of the east and south east Asia. Reasons for this migration can be found in the fact that there has been a tremendous economic growth in these regions with a corresponding change in lifestyle that cannot be sufficiently served by the local labor force thereby necessitating export from other countries. Poor countries in Asia having opened up their labour surplus market facilitates this movement in labour by making low wage labour available. Asia has the largest number of international migrants and while men still form the greater chunk, women are migrating in increasing numbers. Migration is provoked by factors including better job opportunities or more income (80.8% for men and 92.2% for women), poverty (55.8% for women and 47.9% for men) followed by unemployment (14.4% for men and 17.3% for women) and landlessness (12% for men and 14.4% for women). While the majority of male migrants are engaged in production and construction, women find work in the service sector—care and entertainment services. According to a report (Thimothy & Sasikumar, 2012) on women migrations to gulf countries, in 2010 India provided the third largest number of women migrants after Nepal and Sri Lanka to the gulf countries. Saudi Arabia received the highest proportion of Indian migrant workers to the Gulf. In India Andhra Pradesh, Tamil Nadu, Kerala and Maharashtra are the primary states from where women go to the Gulf but increasingly Bihar and UP are also joining in. Most of these women find work as domestic workers. A significant share of female migrants, especially from South Indian states, are also engaged as para-medical staff. A study in 2007 notes that around 90 per cent of Indian nurses in the Gulf are from Kerala (Percot and Rajan, 2007). Emmigration/immigration policies in both the country of origin and the country of destination affect the outcome and the process of migration. The Emigration Act, 1922 was enacted in India to regulate the recruitment and emigration of low-skilled agricultural workers, but it did not address the specific problem of their exploitation as also it had no provision on the migration of people with technical qualification or professional expertise. The Emigration Act 1983 has a category called Emigration Check Required (ECR) whereby it is mandatory for prospective migrants in certain occupational categories to obtain clearances from the office of the Protectorate of Emigrants, under the Ministry of Labour. This was ostensibly done to protect the emigrant workers from abuses in the labour market. 11 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 But migration does not always come with the expected results. More times than not, the woman migrant travels from poverty to more poverty. Traveling out of a familiar geographical location, culture and domesticity, women often land up in a place where the language is alien, social mores are difficult to adjust to and work conditions gruelling as also remuneratively dissatisfying. Women migrant workers are doubly exploited – as migrant workers and as women. The range of exploitation of women migrating for employment purposes to other countries is further compounded in a situation where most such travels are illegal due to rigid cultural and state ideologies which act as constraining factors. The vulnerability of some of these women stems from the fact that they are often dependent on their employers due to the individualized work contracts and the lack of acknowledgment of domestic labour as work (kafala system of labour recruitment in gulf countries where sponsorship between employer and employee). The vulnerabilities of the domestic labour are not unknown and their situation is all the more complicated as they are absorbed into the private sphere of the household and reproductive sphere but not as a family member. The lives of the global middle class and affluent class are structured on the basis of this often invisible but ubiquitous labour. This situation does not allow them to be visible in the public sphere as employee and the legal rights are often denied (Yeoh et al). Being mostly engaged in typically womanly jobs in the care service and domestic work, women are paid less than men and confined at home thereby remaining invisibilized. The household is just not invisibilized, it is also outside market labour laws. For example, domestic workers are excluded from labour legislation, including provisions on the minimum wage and overtime pay, in Kuwait, Lebanon, Saudi Arabia and the United Arab Emirates, among other countries (HrW, 2007). Domestic workers especially those who are live-in workers face a vulnerability unparalleled. Living in the same space that doubles as their workplace and sharing a relationship of personal dependence keeps a certain employeremployee dynamics active in the relationship (Neetha, 2008). Raka Ray (2009) uses the concept “servitude” to capture the persistence of forms of dependency and submission in relations of what is today, for the most part, paid domestic wok. Domestic work is often understood as more an institution than work, carrying traces of feudal servitude given the relationship of domination and subordination that characterizes the experiences of both the providers as well as the employers. Women are physically and sexually exploited with poor living and working conditions and absolutely no social securities. Sometimes facing virtual slavery and forced labour domestic workers are often required to work long or excessive 12 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 hours (on average, 15–16 hours per day), with no rest days or compensation for overtime. They generally receive very low wages and have inadequate health insurance coverage, if any at all. In some cases they are trapped in situations where they are physically or legally restrained from leaving the employer’s home by threats or actual violence, by withholding of pay, or by confiscation of identity documents. Other problems relate to lack of regulation of working hours and working conditions, absence of appropriate classification of domestic work etc. The primary interface happens between the woman of the household and the domestic worker. But often a number of employers are constantly instructing the domestic worker who is the lone worker in a household often with contradictory demands. In addition, trafficking or forced migration under circumstances of conceit and exploitation is also a concern that has put migrant women in grave danger and prompted the state to come up with policy restrictions that only serve to clamp down on their mobility. According to a world bank report in 2011 India is one of the largest remittance receiving countries in the world. It has been studied that women tend to send back a much larger share of their earnings and this contributes to not just poverty reduction at home but also to the macro-level development. The earnings of 40-50,000 Indian nurses in the Gulf, 90 per cent of whom belong to Kerala, has contributed to pushing the state's per capita income from negative to 41 per cent above the national average. The State, on its part, finds itself compelled to keep the flow of remittance ongoing. Of late, to provide migrants better protection, the government has put in place bilateral agreements with several receiving countries. These bilateral or multilateral labour agreements ensure that migrant workers are recruited and work under non-abusive and non-exploitative conditions. It has also introduced a compulsory insurance scheme for migrants where Indian migrant workers are given insurance which is valid as long as their job contract. Smart cards are being issued to first time migrants, which would have details of their passport, work contract data and insurance among others. All these measures are topped up with pre-departure training that familiarizes the migrant with problems they could encounter in the receiving country and how to deal with them. In some countries migrant associations have emerged as an important link between the government and the individual migrant. When it comes to female migrant workers, the state responds to the crisis of labour exploitation and discrimination with parochial policies that impose age restrictions, insist on male guardianship etc. It is argued that gender sensitive migration policies and appropriate 13 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 departure orientation could reduce the vulnerabilities of migrant women. However, the emigration ban denies women their agency, equal status as citizens and the opportunity for economic and social empowerment. Moreover, it is too blunt a protective instrument and will further drive women's migration underground. According to a report by the Centre for Social Research, the recent ban by the Government of India on the migration of semi-skilled and unskilled women under 30 years has resulted in a growing trend of young Indian women migrating overseas through illegal means. In fact, the clause of matriculation and age 30 made women more vulnerable as it promotes unregulated migration and denies women their right to work, said the report. Behind the ban is a patriarchal State asserting itself to 'protect' its 'helpless' and 'ignorant' young female citizens. Migration and gender Most of the earlier literature on migration has overlooked gender as a category of analysis whereby the need to address the differential experience of migration for men and women in a highly gendered society is erased. Women’s migration is intimately embedded in social structures and gender relations. Studies have suggested that women’s migration is not only influenced by economic needs, labor markets and individual skills, but also by familial dynamics, class, caste dynamics, cultural-social value systems and gender stereotypes. Most women migrating from India for work are unskilled and therefore seek and find work as domestic labour and other care related services which bring with it the promise of a certain familiarity of task and security of the workplace – this eases the process of decision-making on migrating out of home. The movement might also be facilitated by a shift in the understanding of migration from a permanent process to more temporary forms for instance a lot of internal migration happens to be seasonal. While on the one hand, the possibility of short term migration could have encouraged women’s movement outside her usual place of residence, this type of migration also points to the increasingly temporary nature of employment that drives these movements. The present paper revisits the process of migration where women are migrating singly and attempts to explore how individual agency/autonomy operates in making the choice between the decision to ‘stay’ and the decision to ‘move’. Does the process of women’s migration and her participation in the work force in any way destabilize gender, caste and class hierarchies and challenge given stereotypes around woman’s social and domestic role? Women are 14 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 conceived as migratory by essence. This sense of instability in habitus is understood in the context of marriage and woman is said to necessarily migrate from her natal home to her marital home and then onwards wherever her domesticated ‘destiny’ takes her. This paper attempts to complicate this simplistic linearity by exploring what happens when woman migrates, not for purposes of marriage, but nevertheless to save and nurture her domesticity and to do this travels without the protective company of her husband. The social/ psychological consequences of migration, the sense of dislocation, alienation and loss of a sense of belonging, more so in case of women given their ties to family and kin create a different set of conditions for the woman to negotiate along with a sense of agency. Single male migrant is an established category in migration studies. Single woman is often a confusing term used to signify marital status. However, this use is losing ground now with more specific terms like deserted woman, widow and unmarried woman becoming more popular. Our criterion of single woman migrant was based on the fact that women who migrated alone for work, i.e., were not accompanied by any male member of the family. Women accompanied by the other female members of the family have been considered under this category. Women accompanied by any male members of the neighbourhood (not from family), other women from the community or some agent have also been included here. Women, more so in south Asian societies are traditionally confined to the domestic space. The domestic space is said to provide women subsistence in return for her total submission to norms of familial honor, community and caste loyalty and giving up on the claim to the public sphere. Women have been part of the family workforce and have performed all kinds of agricultural jobs without receiving any remuneration for their contribution. Even when the need to bring in some extra money has surfaced, women have operated from home, frequently having to finding time outside their daily chores to earn from rolling beedis, papads or making pickles. All such remunerative jobs have remained strictly within caste and gender codes. Given such constraints on women’s labour, taking a decision to step out of their homes and even the country is to be seen as empowering. The daily chores that were so long part of routine life come to take up a different value once the woman starts earning in a different physical space other than her home. Thus, women’s labour which has been traditionally devalued and invisibilized, especially within the home gets transformed into valued labour once she starts working as a paid domestic. 15 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Women are ‘compelled’ to migrate under numerous conditions. The direct causes behind such movement can vary from surviving poverty, supplementing their family incomes, sponsoring children’s or siblings education, saving up for dowry or going up a notch in social status. Sometimes, going beyond economic compulsions, women move out to escape abusive domestic situations and sometimes just to move out of constraining circumstances. Some of these migrations may be prompted by women’s decisions to better their own or families’ conditions, but these may actually be decisions forced by circumstances where the initial motivation may be survival. Studies have suggested that the concept of ‘autonomous’ migration needs to be looked into critically. When the issue of voluntariness is taken up in the context of the gendered nature of migration, it assumes further complexities. While migration of women individually or in groups to work may appear to indicate autonomy, to term these migrations as autonomous would be erroneous. As Manchandani argues (2006:206) migration especially in South Asia is embedded in a complex multifactorial web such that the debate on whether migration is happening out of choice or coercion is rendered redundant. Thus, migration of women needs to be understood as a collective endeavour that represents the experience within a set of family relationships, as opposed to the commonly perceived notion of male migration, which is autonomous and individualistic. Uma Kothari argues that the decision to migrate is informed by a stiff negotiation between the opportunities at the destination site and the constraints at the site of origin. According to her (2002) there is a complex relation between migration and poverty where poor is not a homogeneous category. The differential access to power and resources shapes the process and the consequences of migration. While poverty becomes the primary driving force behind the decision to move out, the decision can lead either to further poverty or to an improvement in economic status. She also argues that key to understanding the role of migration in chronic poverty is the relationship between ‘mobility’ and ‘immobility’ and more generally the interconnectedness of people and places.” She feels that motivation is an important characteristic of migration but there are different levels of motivation. She explains that if economic impoverishment pushes certain individuals to migrate then why is it that some individuals do not. That is why to understand migration through only the lens of economy will fail to consider the complexities and diverse motivational reasons of the process. The varied motivations/ compulsions that make women migrate, the gaps between her expectations and her experiences cannot be mapped in the context of just the material benefits accruing from the migration. 16 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Gordon F. De Jong (1995) argues that individual expectation about the migration and its possible outcome is often the decision making factor between ‘move’ and ‘stay’ decisions. He sees expectation as one of the “dynamic concept in migration decision-making” and further genders it to see how social norms and gender roles operate in migration expectations. Gordon F. De Jong (1995) puts it in another way when he argues that a relative lack in migration studies has been the study of the comparative relationship between ‘move’ and ‘stay’ decisions. He thinks that individual expectation about the migration and its possible outcome is often the decision making factor. De Jong deals with expectation as one of the “dynamic concept in migration decision-making” and further genders it to see how social norms and gender roles operate in migration expectations. Concern for specific conditions and forms of vulnerability faced by migrants is thus necessarily combined with questions regarding the socio-historical direction of the specific forms of migratory employment in which women are majorly located. The question that is paramount for the movement relates to the conditions of migration, i.e., does it move women and society towards gender equality or does it enhance inequalities. Migration has to be analysed not merely in its economic outcomes but also in its social cultural and political consequences. Apart from unemployment and poverty, migration also means a rite of passage that provides status, independence, training and savings for marriage on their return. Further, the search for personal freedom and the accompanying rejection of traditional gender roles is also found important. Living in cities is seen as a step forward in social mobility and status (Neetha, 2004). Migration is also a terrain where gender relations are renegotiated. “Women labour migration is increasingly a means through which asymmetrical, intersecting relations pertaining to gender, caste and class are structured and negotiated” (Neetha, 2004). Women have some control over household expenses and allocation on various heads, especially when the contribution to family income is higher compared with the male members. The beforeand-after experience of women domestics, the shift from old world values, customs, habits and traditions and the demands of the new place redefine and reposition their status within home and in the community once they return or even when they are sending remittances across. 17 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 References De Jong, Gordon F. ‘Committee Expectations, Gender, and Norms in Migration Decision-Making.” Population Studies, Vol. 54, No. 3 Nov. 2000. Population Investigation Committee Stable (Source: http://www.jstor.org/stable/2584787) . International Labour Migration: A Rights based Approach. ILO, Geneva: 2010 Kothari, Uma. Migration and Chronic Poverty. Institute for Development, Policy and Management, University of Manchester. 2002. N. Neetha. “Regulating Domestic Work.” Economic & Political Weekly September 13 2008. “Making of Female Breadwinners: Migration and Social Networking of Women Domestics in Delhi” Economic and Political Weekly April 24, 2004. Ray, Raka. and Seemin Qayum. Cultures of Servitude. Stanford University Press. 2009. Thimothy, Rakkee & S.K. Sasikumar. Migration of Women Workers from South Asia to the Gulf. V.V. Giri National Labour Institute and UN Women. New Delhi: 2012 Yeoh, Brenda S. A., Shirlena Huang, Joaquin Gonzalez. “Migrant Female Domestic Workers: Debating the Economic, Social and Political Impacts in Singapore”. International Migration Review, Vol. 33, No. 1 (Spring, 1999), pp. 114-136 Published by: The Center for Migration Studies of New York, Inc.Stable (Source: http://www.jstor.org/stable/2547324) 18 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Recent Policies and Actions towards the Protection of Migrant Workers in the Philippines: the Case of the RA 10022 and HSW Reform Maria Elissa J. Lao, DPA Department of Political Science, School of Social Sciences, Ateneo de Manila University Tóm tắt Nhiều làn sóng di dân khác nhau đã được ghi nhận ở Philippines từ đầu thế kỉ 20. Với đặc điểm hiện tại của di cư lao động, tạo ra thách thức quan trọ ng tác động đến sự phát triển của Philippines. Ước tính có khoảng 10% dân số Philippines (năm 2010) sống và làm việc ở nước ngoài, và 8,7% trong tổng GNP có nguồn gốc từ lao động người Philippine di cư ra nước ngoài (OFWs) chuyển về (năm 2011) (CMA, 2012). Hơn nữa, một số lượng lớn OFW là phụ nữ, người trẻ và làm việc ở nhóm ngành nghề phổ thông ít đòi hỏi kĩ năng tay nghề, điều này góp phần làm họ dễ bị tổn thương hơn. Những số liệu này cho thấy, di dân lao động tiếp tục là một phần không thể thiếu của nền kinh tế Philippine (cũng như bối cảnh kinh tế xã hội) và đa số những người lao động này cần được bảo vệ nhất. Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ những lao động này thông qua các chính sách bảo vệ khác nhau từ giai đạn chuẩn bị di cư đến khi họ quay về Philippines. Có nhiều giải pháp bảo vệ được nảy sinh từ thông điệp của RA 8042, hay Chương trình hành động vì người lao động Philippine di cư ra nước ngoài ban hành năm 1995, được chỉnh sửa năm 2010 theo RA 10022 để đáp ứng với những thay đổi rất nhiều về thực tế di dân lao động. Luật mới được chỉnh sửa này rất đáng hoan nghênh do những nỗ lực của nó trong việc xác định trách nhiệm cụ thể để bảo vệ lao động Philippine di cư ra nước ngoài. Tuy nhiên, những người ủng hộ chỉ ra rằng vẫn còn nhiều lỗ hỏng trong việc thực thi luật này và những khoảng cách trực tiếp tác động đến nhóm dễ bị tổn thương. Một chính sách quan trọng khác là Cải cách chính sách lao động giúp việc nhà (HSWPR), một loạt các ghi nhớ do Cục lao động ngoài nước (POEA) năm 2006, nhằm hướng dẫn cho lao động giúp việc nhà vốn là nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong nhóm lao động di cư ra nước ngoài. Bài viết này nhằm đánh giá sự tiến bộ của hai hợp phần quan trọng của chính sách bảo vệ lao động di cư trong bối cảnh chính phủ Philippine đang tiến hành các định hướng chính sách chung. Trong khi một khuôn khổ ổn định bảo vệ người lao động Philippines ở nước ngoài đã được ban hành, nhưng vẫn còn nhiều việc cần phải làm nhằm bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương là phụ nữ (chiếm đa số trong lao động di cư ra nước ngoài), người lao động trẻ và tay nghề thấp. Hơn thế nữa, bài viết cũng muốn đặt ra những câu hỏi rộng hơn cho sự tiến bộ trong chính sách lao động di cư đã được thực hiện ở Philippines, đặc biệt là trong việc giải quyết các khía cạnh các khía cạnh quan trọng của chính sách di dân hiện nay: giới, sự tham gia và phát triển. 19 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Introduction Migration is a theme deeply embedded in the social fabric of contemporary Philippine politics and society. The phenomenon traces its beginnings to the early 20th century until the more systemic and institutionalized “waves” of migration in the 1970s, to areas such as the Middle East, North America, and parts of East Asia. It has reached such a scale that around 10% of the Philippine population is now thought to be living and working abroad. The scale of the phenomenon in terms of number of migrants and length of time that has elapsed since the first wave of systematized overseas labor migration in the early 1900s, has reshaped economic, social and, to a certain extent, political outcomes and trajectories of the Philippine state. This paper seeks to examine more closely the effectson one of the more definitive sectors of Philippine Labor Migration: Household Service Workers (HSW), seen as the most numerous and ultimately, the most vulnerable of the major occupational categories of landbased Filipino workers1. By focusing on the Household Service Worker and the reforms that the Philippine government has undertaken towards the protection of HSWs, it is hoped that this paper provides a clearer understanding of the changing direction and priorities of Labor Migration Policy and the significant challenges that such undertakings will pose. Changing Face of Philippine Migrant Workers Previous “waves” of labor migration in the Philippines have particular demographic characteristics, in terms of gender, type of work and geographic region of deployment. In the 1970s, for example, deployment of overseas Filipino workers was mainly to the Middle East, where the demand for construction workers was high. During this “wave,” the sector was male worker dominated, due to the nature of jobs that were available at that time. During this time, males constituted 70% of the sector called “OCWs” or overseas contract workers. (Gonzalez III, 1998: 40) In the present context, the role of Household Service Workers (HSWs) is a strategic take-off point for the discussion of Philippine labor migration issues because they now represent a major part of the current labor migration pie, in terms of gender (majority of all OFWs are 1 Seabased occupations or seafarers comprise the other category of Filipino migrant workers. 20 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 female, see table a), and occupational category (majority of all OFWs are HSWs/female, see table b and c). Studies which underlie the trend of “feminization of migration” (see Yamaka and Piper, 2005) are supported by recent statistics from the Philippine Overseas Employment Agency (POEA), the government agency tasked to regulate Labor Migration in the Philippines. The following charts illustrate the current demographic of landbased Overseas Filipino Workers (OFWs): TABLE A. Majority of All OFWs are Female Year Male Female 2009 156,454 175,298 2008 174,928 163,338 2007 160,046 146,337 2006 123,688 184,454 2005 79,079 205,206 2004 72,354 209,458 2003 66,408 175,103 2002 77,850 208,278 2001 72,186 186,018 2000 74,707 178,323 SOURCE : LBS Consulting, 2010 TABLE B. Majority of all OFWs are in the service or production worker Occupational 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Group Total 281,762 284,285 308,122 306,383 338,266 331,752 340,279 Prof, Med, Tech 94,147 63,941 41,258 43,225 49,649 47,886 41,835 490 817 1139 1516 1290 1439 and related Admin and 565 managerial Clerical Workers 5323 5538 7912 13,662 18101 15,403 10706 Sales Workers 3950 4261 5517 7942 11525 8348 7242 21 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Service Workers 113,423 133,907 144,321 107,135 123,332 138,222 154,535 Agricultural 632 350 807 63,719 74,802 103,584 121,715 132,295 117,609 120,647 3 996 3906 952 1354 1349 1122 Workers Production workers Others 10613 494 1645 2753 Source: Number of Deployed Landbased OFWs by Major Occupational Category, New Hires, 2004-07, POEA TABLE C. Majority of all HSWs are female Occupational Male Female Both Sexes Total 154,677 185,602 340,279 Household Service 1703 94,880 96583 2612 9521 12133 Nurses Professional 1828 10254 12082 Caregivers and 543 8750 9293 4393 4396 8789 8576 30 8606 8391 16 8407 5037 22 5059 701 4098 4799 Group Workers Charworkers, Cleaners and Related Workers Caretakers Waiters, Bartenders, and Related Workers Wiremen and Electronics Workers Plumbers and Pipe Fitters Welders and Flame cutters Housekeeping and Related Service 22 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Workers Bricklayers, 4478 29 4507 Stonemasons and Tile Setters Source: Number of Deployed Landbased Overseas Filipino Workers by Top Ten Occupational Categories and Sex, New Hires, 2010, POEA Policy Framework In the 40 or so years of labor migration policy in the Philippines (beginning with the Marcos era when labor migration was used as a “stop gap” measure during the decade’s economic crisis), the different Administrations have had to balance the notion of “Protection of OFWs” with the ambiguous “no labor export policy.” Until now, there is no satisfactory rationale to the decades long endeavor of setting up an entire bureaucracy of labor migration related agencies coupled with the simultaneous side stepping of the basic issue of its elucidated (lack of) policy. TABLE D. Key Policies of Philippine Administrations, 1965-present Marcos 1965 – 1986 PD 442 or the Philippine Labor Code “to ensure the careful selection of Filipino workers for the overseas labor market to protect the good name of the Philippines abroad." PD 1412 “strengthen the network of public employment offices and rationalize the participation of the private sector in the recruitment and placement of workers, locally and overseas." Aquino, C. 1986-1992 Section 3, Article III of the 1986 Constitution “The State shall afford full protection to labor, local and overseas, organized and unorganized, and promote full employment and equality of employment opportunities for all.” EO 126 (creation of OWWA) EO 247 (restructuring of POEA) Ramos 1992-1996 RA 8042“to institute the policies of overseas 23 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 employment and establish a higher standard of protection and promotion of the welfare of migrant workers, their families and overseas Filipinos in distress, and for other purposes. Macapagal-Arroyo 2001-10 RA 1022 Amendments to RA 8042 HSW reforms POEA Memorandum Circular Series (2006) “Supermaid” program Aquino, B. III 2010-16 # 10 (A commitment to transformational leadership Economy) “From a government that treats its people as an export commodity and a means to earn foreign exchange, disregarding the social cost to Filipino families to a government that created jobs at home, so that working abroad will be a choice rather than a necessity; and when its citizens do choose to become OFWs, their welfare and protection will still be the government’s priority.” “phase out” of HSWs While the broad policy statement of the Philippine government with regards to the absence of a labor export policy have been quite clear, the growth of institutions providing for labor migration has been quite steady as well, with many of the key features worked in as a reaction to specific issues (such as RA 8042, in response to the FlorContemplacion issue), and changes in the international labor market, domestic issues, and foreign policy concerns. As Odine de Guzman (2003), who cites the work of previous migration scholars (Gonzalez, Battistela, Asis) on this matter: “the policies and directives of government administrations since Marcos, demonstrating how the government actively promotes labor migration with provision for the welfare of the migrants often an afterthought.” This is gleaned from the different broad and specific policies and programs built by past administrations in the area of labor migration. Ferdinand Marcos for example, created what was to be a temporary overseas employment program to address the country’s need then for 24 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 foreign exchange and employment. (Medina and Polumbarit, 2012) The provisional program, though, was also accompanied by the creation of (1) the National Seamen Board (NSB) (2) the Overseas Employment Development Board (OEDB) and (3) the Bureau of Employment Services (BES), which would later be merged to become the current Philippine Overseas Employment Agency (POEA), tasked to regulate labor migration. Marcos also created a Welfare Fund for overseas workers. Corazon Aquino’s administration put into power by the EDSA People Power Revolution, included in its constitution, the right protection of Overseas Workers but made no adjustments in the “no labor export policy” stand of the government. Further, it was under her leadership that the Overseas Workers Welfare Administration (OWWA) was created, as well as the further restructuring of POEA. It was, however, also during this time that the first Female President of the Philippine Republic made the bold move to ban the deployment of all domestic workers, following reports of widespread abuse (most notably the death of MaricrisSioson in 1991). The ban was subsequently lifted by geographic area, based on the perceived status of Filipina workers in the area. Additional safeguards were put in place postban, culled from the experiences of these workers as well as the growing lobby from organized groups. Fidel Ramos’ presidency was landmarked by, among other things, the Migrant Workers and Overseas Filipino Act of 1995 or RA 8042 which was prefaced by the FlorContemplacion issue. The death of Contemplacion and the public backlash after pushed the Ramos administration to legislate what would become the centerpiece legislation for migrant workers, with the Philippine state promising “higher standards of protection” for migrant workers, overseas Filipinos and their families. Following the ouster of President Joseph Estrada, Ramos’ successor in 2001, his Vice President, Gloria Macapagal Arroyo, assumed the Presidency in 2001 and remained in power until 2010. Under her leadership, the Household Service Worker (HSW) Reform Package was developed as a series of memorandum orders but the POEA, after the 2006 war in Lebanon brought to the surface difficulties that HSWs were facing (underage employment, low wages, abuse etc). The series of reforms were crafted to “professionalize domestic work and minimize vulnerabilities” of household service workers deployed abroad with additional training and safeguards. It was also during Macapagal-Arroyo’s administration, the 25 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 controversial section in RA 8042, marking the eventual phase out of the POEA was repealed, in acknowledgement of its need. The administration of Benigno Simeon C. Aquino III, son of former President Corazon Aquino, has likewise carried the same broad policy statement forward: “There was no labor export policy during the Martial Law. There is none at present.” (Medina and Polumbarit, 2012) However, in his 2010 “social contract with the Filipino People” he claims to work towards the eventual return and reintegration of OFWs to locally created jobs. The language of his pronouncement signifies a shift more associated to those groups who provide constant critique of government policy: “From a government that treats its people as an export commodity and a means to earn foreign exchange, disregarding the social cost to Filipino families to a government that created jobs at home, so that working abroad will be a choice rather than a necessity.” The messaging from this Administration seems to be this: the reform work that lies ahead in this sector is towards the eventual return and reintegration of OFWs abroad. In his list of “outcomes,” in the postscript of the 2012 State of the Nation Address, Aquino III, had this to say on OFWs, stressing that the dream of eventual return is shared by the government but is carried on the shoulders of the OFW: “Sa tuwinghaharapakosaisang OFW nanagsasabing, “Salamat at puwedekonamulingpangarapingtumandasaPilipinas,”angtugonko: Ikawanggumawanito”. (Whenever I come face to face with an OFW who tells me, “Thank you, because I can once again dream of growing old in the Philippines,” I respond: You made this happen.) It should be noted, though, that this is the only State of the Nation Address where President Aquino mentions the plight of migrant workers, or pushes for reform in the legislative agenda for their protection. The question remains whether his administration has the political will and the resources to steer migration policy and action in that direction. Until this point, it is clear that Philippine Government policies and programs towards the protection of the large number of overseas 26 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Filipinos have been for the most part, reactionary and towards the endeavor of supporting the exodus. A broader view of Philippine government policy towards labor migration needs a closer look at the industrial and trade policy of the Philippines: After subsequent Administrations chose to “de-prioritize” certain areas in order to counteract the “strategic hold” of previous regimes (Marcos attempted to decommission the agricultural elite via import substitution policies that favored particular industries. His regime was followed by Corazon Aquino’s, who in turn attempted to decommission Marcos’ favored industries via liberalization policies in “textbook form.”)2 Some view this period marked by a lack of a “major industrialization drive” as hurting short or medium term prospects of creating a large middle class and thus raising incomes of most Filipinos. Even with diversification of the economy, the lack of a deepening of the industrialization and concurrent “human capital formation” issues have further mired Philippine state development. (Thompson, in Kasuya et al, 2010 : 39-40) It seems that the growth of labor migration from this lens seems to be that of a “by product” of the marginalization of jobs in those years that decreasingly considered the strategic growth of the Philippine economy as it shifted from and agricultural to industrial to commercial economy in part due to changing focus by the different administrations. It seems that what is needed at this point is embodied in the Filipino word “pwersa,” which loosely translates to mean a “concerted push.” The pwersa that is sought is not only one that looks outward, which is the traditional viewpoint of overseas labor migration, but also inward, where the real engines of change must be kept in constant motion. The next section of the paper dissects particular policies in order to examine more closely whether a qualitative improvement has been made in the protection of the most vulnerable sector of OFWs. It also seeks to evaluate the “keenness” of the Aquino Administration in making good on the promise of eventual return and reintegration and rationalizing the “no labor export policy.” 2 This should be considered alongside other factors such as low tariffs, political corruption and the changing global economy. 27 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Protection and Deployment: Underlying Shifts in Government Policies Two policies have been chosen as “test cases” for (1) the protection of vulnerable sectors (particularly those in the HSW category) and (2) the “shift” in government policy towards eventual return, reintegration and phase out. RA 10022 The goal of RA 10022 is to further protect OFWs, particularly before departure through assigning more duties and responsibilities to parties involved (this includes the Philippine government and its agencies – which now includes even the local governments in antitrafficking endeavors, recruitment agencies, and, to a certain extent, receiving countries as well). In particular, these new duties and responsibilities fall in the areas of: Increasing responsibilities of recruitment agencies Selection of new areas for deployment Compulsory insurance Repatriation Representation Reintegration Roles of other government agencies, including the Department of Health and Local governments Although these changes have been hailed as necessary steps in forwarding the interests of migrant workers abroad, many issues remain particularly in protecting the many that fall through the cracks of the system. Congressman Walden Bello, of party list AKABAYAN citizen’s party illustrates how human trafficking takes place: “A recruiter from a Gulf state contacts his man in the Philippines. A Filipino contact goes to the remote provinces to recruit a young woman promising a wage of $ 400.00 28 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 a month, which is the minimum amount set by the Philippine government. When she departs, the recruitment agency gives her another contract at the airport, one that is often written in Arabic, saying she will be paid only half or less.” (CMA, 2013 : 83) Rep. Bello details how in this scenario, passports and other documents may be taken from migrant workers, and the possibility of abuse in the form of long work hours and isolation as well as the possibility of being “sold” by other recruiters remains high. (ibid : 83 -84) He also speaks of “clandestine networks” that “smuggle workers from the Southern Philippines to destinations in the Middle East…out of the (city of) Zamboanga by small boat to the Malaysian state of Sabah. From there, they were transported in the hold of a bigger boat going to Singapore, where they were then offloaded and brought by land transport to a site near Kuala Lumpur. In KL, they were forced to work for their subsistence for six weeks. Only after two months were they finally transported by plane from KL to Dubai, then Damascus.” (ibid : 84) Many of these cases involve female domestic helpers (Bello reiterates, for example, that 90% of domestic workers in Syria were undocumented), who have left the country through informal channels, making it more difficult for the Philippine government to track and protect them. Further, the implementation of the law, if unchecked may unintentionally marginalize these same vulnerable sectors. For example, while return and reintegration assistance is indeed laudable, it may have drawbacks if the targeting of beneficiaries/recipients is not rationalized. This is demonstrated in another key feature of the new law: the creation of the National Reintegration Center for OFWs (NRCO) which, among other programs, should make funds available for returning OFWs. These funds are usually channeled to returning OFWs as small business loans. Civil Society groups, such as the Center Migrant Advocacy (CMA) have pointed out that there has been no effort by the government to measure the success of NRCO programs: “…but it is unclear who the beneficiaries are. Information has not been provided on where they are located, whether they are documented or undocumented whether they 29 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 are male or female and so forth.” (CMA, 2012) They point out that much of the funds have been used to support returnees (mostly professionals) from Libya, who are already familiar with loan processes. This may be to the further disadvantage of other OFWs from other areas of forced repatriation (such as Egypt and Syria) and those who fall under other categories of work, such as domestic workers. The worry is that the funds may not target those who need reintegration funds the most, and if they do reach such groups, the assistance may not match their reintegration needs. This first case illustrates how laws are definitely in place, (around which new institutions are built) and well crafted to a certain extent but much more thought must be given to the needs of a highly diverse overseas labor sector. Special attention must be given to sectors that are most vulnerable. Household Service Worker Reform According to a recent study (Sayres, 2005) there are two levels of analysis when discussing Household Service worker reform in the Philippines. One at the national level, that is characterized by rural to urban migrations (from regions such as Bicol, Southern Tagalog, Ilocos, Cagayan Valley, Central Luzon, Soccsksargen, Western Visayas to urban centers such as Metro Manila) of young (15-25), less educated (elementary school graduates) women. The second level is the HSW-OFW, who are generally older (25-34), better educated (many with a college degree and professional work experience). The same study also showed that while local domestic workers are “pushed” to work by economic hardship, overseas domestic workers are “pulled” by better compensation abroad. Based on these comparisons, Sayres suggests that “there may be little correlation between being employed as a domestic worker in the Philippines and being an overseas domestic helper. Therefore, channeling information and assistance to local domestic helpers may not necessarily have a significant impact on reducing the vulnerabilities of overseas domestic helpers.” While this may be true, this author argues that recent developments on both the national and 30 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 international policy arenas point to convergent policy directions that, with proper planning should strengthen the overall position of the Philippine state on labor migration policy. At the international level, HSW reform, through POEA memorandum circulars in 2006, under the leadership of then President Gloria Macapagal Arroyo, set a minimum age at 23, and required a minimum wage of at least USD$400.00 and had prospective employers shoulder the cost of deployment. Since then, cutting criticism of the improper and impartial implementation of the HSW program has been made by civil society groups who have charged the government with selective implementation (minimum wage, for example, has been variably set), and loopholes such as the use of contract substitution. Recent developments3 have shown that the Philippine government is taking preliminary steps to better the policy by seriously looking into bringing HSWs home. POEA Administrator Hans Cacadac has announced a “phase out program” that has begun with a review of the overseas HSW data, such as education, job profile, age, gender and region of origin: “The first step is to identify prospective (sic) their skills, further develop these skills, and then move on to the industries through those government agencies.”Cacdac points out that this phase out is part of a “broader program to help provide job options other than domestic work but states that “high-paying and protective” work in this category may be allowed to continue. (Ruiz, 2012) Civil society groups have lauded this initiative and stressed that root causes such as poverty must be clearly addressed by such a program.4 Locally, the Philippine legislature recently passed the Kasambahaylaw or “An Act Instituting Policies for the Protection and Welfare of Domestic Workers, (RA 10361)” which provides for access by local domestic helpers to social security (SSS), health insurance (Philhealth), and housing loan facilities (pag-ibig) as well as guarantees for wages, and workdays and other protections. The legislative measure, in compliance with the Philippine government’s signing of ILO 189, is currently being implemented, with compliance expected for the country’s 3 Earlier pronouncements included one that vowed the decrease of female OFWs, and stated that the government intended to deploy male OFWs instead, who were less vulnerable. The author has not included this is the list of possible reforms as there seems to be no concrete mechanism by which this can be pushed. 4 There are also groups that are doubtful of the positive outcome of any such “phase out” program, stating that the number of HSWs has actually increased in the last year (2012) and that “phase out” and stricter deployment may encourage the increase the number of undocumented workers. 31 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 estimate 2.5 million domestic workers required by the end of June 2013. Both initiatives (phase out of HSW and the passage of the Kasambahay Law) show that the government has indeed taken concrete measures to protect these most vulnerable sectors in Philippine labor, whether domestically or internationally located, in consonance with international commitments such as those with the ILO 189. While these initiatives may seem exclusive, they still illustrate to diverse publics (international community, receiving countries, international organizations) that labor protection to vulnerable sectors is supported at the domestic base and is expected at the international level as well. Especially since both initiatives are supported by highly involved organizations that are equally immersed in both domestic and international initiatives and serve as a loose network to push for reform. It is in their active lobby that the Philippine state gains a unified face. Central to the passage of initiatives is the consistent lobby of civil society groups.Ellene Sana of the Center for Migrant Advocacy explains that their groups’ participation in the lobbying for the Kasambahay bill and reforms in the HSW sector adds depth to the overall position of the Philippines, especially when lobbying for privileges and protections at the international level. As she puts it “it puts the Philippines on moral high ground,” – alluding to the consistent stand of the country on rights for both the domestic kasambahay and the the HSW abroad, regardless of the difference in their context and situation. Current leadership of POEA is also open to the continued cooperation with civil society groups (beyond mandated participation by civil society groups). This enhanced participation potentially can filter recommendations beyond policy consultations and into the realm of policy making and implementation. Conclusion and Recommendation Many factors feed into the labor migration debate in the Philippines. At this point, all stakeholders agree that it is highly unlikely that labor migration flows will cease. There are variations in consensus on the whether or not the outflow will taper off (to a certain extent, this depends on not only internal institutions but also global demands for migrant labor), and whether there will be qualitative shifts in the types of labor migration (from domestic work to professionals, or changes in preferred destinations, levels of political participation, ties with 32 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 the Philippine state) but the time frame is rather fluid on when these changes will take place, and whether they can finally match the logic of a “no labor export policy” that previous administrations have continually espoused. At this point, the Philippine government seems to be taking rational steps towards in this direction, as government agencies are not only seeking to increase protections afforded to vulnerable sectors, such as HSWs, but also addressing key more systemic issues of domestic un/underemployment and industrial policy. With this perceived shift in government policy, civil society, although continually playing counterpoint and critic, has emerged as a reliable voice in providing cohesive direction and unified lobby for domestic social policies (such as the kasambahay bill) and international issues (such as the protection of HSWs). Recommendations from this paper include: 1. The continued strategic effort to improve the state of PhilippineIndustrial Policy, which has been chronically overlooked in past two decades. Experts warn that this process is a slow and tedious one that will outlive the current Administration of Benigno Aquino III. It is crucial at this point to have continuity in government, as has been the case of the civil society lobby for domestic workers. 2. The addressing of Industrial policy must be complimented by education sector reforms that address the needs of the domestic Philippine economy. This means, among other things, avoiding the priming of our graduates for careers overseas. 3. Government agencies such as POEA should make good on initiativesfor the phase out of HSW. Empirically gathering evidence is a good start, as agencies begin to think counter intuitively to the convention of crafting reactionary policy. 4. In this process, government agencies should still pay close attention to undocumented workers, for they are most likely to be in the most vulnerable of circumstances where seeking government help is not necessarily the first option because of their undocumented status. 33 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Bibliography Center for Migrant Advocacy (2011) “Survey Research on the Effectiveness of Household Service Worker (HSW) Policy Policy Reform Package” http://centerformigrantadvocacy.files.wordpress.com/2012/06/household-service-workerspolicy-reform-package.pdf Center for Migrant Advocacy (2012) “Submission to the UN Committee on Migrant Workers : For the List of Issues Prior to Reporting of the Philippine Government in Preparation for the Committee on Migrant Workers’ 16th Session 16-27 April 2012” http://www2.ohchr.org/english/bodies/cmw/docs/ngos/CMA.Philippines.CMW16.pdf Center for Migrant Advocacy (2012) “Migration and Development: Protecting the OFWs and the Changing Migration Status Quo for Development. Quezon City : CMA and WGM Ateneo de Manila University Political Science Department. De Guzman, Odine (2003) “Overseas Filipino Workers, Labor Circulation in Southeast Asia, and the (Mis)management of Overseas Migration Programs” http://kyotoreview.cseas.kyotou.ac.jp/issue/issue3/article_281.html Dioquino, RA (2012) “The Philippines to Deploy More Male Domestic Helpers in 2012” http://www.gmanetwork.com/news/story/239752/pinoyabroad/poea-to-deploy-more-maleofws-in-2012 Dy, Jacob Richard (2012) “The Philippines cited for Domestic Worker Protection.” http://meco.ph/mecog/index.php?option=com_content&task=view&id=1029&Itemid=154 Gonzalez, Joaquin L. (1998) Philippine LabourMigration: Critical Dimensions of Public Policy. Singapore : Institute of Southeast Asian Studies. “Household Service Workers Outnumber Skilled OFWs” (2013) http://globalnation.inquirer.net/72705/household-service-workers-outnumber-skilledofws#ixzz2Wu26ZP9e Medina, Andrei and Polumbarit, Andera (2012) “How Martial Law Helped Create the OFW Phenomenon” http://www.gmanetwork.com/news/story/275011/pinoyabroad/ofwguide/how-martial-lawhelped-create-the-ofw-phenomenon Orbeta, Aniceto (2012) “Protecting Vulnerable OFWs: The Case of the Filipino Household Service Workers (HSW)” http://www.pids.gov.ph/policynotes.php?id=5095&pubyear=2012 Philippine Overseas Employment Agency (2012) “Overseas Employment Statistics” http://www.poea.gov.ph/stats/2010_Stats.pdf 34 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Philippine Overseas Employment Agency (2010) “2007-2011 Employment Statistics” Ruiz, Ramona (2012) “The Philippines Aims to halt migration of domestic workers.” http://www.thenational.ae/news/uae-news/philippines-aims-to-halt-migration-of-domesticworkers Sana, Ellene, Personal Interview, 11 July 2013, Quezon City, Philippines. Sayres, Nicole J. (2005) “An Analysis of the Situation of Filipino Domestic Helpers”, http://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-bangkok/---ilomanila/documents/publication/wcms_124895.pdf SENTRO and WGM, Department of Political Science, Ateneo de Manila University, Roundtable Discussion on Philippine Industrial Policy, 3 July 2013, Quezon City, Philippines. Tigno, Jorge V., editor (2013) Interrogating Migration: New Questions and Emerging Trends in the Philippines. Quezon City : Philippine Social Sciences Council. Yamanaka, Keiko and Piper, Nicola (2005) “Feminized Migration in East and Southeast Asia : Policies, Actions and Empowerment.” http://unrisd.org/UNRISD/website/document.nsf/ab82a6805797760f80256b4f005da1ab/06c9 75dec6217d4ec12571390029829a/$FILE/OP11%20web.pdf 35 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The Right Based Approach and Gendered Dimension In Indonesia Case Study Tri Nuke Pudjiastuti Research Center for Politics – The Indonesian Institute of Science Tóm tắt Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích về quyền của lao động nhập cư, trong đó xem xét các vấn đề giới trong thực tế lao động Indonesia di cư ra nước ngoài, đặc biệt là nhóm nữ di cư lao động phổ thông. Indonesia, thuộc về nhóm quốc gia gửi lao động di cư ra nước ngoài, có những quy tắc và định chế để đối phó với vấn đề này và thậm chí thủ tục và cơ chế chuyển giao lao động ở mỗi khu vực cũng đã được ban hành. Chính sách của Indonesia đã đạt được mục tiêu nhưng vẫn còn phải tiếp tục để thúc đẩy việc bảo vệ quyền lợi của người lao động. Hơn thế nữa, có nhiều yếu tố có thể cản trở việc nâng cao hiệu quả thực thi chính sách chủ yếu là do việc quản lý chính sách chất lượng ở nơi lao động Indonesia nhập cư đến không hỗ trợ các dịch vụ cho lao động nhập cư. Hơn nữa, việc thiếu các chính sách hành động hỗ trợ ở cấp địa phương, vốn gần gũi liên quan đế việc phân cấp hệ thống chính trị ảnh hưởng đến quá trình di cư của lao động Indonesia. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp, lao động di cư bất hợp pháp đã trở thành một trong những thách thức chủ yếu của chính quyền Indonesia. Hầu hết lao động nữ di cư thường lao động trong lĩnh vực phổ thông, tay nghề thấp. Nó là kết quả của một số yếu tố liên quan đến nhau, nó không chỉ là chính sách, thể chế, nhận thức, các cơ quan ban ngành có liên quan đến lao động di cư 36 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Introduction Migration is not a new phenomenon in Indonesia; it has been occurred for hundreds of years with different types of migration.5 The situation of Indonesian migrant workers has changed since the New Order; at that time, they started to be a part of Indonesian formal policy, which indicated by the introduction of Government Regulation No.4 of 1970, that regulation introduced the special institutions. Since that, Indonesian Government has special policy in the mobility of Indonesian migrant workers.6 There are many progresses in regulations, policies and programs for the Indonesian migrant workers, especially after financial crisis in 1998. Indeed, the migration is as vital to government’s development programs, partly because it could reduce the unemployment and provide training and others because of the worker remittances. Moreover, in the reformation era, even though there are many correction of policy and implementation has been done, Indonesia as one of the labor-sending countries are still the majority concentrated in the informal sector and female faces complex challenges, not only in terms of regulations and policies, but also in the implementation of its placement and protection. This paper will discuss mainly about the trend of protecting the Indonesian migrant workers in the reformation era, particularly low skilled female migrant workers. It starts with discussing the position of low skilled female labor migrant in the Indonesian migrant workers. The situation becomes worse, because of the lack of protection in the legal framework and implementation for the Indonesian migrant workers. Then, it follows by the main problems of their mobility, which put them in the trafficking in persons. The last point will talk about the future challenge for developing the rights of low skilled Indonesian female migrant workers. The Trends of Feminization Mobility The story about low skilled female migrant workers seems never ending subjected to discuss. For time to time, the trend number of registered female job seekers is still much higher than 5 Before the New Order, the type of migration was in individual or because of family mobility. It started in the nineteenth century during the Dutch colonial period Indonesian migrant workers started, which mostly under ‘contract-coolie’ for plantation in the Dutch’s colonies. In Rianto Adi, “Irregular Migration from Indonesia”, in Graziano Battistella and Maruja M.B. Azis (Eds.), Unauthorized Migration in Southeast Asia, PhilippinesQuezon City: Scalabrini Migration Center, 2003, p.129. Also in Never Ending Struggle: The Condition of Migrant Workers. Jakarta: TIFA, 2000, p.3. Before the New Order, migration was in individual or because of family mobility. 6 At that time, some researches show that there were around 60 percent of Indonesian labor migrants in Middle East, which mainly in Saudi Arabia. Rest of them has been deployed in Southeast and East Asia, particularly in Malaysia, Taiwan, Singapore, and Hong Kong SAR, in BNP2TKI News, 2011. 37 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 7 male in Indonesia. Data from Directorate of Market Labor Development, Ministry of Manpower and Transmigration indicates that in 2011 the total number of female job seekers was still slightly higher than the number of male job seekers. In the Figures below show, that the first three age groups dominate job seekers in the labor market, but a high percentage of age is the age of the first two groups and the highest one is in around 20-29 years old. They also point out that the total number in the low-level education was higher than in the high education in the registered job seekers.8 Whereas the data from Indonesia Statistics Bureau (Badan Pusat Statistik / BPS) indicates that in August 2011, workers at the elementary school education still dominated at around 54.2 million people (49.40 percent), while workers with diploma approximately 3.2 million people (2.89 percent) and workers with undergraduate education only by 5.6 million people (5.15 percent).9 Although not obtained detailed data showing the correlation between women's employment and low education, the data from both government institutions in general shows the female workforce, as male the workforce was in the low education groups. Figure 1 Figure 2 The Registered job seekers in Indonesia The Population age 15 years and over by sex and ages in 2011 who worked in Education in 2011 (million people) 2,000,000 60 50 40 30 20 10 0 1,500,000 Male 1,000,000 Female 500,000 Total 15-19 30-44 55+ Source: Directorate of Market Labor Development, Ministry of Manpower and Transmigration, 2012. In term of the number of female migrant workers has been on the rise, such as they were increased from 89 percent in 1992 to 91.5 percent in 2001 of the total Indonesian migrant workers. Even though they dropped to 82.8 percent in 2004 and 64 percent in 2004, their 7 Directorate of Market Labor Development, Ministry of Manpower and Transmigration, 2012 Ibid. 9 Berita Resmi Statistik No. 74/11/Th. XIV, 7 November 2011 8 38 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 10 number is still much higher than male’s number. Table 1 The Indonesian Migrant Workers by Type of Job Status and Gender in 2011 and 2012 Type of Status Formal Informal Others Total Male 2011 2012*) 205,114 11,892 4,997 186 5 2 212,127 12,080 Female 2011 2012*) 61,042 3,313 315,275 18,456 378,328 21,769 Note: *) until May 2012 Source: Data processing by Center for Indonesian Manpower Statistics. The data from BNP2TKI and Ditjen Binapenta, Ministry of Manpower and Transmigration, 2012. Although the amounts present in the government data did not reflect the total number of migrant workers, but at least in 2011 and 2012 similarly, as table above, the trend number of female migrant workers was much higher in informal sectors than male. The Indonesian female migrant workers are spread across different destination countries,11 as table below, such as the number of Indonesian female migrant workers is much higher than male to the six main destination countries. It means that Indonesia is one of the nine higher number sending countries in Asia still in feminization migration until today. Table 2 Placement of Indonesian workers in the six main destination countries by gender in 2006-2012 Year N Destina o tion Total 2006 M 1 2 Saudi 2007 F M 2008 F M 2009 F M 2010 F M 2011 F M TOT 2012*) F M F AL M F 20,7 260, 22,0 235, 33,3 201, 24,9 251, 25,2 203, 27,0 110, 7,87 3,93 161, 1,266, 2,855, Arabia 30 357 86 131 07 337 09 724 65 625 02 641 5 9 174 754 856 Malays 103, 116,5 110, 111,4 84,9 102, 62,5 61,3 74,5 41,4 95,5 38,1 31,7 14,5 563, 485,6 2,097, ia 107 51 780 18 78 145 12 74 59 97 41 22 49 47 226 54 760 3 Taiwan 3,89 41,81 5,23 45,5 5,87 53,6 6,05 53,2 7,43 54,6 15,2 63,6 6,06 24,6 49,7 337,1 773,8 10 BNP2TKI, 2012, p.1. Since 2006 until May 2012 there are indicated the top destinations for Indonesian migrant workers: Saudi Arabia, Malaysia, Taiwan, Singapore, United Emirate Arab (UEA), Hong Kong, Kuwait, Qatar, Jordan, Oman, Brunei Darussalam, South Korea, USA and Bahrain. Data from National Agency for Placement and Protection of Indonesian Migrant Workers, 2012. 11 39 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 5 4 1 8 72 8 44 7 78 2 16 00 46 8 01 68 68 72 Singap 27 28,6 88 37,4 25 21,7 18 33,0 75 39,5 6,93 40,8 3,79 16,6 10,9 217,9 457,7 ore 34 08 82 59 48 0 51 1 39 54 21 50 United 395 22,2 1,50 26,6 5,56 32,5 1,59 38,8 1,33 36,0 4,42 35,4 1,83 12,4 16,6 204,1 441,6 5 Emirat 90 9 75 5 27 1 00 4 03 7 30 7 37 58 62 40 e Arab 6 Hong 857 19,2 12 Kong 43 29,9 12 30,1 16 32,4 23 33,2 1,16 49,1 332 17,9 2,41 212,0 428,9 61 92 01 39 1 22 05 3 63 52 Note: *) until May 2012 Source: National Agency for Placement and Protection of Indonesian Migrant Workers, 2012 Unfortunately, as already mention above, there are many complexity problems with regards the rights of female migrant, which starting from departure, destination and return back. Without discouraging the success of many Indonesian female migrant workers, the cases of female migrant working in the informal sector or as domestic worker turn from time to time to increase the number and variety of issues. The Generic Rights of Female Migrant Workers The fundamental rights of female migrant workers, as human beings, has been universality acknowledge in international law instrument.12 However, they contain very few on specific references to the rights of migrants, particularly female migrants.13 Talking about rights of female migrant workers, actually are simple the human rights of all people, applied without discrimination to the female, as well as to the male migrant workers. In relation to this view, actually still many debates, such as some argues indicate that the distinction pertains to the human rights of female in various ways and the kind of threats are more or different vulnerable than male. The threat actually relates with the traditional conception of the household division of labor. It means that dependent structure of social life can produce situations in which female’s interests are vulnerable to different threat to those of male.14 It means not discrimination views should be attentions concerning the public and private spheres of low skilled female migrant workers. This idea actually considers to the phenomenon of specific vulnerability, because certain important interests of female are 12 Such as the most significant instruments are the Universal Declaration of Human Rights (UDHR), The International Convention on the Elimination of All Forms of Racial Discrimination (CERD), The International Covenant on Civil and Political Rights (ACCPR), The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (ICESOR), and The Convention on the Rights of the Child (CRC). 13 International Council of Human Rights Policy. Irregular Migration, Migrant Smuggling and Human Rights: Towards Coherence. Geneva: ICHRP, 2010, p.49-54. 14 Charles R. Beitz. The Idea of Human Rights. New York: Oxford University Press. 2009, p.187-188. 40 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 15 subject to gender specific forms of abuse. Indonesia already ratified almost all those conventions related with human rights of migrant workers.16 The specific UN conventions related with migrant workers are the Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women (CEDAW), Convention against Torture and other cruel in human or degrading or punishment and then the specific protections provided under the International Convention on the Protection of the Rights of All Migrant Workers and Members of their Families. (ICRMW). The first and last one are conventions put the female migrant in the special framework. In many ways, the general human right seems Indonesia did not face any difficulties, even Indonesia is one of ASEAN countries member that has national human rights body (National Committee of Human Rights). Special with ICRMW, at the end Indonesia become a state party to this convention. It seems to be party to the Convention is very tough and difficult to materialize. It indicated when there was the commitment to ratify that UN Convention, it never realized despite there have been the 2 times the Action Plan on Human Rights in Indonesia. Indonesian government needs more time to provide adequate standards of protection with the standards of international laws on the rights of migrant workers. Moreover, Indonesian government needs to ensure the compatibility of internal migration policy, procedure, and national legal system with international convention, which ensures to adopt in the national regulation to fight for the rights of migrant workers. Lack of Protection in Legal Framework In the early reform period of Indonesia reformation, actually there were several public regulations of placement of migrant workers. It started with Ministerial Decree 204 of 1999, which more focused on the obligation of agencies for the placement and recruitment activities in migration process. However, the scopes of migrant workers’ protection seem not enough explanation. The Articles in this decree seem that give more strengthened the position of private recruitment agencies in the migration process. Following effort to improve the management of Indonesian migrant workers, there was Ministry of Manpower and Transmigration Ministerial Decree 104A of 2002. This decree actually was an early prototype for the formal recognition by the government of the need to regulate labor migration. It indicated that there was “vulnerable worker’ sector, such as domestic services and caregivers. It was a tool to support Indonesian migrant workers, particularly vulnerable to various 15 Ibid. p.189. BNP2TKI informs that beside there are three main Conventions that Indonesian already ratified, there are 18 ILO Conventions with regards to human rights that Indonesia has ratified. http://www.bnp2tki.go.id/ (accessed on 2 August 2013). 16 41 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 exploitative practices, abuse and violence (physical, psychological and sexual). However, in many cases the decree could not address the underlying driving forces in the destination countries, which there were large numbers of Indonesian female continued migrate as domestic workers through both regular and irregular channels. This decree also failed to produce the role of government in migration process, which predominant with agencies. Because of the Indonesian government’s failure offer protection to migrants, numerous organizations have raised concerns over the treatment of Indonesia’s overseas workers, and the situation in which they are recruited both government and non-government channels. In 2004 for the first time Indonesia has special law for migrant workers, it was Law 39 of 2004 on Placement and Protection of Indonesian Overseas Workers. Indonesia has tried to promote the strengthened the position of private recruitment agencies, the right of migrant workers and establishment institution special for managing the flow of migrant workers. Moreover, the law clearly states that only Indonesian migrant workers with formal channel and work in the certain period will be protected. When the migrant workers find themselves becoming irregular, which many cases it is constructed by the agencies, they are not covered and will not receive protection under this law. Unfortunately, some research show the low skilled and informal sector for some instances, Indonesian labor migrants have found themselves working in slave-like conditions.17 Actually, protection still is the main problems not only in the implementation, but also in legal formal. The Law 39 of 2004 in many parts does not ensure the protection of all parties, and exclusion of a gender perspective from recruitment, training, placement until returning seem not enough transparent. As Amnesty International mention that actually there are the system and procedure, but one of the important thing is the strengthen monitor of all process and law enforcement need to do in the future.18 That law has strengthened with some regulations: - Ministerial Decree 1 of 2012 on the Insurance of Indonesian Overseas Workers - Ministerial Decree 16 of 2012 on the Procedures of Indonesian Overseas Workers Return - Ministerial Decree 17 of 2012 on Administrative Sanction for Placement and Protection of Indonesian Overseas Workers Even though, there are many kinds of regulations for migrant workers generally, again most 17 Rebecca Surtees, “female Migration and Trafficking in Women: The Indonesian Context”, Development, 46 (3), 2003, p. 102. Also, reading: Sally Cameron, Trafficking and Related Labour Exploitation in the ASEAN region, Utrecht: International Council on Social Welfare, 2007, p. 50-57. 18 Amnesty International, Indonesia: Briefing to the UN Committee on the Elimination of Discrimination against Women, England: Amnesty International, 2012, p. 19-20. 42 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 of articles are talking about the recruitment-placement- returning agencies than protection of migrant workers. Because of many pressure from NGOs that concerning with migrant workers, particularly female migrant workers, such as the fighting spirit NGO "Migrant Care", which intensive criticism, advice and advocacy to female women migrant.19 Indonesian Government and Parliament have agreed to revise draft new law of placement and protection Indonesia worker abroad. The House of Representatives Commission IX wasted spent three years discussing the revision of the Act, which should include 35 workers and family rights in accordance with the convention, criminal sanctions for private and state officials who ignore the protection of migrant workers, as well as the decentralized service free workers. Parliament and government are discussing the draft Protection of Indonesian Overseas Workers were entitled to Parliament initiative to replace Law 39 of 2004 on the Placement and Protection of Indonesian Workers Abroad. Parliament initiative happen, because nearly 80 percent of the contents regulating the implementation of private placement of Indonesian workers. Nevertheless, the government's commitment to strengthen the protection of Indonesian workers, wherever they may be re-questioned. Draft Bill on Protection of Indonesian Overseas Workers version emphasizes the role of the government was a private in the recruitment, placement and protection of Indonesian workers. The draft version of the government is worse than the draft of the House of Representatives. 20 Actually, in the presence of Act 6 of 2012 on Ratification of the 1990 International Convention on the Protection of Migrant Workers and Their Families could become the foundation of both parties. In this case, it was not adopt the substance and spirit of the convention. Institutions of Managing the Migrant Workers Regulating agencies is one of important issues in Indonesian migrant, because there is many private agencies are managed without any rule of migration in Indonesia. Through Law 39 of 2004, it was mandated to establish special institutions to deal with Indonesian labor mobility abroad. Then, issued Presidential Instruction 81 of 2006 to create and regulate the existence, function, duty and structure the special institution and established as the National Authority for the placement and Protection of Indonesian Overseas Workers (Badan Nasional Penempatan dan Perlindungan Tenaga Kerja Indonesia /BNP2TKI). This institution will manage the agencies and will substitute the protection of the rights of migrant. Interestingly, before that instruction, in the same year there is Presidential Instructions 6 of 2006, authorizes 19 Look the website of NGO ‘Migrant Care’, which always product and update information about migrant workers, particularly female migrant workers. http://www.migrantcare.net/mod.php?mod=publisher 20 “Draf Pemerintah Dinilai Langkah Mundur”, 06 April 2013. http://www.migrantcare.net/mod.php?mod= publisher&op=viewarticle&cid=8&artid=1565 (accessed on 3 August 2013) 43 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 the creation of a Government-organized labor recruitment agency, the Ministry of Manpower and Transmigration, which is a national agency. As the two government bodies overlooking migrant workers, in many times they faced many problems. At that time, structural relationship between the two was not clear.21 It had been a dualism manager and lead workers pull authority. Once again, the aggrieved is the low skilled migrant workers, which mostly female migrant workers. Actual existence of Ministry of Manpower and BNP2TKI unnecessary contested, when they both identified the duties and functions. In fact, they complement one another, on this issue, the ministry can be supposed as a supervisor and that determines the main policies, which is then operationalized by BNP2TKI.22 In the implementation, BNP2TKI builds coordination with many others government and private institutions, for building the special unit for migrant workers’ protection is not only in the national level, but also in the local and destination level. Special for destination, actually the position of migrant workers are similar with other Indonesian citizen abroad for protection. Even though, still many problems in abroad for low skilled migrant workers, Indonesian Government already moved on putting Indonesian citizen abroad become subject of protecting.23 Base on function of Embassy and Directorate of the Protection of Indonesian Citizens and Law Agencies, Presidential Instruction 6 of 2006 mandates the reform of the system of placement and protection of the Indonesian workers. Ministry of Foreign Affairs in collaboration with the Ministry of Manpower established the Citizen Services Units or the one-stop citizen service centers for handling the problems of Indonesian migrant workers. There are more than 20 units now at embassies and consulates special for Indonesian migrant workers.24 Picture 2 The Special Unit for Migrant Workers Protection 21 Koesrianti, “Kewajiban Negara Pengirim dan Negara Penerima atas Perlindungan Pekerja Migran”, Jurnal Diplomasi, Maret, 2010, p. 28. 22 Tri Nuke Pudjiastuti, “Ratifikasi Konvensi International tentang Pekerja Migran: Membuka Kotak Pandora?”, Jurnal Diplomasi, Maret, 2010, p. 95. 23 Concerning Vienna Convention 1963 Article 5, Convention regulates the consular function of a state, mainly on protection of citizens. Indonesia put it through Law 37 of 1999 on Foreign Relations deals with the protection of Indonesian people abroad. In addition, Presidential Decree 109 of 2001 on the Organizational Structure of Ministry of Foreign Affairs has given a significant change on the rise of various issues, including creating the Directorate of Human Rights and the Directorate of the Protection of Indonesian Citizens and Law Agencies. 24 The Ministry of Foreign Affairs has established many units at embassies and consulates in Saudi Arabia (Riyadh and Jeddah), Singapore, Brunei Darussalam (Bandar Seri Begawan), South Korea (Seoul), Malaysia (Kuala Lumpur, Johon Bahru, Penang, Kinabalu and Tawau), Oman, Uni Emirate Arab (Abu Dhabi and Dubai), Qatar (Doha), Singapura, Syria (Damaskus), China (Beijing, Hong Kong and Ghuang Zhou), Yaman (Sanaa), Jordan ( Amman), Kuwait, Japan (Tokyo and Osaka), Australia (Sydney, Darwin and Perth), USA (New York City and Los Angeles). 44 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Source: BNP2TKI, 2010. As picture above, the idea of protection develops in many layers from family until international for a, which relate with the government institution and the agencies. Institutions for placement and protection of migrant workers, particularly low skilled migrant workers, actually were built in a single system. From the first layer until the last layer, every institution has his-own duty and responsibility. It means actually beside the right of migrant workers should be as priority, also obligation of the institution should give services to promote and protection the migrant workers. Unfortunately, the complex institutions do not follow well with the implementation of their role. Problem arose when the setting is often dependent interpretation of each sector, which is often not properly woken coordination. The Lack of Migrant Worker Rights: Force Labor and Trafficking While the Government’s initiative to protect labor migrants is important, the ILO reports that labor migrants from Indonesia, which are exposed to institutionalize trafficking and forced labor practices throughout the entire migration cycle. The cycle is in the mobility of migrant workers since recruitment until returning to home village. 25 No doubt, the progress and improvement of the placement system is conducted by governments and agencies, but still found some important issues as the violation of human rights. Evaluation conducted by the ILO in 2008 and 2012, as well as from the results of other studies look not much changed how many migrant workers who are the majority of domestic 25 ILO, Evaluation Summaries: Combating Forced Labour and Trafficking of Indonesian Migrant Workers (Phase I), 2008. http://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---ed_mas/---eval/documents/publication/ wcms_149843.pdf (accessed on 3 July 2013) and ILO, Evaluation Summary: Combating Forced Labour and Trafficking of Indonesian Migrant Workers (CFLTIMW) Project, Phase II, 2012. http://www.ilo.org/ wcmsp5/groups/public/---ed_mas/---eval/documents/publication/wcms_183977.pdf (accessed on 3 July 2013). 45 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 workers, particularly women experience in vulnerability situation, namely exploitation. Exploitation shall include, at a minimum, the exploitation of the prostitution of others or other forms of sexual exploitation, forced labor or services, slavery or practices similar to slavery, servitude or the removal of organs. Based on the definition of the UN Protocol, there are the National Plan of Action on the Elimination of Trafficking in Women and Children, formulated by Presidential Decree No: 88 of 2002. In 2007, the government together with its parliament passed Law no 21 of 2007 on UU PTPPO (Elimination on Crimes of Human Trafficking). This law provides a mandate to local government to make policies to prevent trafficking and to handle trafficking. In this level, government in all level actually aware with the human trafficking problem appearances by their citizens. Task force has done in stages ranging from the national to the local level. Task Force formed PPTPPO (with 19 Ministries/ Institutions) and has sub task force in 18 provinces, 28 districts/cities and 305 units spread across 33 provinces and 42 Bayangkara hospitals; Trauma Center in the 13 provinces, but many of them still faces barrier coordination and gap of implementation. However, many cases show that it is not surprising that efforts to combat trafficking in Indonesia have not shown a degree of consistency, even it seems that the activities of combating human trafficking has been caused of external pressure. When Indonesia was placed under the Tier-3 category by the U.S. government report on TIPs during the 2002, efforts to combat trafficking began to intensify. These efforts received acknowledgement and won praise in the U.S., which eventually put Indonesia under the Tier-2 category during 2003–2005. However, in 2006, Indonesia was downgraded again to the Tier 2 Watch List before it was placed again under Tier-2 in 2007. In this regards, it has been argued that Indonesia’s response to human trafficking has also been motivated by the need to escape sanctions from the U.S., such as restrictions on fund not only for counter-trafficking measures but also for non-humanitarian and non-trade aids. For example, SBY at that time argued that progress in Indonesia’s efforts to counter human trafficking was driven also by the need to secure access to foreign aid. In other words, Indonesia’s response to the problem of trafficking, which mostly female and children, has been caused by the pressure exercised by the international community, especially the U.S. government. The main factor that creates such a gap can be located in the continuing dominance of statecentric perspective or approach in looking at the problem of human trafficking in Indonesia. The state-centric view tends to prioritize state security over human security. Within this statecentric perspective, counter-trafficking measures in Indonesia have not adequately addressed 46 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 the problem in terms of the victim’s perspective. Such dominance in turn leads to a number of problems that hinder any extraordinary response to the problem of human trafficking. One important example is a female migrant worker from Bekasi who were working in Saudi Arabia. Ruyati binti Satubi (54 years) accused of murdering her employer Khairiya bint Hamid Mijlid with a kitchen knife. Ruyati convicted and executed Saturday on 18 June 2011 then without any notice to the family effort and Indonesian government.26 How ironic, experienced Ruyati beheading occurred shortly after the president gave a speech trying to convince the public of the Conference of the International Labour Organization (ILO) in Geneva, Switzerland. This is clearly degrading human dignity of its citizens and put to shame the face of Indonesia because of what the President not really reflected in the concrete steps and the seriousness of the government in providing protection for Indonesian migrant workers. Sometimes Indonesian government appears excessive attitude or only for imaging in responding to cases of migrant workers, such as when migrant domestic workers facing the death penalty or subjected to violence. Whereas, there are many position of Indonesia in international forum, that should be used by Indonesia to promote the basic human rights of migrant workers, particularly in the trafficking problems. For example, within the framework of ASEAN in fact there have been efforts to fight for the protection of migrant workers to low skilled migrant workers, especially the irregular and trafficking. Unfortunately, it only came out in the first Summit in Indonesia's Chairmanship in ASEAN two years ago in the SBY opening speech, because in the second or last summit in Indonesian’s Chairmanship in ASEAN, that issue was disappear.27 Actually, Indonesia has important position in many international and regional forums, particularly in consultation of migrant workers forums, such as Colombo Process, Bali Process and ASEAN. Conversely, it is more for commitment, information and consultation forums. Even, there is no system in the country and regional management, the role is more with international organization, such as International Migration Organization (IOM), which sometimes their standard for measuring to combat the trafficking not really suitable with local situation. In this case, it seems that government not motivated by the genuine need to protect 26 “Saudi Arabia 'apologises over Indonesia maid beheading'”, BBC, 22 June 2011. http://www.bbc.co.uk/ news/world-asia-pacific-13875683 (accessed on 3 August 2013). 27 Indonesia, as the Chairman of ASEAN 2011, stated that agreed and adopted three joint statements, which the last one talk about “ASEAN Leaders’ Joint Statement in Enhancing Cooperation against Trafficking in Persons in Southeast Asia”. This speech was the Chair’s Statement of the 18th ASEAN Summit in Jakarta on 7 - 8 May 2011 “ASEAN Community in a Global Community of Nations”. However, in the 19th ASEAN Summit in Jakarta on 2011 this statement was gone. 47 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 the victims, in terms of both needs and rights, but more in the state centric perspective and followed the international community. The Complexity of Potential Migrant Workers Human Security There are many complexities of problems among people to decide become migrant workers, which many cases as a victim of trafficking. My study in Karawang, which I believe that it also happen in many places in Indonesia, that there are many factors put the people, particularly female and children become a victim. Some factors that influences highly are poverty, low level of education, shift of culture, changing of industrial area, no job, early marriage, among migrant life and under ages. Many of the concepts developed in Indonesia that one way out of poverty is increasing nonfarm productivity, both in urban and in rural areas "become city" quickly. In this case, the transition through the rural non-farm enterprises is an important stepping stone to move out of poverty, either by connecting rural enterprises to urban growth process, or more importantly, by incorporating businesses in rural areas to the suburbs in the area urban. At least we need to realize that these ideas into effect are strongly influenced by the culture of the local community who are ready to shift from agriculture to non-agricultural businesses. In reality, because of the low level of education and unemployment become a common reason to migrate, make a lot of important information related to the dangers of trafficking in female, less recognized. They are generally covered with persuasion. Moreover, strong reason female influential in the decision to migrate, they often unwittingly entangled in the group of women who do the trade. Look around the house began to look good, have a motor, HP or other consumer goods, making these young women easily tempted to persuade the other party. Even in the few case encountered early marriage is still a lot going on in the villages, where one of them is because they want to help the family. In general, the number one cause is the cause of up to poverty, low education and unemployment that commonly occur in many places in Indonesia. Meanwhile, the fourth reason is a shift in culture, was also the result of a shift in the overall environment. When people are not sufficiently prepared a policy shift from agriculture to industry, which resulted in the number of arrivals to the site and the changing needs of network for life in general, resulting in demands for their living needs increased. The mobility of human trafficking becomes success, cannot be released from some influence of people, who are around them, such as brokers/sponsor (husband, parents, father in law, brother/sister, neighbor and friends) and agencies. 48 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The Future Challenges The rights of low skilled female migrant workers from Indonesia actually still faces complexity situation, not only in the action of migration, but the most important is in the policy and regulation itself should be give more awareness in term of protection to the migrant workers generally, particularly female migrant workers in informal sectors. Even though, the government plans to give more attention to the formal sectors in the future, the huge number of informal migrant workers, particularly female workers, still need manage and put them in the right-based approaches. Despite the fact, there are many progresses in policy and implementation, but still heavy in promoting than protection of their rights. Promoting human rights and develop an instrument for the protection and promotion of the rights of the migrant workers should be integrated in every regulation and implementation. Based on the trend of mobility and the nature, the low skilled female migrant workers, including irregular and trafficking cannot only be realized from their mobility problems, but also how the state's efforts to protect the citizens as a whole, such as education, health and well-being. References “Draf Pemerintah Dinilai Langkah Mundur,” 06 April 2013. http://www.migrantcare.net/ mod.php?mod=publisher&op=viewarticle&cid=8&artid=1565 (accessed on 3 August 2013) . “Saudi Arabia 'apologises over Indonesia maid beheading'”, BBC, 22 June 2011 Adi, Rianto. “Irregular Migration from Indonesia”, in Graziano Battistella and Maruja M.B. Azis (Eds.), Unauthorized Migration in Southeast Asia, Philippines-Quezon City: Scalabrini Migration Center, 2003, p.129-168. Amnesty International, Indonesia: Briefing to the UN Committee on the Elimination of Discrimination against Women, England: Amnesty International, 2012. Beitz, Charles R. The Idea of Human Rights. New York: Oxford University Press. 2009. Berita Resmi Statistik. No. 74/11/Th. XIV, 7 November 2011 BNP2TKI News, 2011. Cameron, Sally. Trafficking and Related Labour Exploitation in the ASEAN region, Utrecht: International Council on Social Welfare, 2007. Directorate of Market Labor Development, Ministry of Manpower and Transmigration, 2012 http://www.bnp2tki.go.id/ (accessed on 2 August 2013). ILO, Evaluation Summaries: Combating Forced Labour and Trafficking of Indonesian Migrant Workers (Phase I), 2008. http://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---ed_mas/--49 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 eval/documents/publication/wcms_149843.pdf (accessed on 3 July 2013) ILO, Evaluation Summary: Combating Forced Labour and Trafficking of Indonesian Migrant Workers (CFLTIMW) Project, Phase II, 2012. http://www.ilo.org/ wcmsp5/groups/public/--ed_mas/---val/documents/publication/wcms_183977.pdf (accessed on 3 July 2013). International Council of Human Rights Policy. Irregular Migration, Migrant Smuggling and Human Rights: Towards Coherence. Geneva: ICHRP, 2010. Koesrianti, “Kewajiban Negara Pengirim dan Negara Penerima atas Perlindungan Pekerja Migran”, Jurnal Diplomasi, March, 2010, p. 20-42. National Agency for Placement and Protection of Indonesian Migrant Workers, 2012. Never Ending Struggle: The Condition of Migrant Workers. Jakarta: TIFA, 2000. Pudjiastuti, Tri Nuke. “Ratifikasi Konvensi International tentang Pekerja Migran: Membuka Kotak Pandora?” Jurnal Diplomasi, March, 2010, p. 89-102. Surtees, Rebecca. “Female Migration and Trafficking in Women: The Indonesian Context”, Development, 46 (3), 2003, p. 99-106. The Chair’s Statement of the 18th ASEAN Summit in Jakarta on 7 - 8 May 2011 “ASEAN Community in a Global Community of Nations”, ASEAN Secretariat, 2011. 50 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Korean policy development on low-skilled/low wage migrant workers Nguyen Nu Nguyet Anh (MPhil candidate) and Prof. Nicola Piper The University of Sydney Tóm tắt Sau khi trải qua giai đoạn phát triển thần kì từ thập niên 1980, Hàn Quốc trở thành điểm đến chính cho dòng dân di cư thiếu tay nghề/thu nhập thấp từ những nước kém phát triển hơn, bao gồm sáu nước Đông Nam Á. Lao động di cư thường làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhóm ngành nghề gọi tắt là “3D”, đó là những nghề không vệ sinh, nguy hiểm và khó khăn, vốn là những việc người bản địa từ chối làm. Thêm vào đó, thu nhập và phúc lợi xã hội kèm theo của họ cũng thấp hơn so với người lao động Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc đã thay đổi chính sách dành cho lao động nhập cư thiếu tay nghề/thu nhập thấp từ mô hình Chương trình đào tạo Kỹ thuật và công nghệ cho người nước ngoài (1991), Chương trình hậu đào tạo cho người nước ngoài (1998) và Hệ thống cấp phép lao động (2004) vốn được xem như là một bước cải tiến có ý nghĩa đối với mô hình cũ trước đó. Tuy nhiên, bản thân mô hình này cũng đã thể hiện những mâu thuẫn nội tại trong chính các mục tiêu. Một mặt, nó nâng quyền nhiều hơn và cho phép mở rộng mạng lưới hỗ trợ lao động di cư. Nhưng mặt khác, nó lại ưu tiên cho người sử dụng lao động hơn và tạo ra sự phân biệt đối xử giữa lao động bản xứ và lao động nước ngoài. Bài viết này bắt đầu bằng viết thảo luận các thay đổi trong chính sách của Hàn Quốc đối với lao động nước ngoài thiếu tay nghề/thu nhập thấp nhằm cân bằng lợi ích của các doanh nghiệp bản địa với quyền của lao động nước ngoài. Mục tiêu tiếp theo của bài viết thiết lập sơ đồ mạng lưới hỗ trợ lao động nhập cư bởi các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. Tác giả bài viết sẽ phân tích những hạn chế của các chính sách dành cho lao động nhập cư thiếu tay nghề/thu nhập thấp qua góc nhìn của lao động di cư, đặc biệt là những lao động trái phép và các nhà hoạt động vì quyền của người lao động. Bài viết sẽ tập trung lý giải cách thức chính phủ Hàn Quốc đối phó với nhu cầu bảo vệ quyền của lao động di cư. 51 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Introduction After experiencing miraculous economic development since the 1980s, the Republic of Korea (hereafter Korea) has become a much desired destination of low-wage migrant workers from less well developed Asia countries. Significant numbers of foreign workers have migrated to Korea to be employed in so-called “3 D” (that is, dirty, dangerous and difficult) jobs in manufacturing, construction, agriculture, and the fishing sector, mostly in small and medium-sized businesses, which indigenous workers refuse to take. In addition to be low-wage jobs, migrants’ salaries and welfare benefits provided by companies are often much lower in comparison with Korean workers doing the same job. According to a survey conducted by Abella and Park (2000, cited in Park 2008), monthly wages of foreign workers accounted for only 74 percent of Korean workers. Policies related to low-wage migrant workers have been amended several times during the last two decades, ranging from the model of the Industrial and Technical Training Program for Foreigners (1991), to the Working After Training Program for Foreigners (1998), to finally be turned into the Employment Permit System (2004) which is considered as a significant improvement from former models. However, this model displays conflicting prime objectives. On the one hand, it provides more rights and broadens support networks for migrant workers. On the other hand, it allows employers to keep the upper hand over employer-employee relations. As Korea’s state-led economic strategy is more concerned with the development of the national economy than individuals’ benefits, such changes of policies toward low-wage foreign labour are an indication of the desire to establish a greater balance between the benefits for native businesses and the interests of foreign labourers (Kim 2011). Because of the nature of its migration policies, Korea hosts a considerable number of migrant workers with undocumented status. When it officially started to be a labour importer in 1987, Korea received 4,217 undocumented foreign workers. The number of migrant workers who held unauthorized status increased rapidly to almost tenfold at 41,877 persons four years later in 1991. The influx of unauthorized migrant workers continuously grew to a remarkable 255,206 persons in 2001; however, the number declined to 45.105 persons in 2011 (Statistics from the Ministry of Justice) due to a strict “crackdown on illegal foreign workers” policy. Issues related to foreign workers, especially undocumented or unauthorized workers have been the concern of many scholars and policy makers as well. Over the last four 52 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 decades, the Asian region (Northeasterns countries as labour importers and Southeastern countries as labour exporters) has witnessed intense cross-border labour migration, especially the mobility of low-skilled/low wage migrant workers. Lowskilled/low wage migrant worker policies of destination countries primarily aim to deal with cyclical workforce shortage of their nations, restricting the long-term settlement whilst putting a lot of resources into border control (Metcalfe 2006, Skrentny 2009, Chung 2010, Seol 2005). Athukorala (2006) discussed the structural shifts in Aisan labour markets, pointing to trends and solutions employed. Economic and structural changes of destination countries strongly influence labour demand and supply trends (Manning and Fong, 2002). A group of scholars such as Hugo (2009), Raghuram (2009), Piper, Asis and Raghuram (2009) are have analyzed the nexus between labour migration and development. Although low-skilled migrant workers are at the lowest rung of the labour force and subject to “the race to the bottom” (Lim 2003), they are constructed as “agents of development” and to contribute to the economic development of both the origins as well as destinations. In order to enhance their capability to do so, however, they need to be treated equally in terms of payment and other social benefits. In other words, migration governance does not work without labour governance. To support foreign workers and advocate for their human rights, particularly their labour rights, networks of non-governmental organization have been formed, attempting to influence public opinion and government amendments of foreign worker policies. Piper (2004) argues that adequate protection for migrant workers who are categorised as a vulnerable group in terms of exploitation and social discrimination would help them to gain more social-economic benefits. Foreign workers are not only subjected to wage differentials compared to native workers but also to social discrimination (Seol and Han 2004a). The situation becomes worse in the case of undocumented workers. Because of their unauthorized status, those workers’ rights and social protection are limited (Seol 2000, 2004). Shipper (2012) analyses the influence of ‘‘associative activism”, namely legislative, juridical, and municipal in protecting foreigners’ rights in the context of relatively homogeneous societies such as South Korea, Japan and Taiwan. Moreover, Korean activists suggest adapting international norms and more concerted advocating on behalf of a migrant worker movement to gain true democracy of the nation (Kim 2009).In contrast to activists’ objectives, however, Seol (2001) argues that Korean policy makers’ goal is to observe 53 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 international norms and standards only as long as they do not threat the state sovereignty. In sum, foreign workers are subjects to several studies analysing their situation from various angles. However, arguments on issues related to low-skilled/low wage migrant workers’ policies and support networks have not been criticised based on the viewpoint of activists and individual migrant workers themselves. It is therefore such “bottom up” perspective that this paper tries to develop. This paper aims to discuss the development of policies on low-wage migrant workers as well as mapping the support network for migrant workers provided by governmental organisations and non-government organisations. The authors will analyse the restrictions of current low-wage foreign labour policy from the viewpoint of migrant workers’ benefit and well-being, with particular focus on undocumented migrant workers as well as activists’ strategies regarding the protection of migrants’ labour right on the basis of a study on Vietnamese labour migrants to Korea. The fieldwork for this study was carried out in Nghe An Province (Vietnam) and Uijungbu, Shihung and Ansan city in Gyeonggi Province (South Korea) from February to April in 2013, which consisted of 4 in-depth interviews with senior personnel of relevant NGOs, 30 Vietnamese migrant workers (in Korea) and one representative of a recruitment agency, 3 migrant workers visiting their home country, 16 workers returned back Vietnam and 11 family members of migrant workers (in Vietnam) as well as participant observation. Economic, Political and Socio-Cultural Context of Migration to Korea Economic context The Second World War (1939-1945) and later Korean War (1950-1953) brought devastating outcomes for Korea. However, after being selected as Korea’s President, Park Chung Hee and the new Korean junta regime especially focused on economic development policy and enhanced political strength for their country internationally. Since then, after establishing the first Economical Planning Board (in 1961) whose major aims were the exporting of goods and thus export-led industrialization, the Korean economy has experienced many changes. Over 50 years, Korea only witnessed economic contraction in two years, in 1980 after the second oil crisis and the assassination of President Park Chung Hee, and in 1998 when the Asian financial crisis hit (Noland 2012). 54 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Korea pursued a state-led development strategy, inherited from the Yi dynasty in which the state extensively intervenes in all aspects, especially economic. According to statistics on Korea, the corresponding figures of its Gross Domestic Product in 2001 and 2010 were 504.6 billion dollars and 1,014.3 billion dollars respectively, i.e. GDP doubled over the last 10 years. Besides, the average annual growth rate of the mentioned period shows a stable development at 3.0 percent. This index is anticipated to remain stable if there is no unexpected change of the economy. The Korean economy is now ranked as same as the economy of Spain and the Netherlands (Kang ad et al 2011). This is regarded as the most miraculous development story over the last half century. Yet, Korea has also been influenced by the global spreading of neoliberal economic policies partly due to enhance competition in Asia and beyond. This results in squeezing of wages at the lower end of the production chain, precarisation and casualisation of the workforce. Foreign workers fill the labour force gap in the increasingly low-wage sectors. Since Koreans concern about the quality of working life, 3-D jobs is categorized as undesirable even if wages are slightly increased. Thus, migrant workers do not compete with Koreans but take jobs which do not attract native workers. Besides, Korean employers want to recruit diligent and hard-working employees with low wages, migrant workers are an adequate work force. Seol (2012) argues that migrant workers benefit Korean workers, Korean employers in particular and the Korean economy in general. They are regarded as “rescue force” who fill up the severe shortage of labour force of Korea. Socio-cultural context Korea had maintained a comparatively homogeneous society since 2333 BC when Dangun established the first state of Korea peninsula. Since the foundation of Korea in 1948 until the early 1980s, Koreans had limited contact to foreign cultures. The Korean war in the 1950s which resulted in relationships between Korean women and US American soldiers which were frowned upon, especially when the soldier was black. Two big events, namely the Asian Game in 1986 and the Olympic Game in 1988 also open the Korea door to external cultures. However, from 1990s, the Korea government started receiving foreign labourers from China and some Southeast Asian countries through the Industrial Trainee System. Due to coming from lower developed countries, these migrant workers have experienced discrimination in treatment and payment compared to native workers who are doing the same work (Han 2004a). 55 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 In 2000s, a great influx of marriage migrants with diverse ethnic background had critically affected the concept of national identity of Koreans who had tried to remain a mono-ethnic nation. The Korean government officially initiated a policy of multiculturalism or multi-ethnic society that supported foreign brides and mixed children of Korean and foreigner spouses in order to support speedy integration into Korean society (Kang and et al 2011, Seol 2006a, 2010). However, these policies are aimed at multi-cultural families with the purpose to assimilate/harmonize foreign brides and their children in terms of culture and language practice, i.e. not for labour migrants. As there are many Koreans who do not accept long-term residence of migrants, the government has received a large number of foreign migrant workers on temporary contracts to fill the shortage of 3D jobs. Over the past four decades, the demographic change of Korea has resulted in a decrease of local labour productivity. The Korea population had increased remarkably from 37.5 million, 42 million and 47 million in the year of 1980, 1990 and 2000 respectively. Yet, it is predicted that its population will start decreasing from the year of 2018. Korea has become an “aging society” as of 2000, with a rising of the proportion of the post-working age people whereas the young working force has plunged considerably (Kang and et al 2011). In recent years, the number of women joining the labour force has increased; however, up to present, Korea is a male-dominated labour force nation, which accounts for 73.0%. A great proportion of post-working age people together with unpaid housewives and the young who refuse to work in 3D or low-wage jobs have caused a severe vacancy of labour in small and medium sized businesses that led to high demand of recruitment foreign workers (Seol 2000; Seol 2005a; Seol 2012). Migrant workers firstly were recruited as trainees and did not obtain full equal labour rights as indigenous workers under the Industrial and Technical Training Program (ITTP) from 1991 to 2003 after Employment Permit Program (EPP) for Foreigners and later Employment Permit System (EPS) were enacted. With the status of trainees, they do not allow to join labour union, collective bargaining and more importantly are not paid as same as native workers, even at floor-level minimum wage. Coming from developing countries and working in 3-D jobs, foreign workers have experienced unequal treatment by Korean employers, unfriendly communication of native workers but there are also concerned local people who are constantly struggling for migrants’ labour rights via working for NGOs towards the elimination of 56 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 discrimination between nationals and non-nationals (Kim 2011). Due to the strength of non-government organisations fighting for labour rights, working conditions and social benefits of migrant workers have improved significantly. From being recruited as trainees in ITTP, the status shifted to workers under EPP and EPS by which migrant workers benefit same rights and insurances as native workers. Besides, the unemployment rate has remarkably reduced from 4.0% to 3.7% within 10 years of 2000-2010 that indicated employment stability (Kang and et al 2011). With all mentioned social conditions, Korea is a favorable choice of foreign workers due to high payment, stable employment rate as well as better working conditions compared to other labour import countries. Korean policy development on low wage migrant workers After the foundation of the Republic of Korea in 1946, the Korean government legislated the “Regulation for Entry and Departure Movement Control and Record of South Korea” which was considered as the first Act of Immigration Law. Until the late 1980s, to control foreign currency outflow, going overseas was restricted for Koreans. After the Korean War, Koreans took utmost efforts to ensure fast economic recovery and development. To gain earnings and hasten the economy, during the period of 1960s–70s, Korea sent workers to the United States, Germany, Japan and the Middle East. Korea soon shifted to a country of labour importation in 1987 when the total number of migrant workers was approximately 6,500 people who mostly entered into Korea legally but later extended their residential time without permission and became undocumented. Due to the existence of a large number of undocumented migrant workers, legal status of migrant workers became a sensitive political issue in Korea and the Korean government was confused about how to deal with this problem as it did not predict and plan for such a situation (Kang and et al 2011). Immigration law did not include any terms related to manual foreign migrant workers. However, to support Korean small and medium-sized businesses (SMBs), the Korean government did not disturb the employment as well as their residence of these undocumented migrant workers. In other words, this was a matter of tacit approval. In the year of 1991, the Korean government proposed ITTP, allowed Korean companies which had overseas branches, to recruit and train their foreign employees. At the beginning, trainees could stay six months in Korea and extend their stay for an additional six months. Other SMBs seriously suffered from labour shortage but could 57 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 not engage in this program. Only until August 1992, with the strong demand of the Korea Federation of Small and Medium Business (KFSB), the government permitted that SMBs operated in Korea also could import foreign labourers as August 1992. In June 1993, the period of ITTP was extended to two years (Kim 2011; Seol 2012).. Being trainees, they were not regarded as workers and were paid less than native workers, even lower than undocumented foreign workers. Moreover, they do not have the same rights as workers in some cases such as collective bargaining and participating in labour unions (Seol and Skrentny 2004; Seol 2012). With low wage and limited period of work contract, trainees left their contract as they incurred huge debts by going to Korea, mostly due to brokerage fees. Indeed, since this program started, trainees had not received any vocational training at all. Their task simply was to fill the severe labour shortage for manual workers in 3-D sectors which native Koreans avoided. With pressure of paying debt to migrate to Korea, but experienced exploitative conditions and received low-wage, many trainees moved out of their contract companies and as a result became undocumented workers. They were paid higher salaries and could extend their work period as long as possible until they were arrested. In January 1995, thirteen Nepalese workers organised a demonstration in front of Myeongdong Cathedral in Seoul in order to voice three demands, that is “do not hit us, pay us our wages and return our passport” because trainees or workers are not animals (Seol and Skrentny 2004). This event attracted the attention of the public, especially NGOs, and started movements to fight for migrants labours’ rights. Traditionally, migrant workers are considered as “servant”, “farmhand” or “maid” and experience serious discrimination in treatment between domestic and foreign workers. ITTP made this worse by regarding foreign labourers as trainees who are paid lesser than domestic workers and their rights are limited (Seol and Han 2004a). Trainees are called “sojourners” which implies those who reside in Korea in short-term (Seol and Skrentny 2004). This indicates that the Korea government imported foreign labourers for temporary demands of SMBs. Later, the Korean government amended ITTP system by changing from “one-year work permit after two years of training” in 1994 to “two-year work permit after one year of training” in 1997. The contract time remains same. The world economic crisis in 1997 strongly affected the Korean economy which led to the mass layoffs and unemployment of domestic as well as foreign labourers. Many 58 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 migrant workers had to leave Korea and look for a job in their homeland or in other countries. However, the Korean economy soon recovered and the country restarted to receive increasing influxes of foreign labourers. The proposal to abort ITTP firstly was opposed by agencies, which were appointed to recruit industrial technical trainees; however, under pressure of activists ITTP was replaced by EPP, which came into effect on 17 August 2003. In this program, migrant labourers are regarded as workers and have equal rights with indigenous workers (Kim 2011). This partly reduces the number of migrant workers to quit job in contract company. Thereafter, the government enacted the Labour Standard Law which offered health insurance, industrial accident compensation insurance, employment insurance and pension for migrant workers. Article 64 of National Health Insurance Act clearly mentions that health insurance is covered and employer and employee share to pay health insurance fee (Kang and et al 2011). If the workers report themselves to Immigration Service of the Ministry of Justice, they can register to receive accident insurance; however, this means that the workers have to leave Korea immediately after treatment. This results in the refusal of undocumented migrant workers to obtain accident insurance from the Korea Workers’ Compensation and Welfare Service. Besides, Labour Standard Law also mentions that migrant workers have rights to join trade unions, bargain collectively and participate in strike. However, undocumented workers are not the major subjects of this law and only obtain limited rights, except for industrial accident compensation. Declaring itself a democratic country, to improve nation’s image, the Korean government concerns more on human rights as indicators of progressive society. The National Human Right Commission was formed as an independent organisation which plays a role of checking human rights of migrant workers and supervising policy amendment. It closely works with NGOs to solve issues involving human right violations. Based on recommendations of this body, ITTP was abolished and EPP was implemented in 2003. EPP later changed to EPS which issues E-9 visa for foreign workers and H-2 Working Visit Visa for overseas Koreans. Through this program, Korean businesses receive migrant workers from 15 countries, mostly from Asia that have agreements on manpower supply with Korea. The Korean business can recruit foreign labourers after their efforts to recruit native labourers are unsuccessful. The work period is three years, but migrant workers later can extend 22 months. 59 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Similar to Japan, Koreans consider themselves as mono-ethnic and Korea is not a destination of immigration. The government detains the great influx and settlement of foreign workers. With maximum 4 years and 10 months staying in Korea, low-skilled foreign workers are deprived their opportunities to change their visa status to permanent resident or apply for a Korean citizenship because this only can happen if a immigrant stays over five years and achieves intermediate level of Korean language. However, receiving a huge number of foreign students, foreign spouse and foreign labours, Korea had to deal with inevitable matter of a multi-ethnic society. Koreans started accepting their society as a multicultural state with Social Integration Program, based on Act on the Treatment of Foreigners in Korea, enacted on 12 March 2008 which was designed for foreign immigrants. Yet, most of participants are marriage immigrants, children of Koreans and foreigner spouses and Korean ethnicity immgrants, not for migrant workers. The Grand Plan, framed for multicultural families, only to put multiracial families of Korean and foreign immigrant in the central, but excommunicating the families of low-skilled migrant workers and their children (Kang and et al 2011). This leads to many negative consequences related to education of migrant workers’ children, specially children of undocumented foreign workers. In short, Korean policies related to low-skilled/low-wage migrant workers have been changed through periods under the push of international treaty, fighting of migrant workers and NGOs campaigns for labour rights. However, the ITTP, EPP or EPS takes side of Korean businesses. Policies related to migrants workers are parts of Immigration Law which comprises limiting labour migration, limiting the work period and limiting integration (Piper 2004). As Korean policies on migrant workers do not accept reunification, low-skilled foreign workers cannot bring their family to Korea while high-skilled and professional migrants can have this privilege. This shows a big discrimination of Korean immigration law between low-skilled and high-skilled employees. A remarkable point in low-skilled migrant workers policies is that there is no specific policy related to women migrant workers. Although the number of female migrant workers was 24,802 persons, accounting for only 9.5 percent of total migrant workers (KIS 2011), they are indispensible in some sectors. Women migrant workers have encountered specific problems as they mostly are working in agricultural sector with longer work time but without getting extra salary. They used to work in harsh climate 60 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 conditions and living in isolated areas. Whereas Taiwan policies related to foreign workers does not allow female migrant workers to have pregnant during work contract, this is not forbidden in the case of female migrant workers in Korea. If one has pregnant, she has to stop working some time during her pregnancy and some time after delivery. However, their contract time is not extended. Therefore, some women migrant workers try to work until due day or just temporarily leave the job short time before delivery and come back to their work place immediately after giving birth. “She did not leave her work up to her due day though I asked her to stop working because I was in Korea and could earn. In that morning, she still went to her factory and had labours. After one month of delivery, she could not stay at home due to pressure of various expenditures. Fortunately, she was working in a small sewing factory, so the owner allowed her to put my baby’s cradle nearby and she could work and take care of our baby. One month later, she became so weak and could not carry on doing her job. When our baby was three-months old, we brought him to a Korean baby-sitter and then sent him to Vietnam when he was 5 months old”. (husband of a woman migrant worker, 42 years, driver, illegal status) Supporting network for low wage migrant workers Whereas in Europe, socialist parties have worked for migrant rights, Korean political parties have not put priority in this regard. Moreover, strongly affected by Confucian, most Korean politicians still holding conservative ideology and there is no left-wing party is sitting in the National Assembly. The governments in Europe try to revise immigration law to improve integration policies albeit the governments in Northeast Asia perceive receiving migrant workers as temporary program to solve the problem of labour shortage. The immigration law in Northeast Asia used to take side of native employers, less concern about migrant workers’ rights and social benefits. It is believed that high-skilled foreign migrants are encouraged while low-skilled migrant are discouraged by immigration law of these nations . Like Taiwan, Korean nationally organised networks of activists bring policy change. Employment of Foreign Workers Act which includes progressive amendments toward foreign workers was also pushed to implement by activists (Shipper 2012). In the case of Northeast Asian, policy outcomes are affected by four factors, including global norms, focused and sustained mobilization, public opinion and political 61 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 opportunity structures (Shipper 2012). Declaring itself as a democratic nation; however, Korea do not involve even in major international conventions on migrant workers as they may contrast to current domestic policies. For instance, the term permission for higher education of irregular migrant children whose parents are undocumented migrant workers of UNESCO Convention against discrimination in education contradict to Korean policy related to undocumented migrant workers, its membership is being negotiated (Kang and et al 2011). However, to maintain or enhance the national image as a land of democracy concerning human rights, which is a global issue, recently the Korean government funded more programs of governmental organisations as well as non-governmental organisations (NGOs) related to supporting migrants including marriage migrants and labour migrants. Many migrant workers are victims of human rights violations, criminals, delaying payment and compensation, poor working, discrimination from Korean employers, etc. Some Koreans lack of respect toward migrant workers as they come from less economically developed countries (Kang and et al 2011). Protecting labour rights for undocumented foreign workers is unacceptable, except accidental compensation. These workers become vulnerable and easily involve risks. Therefore, the Korean government has recently encouraged the establishments of nationally organised agencies working for migrants, particularly for migrant workers including governmental organisations which support legal migrant workers only and NGOs which work for both legal and illegal migrant workers. Governmental organisations The Ministry of Employment and Labour functions human resource management, including domestic and foreign labourers. In addition, this agency plans policies related to labour. The Korean Ministry of Employment and Labour comprises functional divisions. One department is in charge of solving payment delay and severance allowance delay. The labour committee assists those who are fired without any reasons. The union of social welfare supports those who have industrial accident. The job center introduces jobs and helps migrant workers to change their work place. The union is operating programs related to health maintenance and protecting from accidents in work hours. The union of industrial manpower provides training and develops human resource and organizing exams. Above agencies have branches in all regions all over Korea. 62 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Besides, there are six labour support centers which funded by the government but operating by NGOs to help migrant workers. According to a Vietnamese-Korean activist, administrator of website Vietnamese Community in Korea, since these centers are were financially supported by the government, they are controlled by the state and the staffs consult migrant workers following the government’s policies. They do not really take foreign workers’ side to grant maximum benefits. Moreover, governmental organisations only help legal migrant workers. The result of our study shows that, mostly migrant workers visit the office of the Ministry of Employment and Labour for changing jobs because this is a mediate agency between labours and employers. A worker wants to shift his job is required to apply a permission from his current employer along with his personal contact and job desire. The staff will introduce job seeker to employer and help both to contact to each other. This department has two divisions, one is job introduction department for domestic labourers and another is for foreign labourers. Some native workers fear that migrant workers are taking away their jobs, especially when they face unemployment in economic crisis. However, in general, 3-D jobs are undesirable jobs for local people, which they avoid to do. It is obvious that migrant workers have contributed to the development of the Korean economy (Seol 2012). For other problems need to be supported, foreign workers prefer to visit NGOs as they believe these organisations may more effectively help them. Non-governmental organisations In Northeast Asia countries, there is no official system to monitor human rights. NGOs are small in size but significantly influence policy implementation and create public opinion and discussion. These organisations work with local and central government as well to improve policies related to migrant workers, especially low-skilled migrant workers and connect to international organisations for labour rights (Shipper 2012). Since 1990s, Korean NGOs and civic organisations have operated several activities to support migrant workers and protect basic labour rights. Many NGOs are funded by central or local governments to give more support to foreign workers, especially lowskilled foreign workers. From 1992, Foreigners Support Centers were founded in the capital and in metropolitan areas where there was a great number of feigners. Later, this foreigners support network spread whole Korea. As a survey on status of foreign residents conducted in 2011, the entire Korea had 594 foreigners support organisations with 462 civil organisations and 132 religious organisations, occupying 77.8 percent 63 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 and 22.2 percent respectively (Kang and et al 2011). Before working in the contract company, migrant workers must participate in a class which provides basic information related to foreign labour policies, obligations and benefits, and migrant worker support network. Therefore, migrant workers can easily access these organisations if they need help. To better off the operations of above organisations, the Joint Committee for Migrant Workers in Korea was established in July 1998. In Korea, trade unions at company level differentiate from trade federation at state level. Joint Committee for Migrant Workers, established in 1995, a leading organization, is cooperating with Korean Federation of Trade Unions (FKTU). Both groups have raised their voice to company trade unions to accept migrant workers as a member. FKTU provides counseling service to migrant workers but this task mostly consigns to other NGOs. In fact, FKTU majorly works for domestic workers, holding conservative believe that a big number of low-skilled foreign workers may create work competition with indigenous workers. They agree that migrant workers should be respected and protected as they are member of unions, but they do not actively work to improve discriminatory treatment and labour rights for foreign workers. There is no trade union of small-size companies which hires undocumented workers. Trade unions in large-size companies focus their tasks on different issues, not foreign migrant workers (Kim 2004). Korean NGOs working for migrant workers have not experienced long time in this field; they are not as strong as European NGOs. However, without their involvement, the ITTP could not be abolished and replaced by EPP (Seol 2012). NGOs has supported both documented and undocumented migrant worker to organise education programs of Korean language and computer, driving license exams, providing free translation service, solving problems related to misunderstanding between native employers and foreign migrant workers and counseling matters on discriminatory treatment, payment delay, accident compensation, other social and financial benefits. Clients of NGOs are not distinguished, even undocumented migrant workers and those who involve criminals. Their visits are not recorded and reported to immigration department and local police. Instead, NGOs try to contact to concerning departments and individual to help migrant workers, especially undocumented migrant workers to handle their problems Primarily, migrant worker’s status is changed from legal to illegal through five cases. 64 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 In the first case, due to debt pressure, foreign workers shift their work place soon after their arrival to Korea and search a higher salary job. However, this mostly happened under ITTP. With improvement of EPS, very few migrant workers want to change their work place if they are not put in bad situation such as discrimination of Korean employers or supervisors, bankrupt of contract company, payment delay or worse work conditions and atmosphere. The second situation to be undocumented migrant workers occurs when one enters Korea with tourist visa without work permission but intend to seek a job in Korea. Many of this group suffer salary payment delay, working in harsh conditions in long working hours. The third groups are those whose work visa is no more valid but remain to work in Korean enterprises. The forth case has recently happened for those who have “fake marriage” with native people, majorly marriage between Korean men and Asian women. These couples do not stay together but keep each other’s contact in case of being investigated. Those women only contact their “fake husbands” for their visa renewal. The amount of payment to have “fake marriage” is in the range of 10,000 – 15,000 USD, depending on how long this contract is finished. Yet, many cases informed that though they made three-year contract but their “fake husband” brought them to register with Immigration office only one time. After that, they could not contact “registered husbands” as they change mobile number and these wives do not know their husbands’ address. Very few cases reported that they met a kind “registered husband” who help them to extend legal status in many years. Another way to enter Korea and then work illegally is by obtaining visa for cosmetic surgery. In recent years, Korea is well-known as a country in which cosmetic surgery industry is very well developed. Many people from various countries fly to Korea for beauty care. Brokerages of some Asian countries try to get visa for their clients holding an ulterior reason of working. In summary, every group has entered Korea by different ways but they all suffer from risks due to their illegal status. Nevertheless, they only come to NGOs for help in case of encountering problems which they cannot solve by themselves. Another remarkable social problem need to be seriously considered as it strongly violates basic human rights is issue related to children of undocumented migrant workers. Holding illegal status, it is very difficult for undocumented migrant workers to apply birth certificate and passport for their children. This hinders their children to access regular education in Korea and would not able to leave Korea. Only documented migrant workers can bring their children out of Korea. Therefore, if both 65 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 parents are undocumented workers, the child would be sent to Vietnam by accompanying with a Vietnamese woman who married to a Korean man. However, the woman must be a mother the child as mention in his birth certificate. This service is charged average 12,000 USD. Despite of being aware of illegal status and costly serve fee which equivalent to one year of earning and would be deported any time, most of undocumented migrant workers has decided to send their child to Vietnam and they carry on earning in Korea some years more. Children of undocumented migrant workers hardly approach regular education. According to the Elementary and Secondary Education Act, all immigrant children can have compulsory education at elementary and middle school levels though their parents are holding illegal status. However, only few migrant workers keep their children in Korea some years. They only afford and could be able to send their children to baby sitters because they do not want their illegal status is revealed. Thus, the system seriously violate to basic right of children of undocumented migrant workers. Religious organisations Religious, predominately Protestant and Catholic groups also have large contribution for protections to foreign workers, especially for undocumented. According to Korea Immigration Service, up to 30 September 2011, the number E-9 visa holders is 241,554 persons, including 44,718 illegal residents, accounting for 18.5 percent of total foreign migrant workers. Illegal Vietnamese migrant workers contributed the biggest number at 10,430 illegal residents. This leads to the stop recruitment Vietnamese workers of the Korea government as a lesson for other countries which have man power agreement with Korea. With illegal status, undocumented migrant workers easily involves risks and they mostly need help from churches. Many big churches have provided consulting service, training Korean language, educating migrant workers their rights and health insurance awareness. Industrial Accident Compensation Insurance Act aims to compensate workers rapidly and fairly for accidents in business place; however, in many cases, particularly for undocumented migrant workers, due to their illegal status, Korean employments refuse or delay to pay medical service, these workers have to ask for help from churches as religious organisations have an influential voice in human rights protection. “Four categories of jobs should be avoid are gilding, painting, soldering and molding. Workers would face more risks in those work sectors. We try to avoid 66 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 though we are paid higher salary. Mostly Bangladeshi and Pakistani migrant workers take those jobs. If health insurance but undocumented secure us working in those categories only can get financial support from churches. Sometimes, churches cannot give full financial support but they can call their believers to collect” (Said by a Vietnamese migrant workers, 37 years old, industrial sector) Churches are also places for those who lost jobs and do not have money. They can stay in shelters and be provided meals. A surprising point is that, those who have often contact with churches are informed about catching undocumented migrant workers campaigns. They avoid going out and gathering in public places. Although the campaign is in the peak, none undocumented migrant visitors are caught. It is believed that immigration department staffs never touch religious areas and involvement in churches’ activities benefit migrant workers. Korean religious, particularly Protestant spreading their network, are willing to help and encourage foreign migrant workers to be members. Many migrant workers are from different religious backgrounds such as non-religious people, Buddhists or Muslims; however, they often go to churches as they are gathering places where foreign workers can learn Korean, have lunch together and meet their follow-country friends. No Vietnamese migrant workers replied that they have changed their religious belief after participating in activities held by churches. Korean religious network is considered as very effective NGOs on supporting migrant workers, especially undocumented migrant workers. Country fellow network Working overseas and experiencing loneliness and cross-cultural differences, foreign workers are very much in need of participating in their country fellow network. However, none of sending countries in Asia has migrant worker bill which includes human rights, except for Philippine with the Migration Workers and Overseas Filipinos Act enacted in 1995 (Piper 2004). A department in charge of monitoring their people working in Korea was established and is available to support them in case of risks. Philippine community is well-known as a group which is well organised in helping their fellow country to overcome difficulties. Philippine community has hosted weekly meeting and many Philippine participants including students, marriage women and migrant workers are eagerly attend. Dislike the above case, Vietnamese migrant worker community in Korea does not 67 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 well-organised in large scale. They enjoy joining in small groups of hometown fellows or colleagues of a same company. They mostly spend weekends or holidays on eating, drinking and traveling in Vietnamese restaurants, bars or their rooms. To build up multicultural environment to migrant workers, most of multicultural centers encourage major ethnic communities in Korea, consisting students, marriage immigrants and migrant workers to hold cultural event of their country, establish and maintain country fellow network. However, this could happen depending much on the concern of representatives of their country and the willingness to participate in country fellow association of immigrants. As one Vietnamese-Korean NGOs staff working in multicultural center of Ansan city – where there are the biggest industrial foreign migrant workers compared with entire Korea, pointed out that she feels so sad because whenever her center organises Vietnamese cultural festival for Vietnamese living and working in Korea, only in one time, one staff of Vietnam embassy in Seoul participated although she has many time sent the invitation. Other countries’ festivals are different. Many representatives of labourers has joined their cultural festivals and visited this center. Working for above center since 2005, she concluded that it is difficult to form and remain a Vietnamese association in large scale as no one wants to dedicate his time to be constant member. Even, many Vietnamese workers were cheated by their fellow-country colleagues and came to this center to be helped. L, a Vietnamese migrant worker, a leader of Vietnamese migrant workers in Shihung City said: “I am discouraged because none representative attends events of Vietnamese migrant workers. There was an international migrant workers festival and many groups of migrant workers from many countries gathered there. All other countries’ migrant workers encouraged and gifted by their representatives but none representative of Vietnam was there. We do not need gifts but we need encouragement and concern. Only in the meeting for calling Vietnamese migrant workers to leave Korea when work visa expired, representatives of Vietnam were there because now Korea stops recruiting Vietnamese workers as there are too many are working illegally here”. Without support from fellow country top rank and ignorance of participation in Vietnamese association, Vietnamese migrant worker community in Korea do not have big voice as China or Philippine community. When any risks happen, Vietnamese migrant workers only approach NGOs or close friends for help. 68 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Conclusion The paper describes changes of Korean policies related to low-skilled/low wage foreign workers since Korea started being a labour importer. ITTP was criticised as an extremely illiberal and seriously violated to human rights of migrant workers. This programme mainly aims to benefit Korean businesses in particular and national economic development in general, disregard basic human rights for foreign workers who have remarkably contributed to the Korea economic growth. Under pressure of human right campaigns operated by NGOs and civic organisations, foreign worker policies have been changed and improved to EPP and EPS, which offer equal right and equal treatment to non-national workers. However, it is believed that Korean workers still benefit more in comparison with foreign workers such as receiving higher wages and bonus. To gain its image as democratic state, Korea has to adapt international norms and standards on migrant workers. However, the membership of major international conventions on migrant workers is still in negotiation as they might violate to interests of domestic policies. Many scholars claim that within three decades, the Korean government has significantly amended foreign worker policy toward human rights. Most of informant responded that Korea is one of the best destinations for low-skilled migrant workers compared to other Southeast Asian and the Middle-East labour importers. According to United Nations, Korea is in need of approximately 100,000 foreign workers a year. They are working in 3D sectors and categorised a vulnerable group. Besides existing legal work force, a great number of illegal foreign workers are employed in small Korea factories and facing many risks. A board support network was established, ranging from governmental to non-governmental organizations, including civic and religious organisations, to assist foreign workers, especially undocumented ones. Among all, churches are believed the safest, most trustable and most helpful for undocumented foreign workers. In short, foreign workers now can easily access supports from mentioned network in case they need help. These agencies also raised their big voice for human right protection and the improvement of exploitative policy system on foreign workers. REFERENCES Amarjit Kaur and Ian Metcalfe (2006)."Mobility, Labour Migration and Border Controls in Asia." New York: Palgrave Macmillan. 69 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Apichai W. Shipper (2012). "Influence of the Weak: The Role of Foreigners, Activism, and NGO Networks in Democratizing Northeast Asia." International Studies Quarterlys 56:689-703. Byoungha Lee and Sungmoon Kim (2011). "South Korea’s Developmental Democracy and Migrant Workers Policy." Inha Journal of International Studies XXVI, No. 3 (December 2011):p. 428–455. Chong-Koo Lee Seok-Woon Park, Dong-Hoon Seoul (1995)."A Survey of Foreign Workers in Korea in 1995." in Policies and Protective Measures Concerning Foreign Migrant Workers. Chris Manning (2002). "Structural Change, Economic Crisis and International Labour Migration in East Asia." The World Economy Vol. 25(Issue 3):p. 359–385. Chris Manning and Pang Eng Fong (1990). "Labour Market Trends and Structures in ASEAN and the East Asian NIEs." Asian-Pacific Economic Literature Vol. 4, No. 2 (Scptember 1990) p. 59-81. Dong Kwan Kang Jung-Eun Oh, Julia Jiwon Shin, Sang- Lim, Lee Seung Bok, Lee Kiseon Chung (2011)."Migration Profile of the Republic of Korea." in IOM MRTC Research Report Series. Dong-Hoon Seol (2000). "Past and Present of Foreign Workers in Korea 1987-2000." Asia Solidarity Quarterly Vol. 2:p. 6-31. Dong-Hoon Seol (2005a). "Global Dimensions in Mapping the Foreign Labor Policies of Korea: A Comparative and Functional Analysis." Development and Society 34, No. 1:p. 75-124. Dong-Hoon Seol (2005b). "Migrant Workers and Citizenship." Works on Migration Journal:p. 38-41. Dong-Hoon Seol (2010). "Which Multiculturalism? Discourse of the Incorporation of Immigrants into Korean Society." Korea Observation Vol. 41, No. 4, Winter 2010:593614. Dong-Hoon Seol (2012). "The citizenship of foreign workers in South Korea." Citizenship Studies Vol. 16, No. 1, February 2012:119–133. Dong-Hoon Seol (2013). "Migration Policies towards Highly-Skilled Foreign Workers in Republic of Korea". The 3rd ADBI-OECD-ILO Roundtable on Labor Migration in Asia: Assessing Labor Market Requirements for Foreign Workers and Developing Policies for Regional Skills Mobility. Pullman Bangkok King Power Hotel, Bangkok, Thailand, 23-25 January 2013 70 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Dong-Hoon Seol (Editor: Seong-Ho Ahn and Byeong-Il Rho (2006b). "Earning Divergence of Foreign Workers in Korea in the 1990s: Dynamics of the Decline of Wage Discrimination against Industrial Technical Trainees." East Asian Cooperation in the Glocal Era, the Institure of Area Study and Development Series:p. 167-228. Dong-Hoon Seol and Geon-Soo Han (2004a). "Foreign Migrant Workers and Social Discrimination in Korea." Harvard Asia Quarterly Vol. VIII, No.1:p. 45-50. Dong-Hoon Seol and John D. Skrentny (2001). "How Do International Norms Affects Domestic Politics? A Comparison of Migrant Workers and Women's Rights in South Korea." Journal of The Institute for Social Development and Policy Research, Seoul National University. Dong-Hoon Seol and John D. Skrentny (2004). South Korea: Importing Undocumented Workers. in 12: Controlling Immigration. Dong-Hoon Seol and John D. Skrentny (2009). "Why Is There So Little Migrant Settlement in East Asia?" International Migration Review 43 Number 3 (Fall 2009):p. 578–620. Erin Aeran Chung (2010). "Workers or Residents? Diverging Patterns of Immigrant Incorporation in Korea and Japan." Pacific Affairs 83, No. 4 (December) 675-696. Graeme Hugo (2005). "Migration in the Asia-Pacific region." A paper prepared for the Policy Analysis and Research Programme of the Global Commission on International Migration. Graeme Hugo (2009). "Best Practice in Temporary Labour Migration for Development: A Perspective from Asia and the Pacific." International Migration Vol. 47 (5). Iain Watson and Hyoung-Wook Jeong (2010). "Culture and Democratic Identity in South Korea: Contemporary Trends." Inha Journal of International Studies XXV, No. 3 (December 2010):p. 376–395. Jerrold W. Huguet (2010). "Linking International Migration and Development in Asia". Workshop on Strengthening National Capacities to Deal with International Migration. Bangkok, Thailand, 22-23 April 2010. Ji-Whan Yun (2009). "Labor Market Polarization in South Korea. The Role of Policy Failures in Growing Inequality." Asian Survey 49, (2):268–290. Ji-Whan Yun (2011). "Labour Market Reforms in Japan and the Republic of Korea: A Comparative Case Study of Policy-making in the 2000s." International Labour Review Vol. 150, No. 3–4. Joon K. Kim (2011). "The Politics of Culture in Multicultural Korea." Journal of Ethnic and Migration Studies 37, No. 10, December:1583 - 1604. 71 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Joonmo Cho and Jaeho Keum (2004). "Job Instability in the Korean Labour Market: Estimating the Effects of the 1997 Financial Crisis." International Labour Review Vol. 143, No. 4. Marcus Noland (2012). "Korea’s Growth Performance: Past and Future." Asian Economic Policy Review 7:20–42. Maruja M. B. Asis and Nicola Piper (2008). "Researching International Labor Migration in Asia." The Sociological Quarterly Vol. 49:p. 423– 444. Maruja M.B. Asis and Parvati Raghuram Nicola Piper (2009). "International Migration and Development in Asia: Exploring Knowledge Frameworks." Journal of International Nam-Kook Kim (2009). "Multicultural Challenges in Korea: the Current Stage and a Prospect." Journal of International Migration. Nicola Piper (2004). "Rights of Foreign Workers and the Politics of Migration in South-East and East Asia." International Migration 42 (5):71-97. Nicola Piper (2009). "The Complex Interconnections of the Migration–Development Nexus: a Social Perspective." Journal of Population, Space and Place Vol. 15:p. 93-101. Nilani Manthrinayake (2008)."Effectiveness of supporting networks for migrant workers in South Korea, the case of Sri Lankan migrants." SungKongHoe University, Seoul, South Korea. Nora Hui-Jung Kim (2008). "Korean Immigration Policy Changes and the Political Liberals’ Dilemma." International Migration Review Volume 42, Number 3 (Autumn 2008):576–596. Nora Hui-Jung Kim (2009). "Framing multiple others and international norms: the migrant worker advocacy movement and Korean national identity reconstruction." Nations and Nationalism . 15 (4):678–695. Parvati Raghuram (2009). "Which Migration, What Development? Unsettling the Edifi ce of Migration and Development." Population, Space and Place 15:103–117. Premachandra Athukorala (1993). "International Labour Migration in the Asian-Pacific Region: patterns, policies and economic implications." Asian-Pacific Economic Literature 7 No. 2 (November):28-57. Prema-chandra Athukorala (2006). "International Labour Migration in East Asia: trends, patterns and policy issues." Journal compilation. Seok Hyun-Ho (1999). "International Labor Migration and Financial Crisis in Korea." Development and Society 28 Number 1, June 1999:139-165. Stephen Castles (2007). "Will Labour Migration lead to a Multicultural Society in Korea?". 72 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Global Human Resources Forum 2007; Session: Globalization, Foreign Workers and the Impact on Homogeneous Societies. Seoul 23-25 October Tan Soo Kee (2009). "Foreign workers’ policies and issues in South Korea: Focus on the workers from the South East Asian Region." Global Korea Proceedings 2009. The University of Sydney. Teri L. Caraway (2009). "Labor Rights in East Asia: Progress or Regress?" Journal of East Asian Studies 9 (2009):153–186. Timothy C. Lim (2002). "The Changing Face of South Korea: The Emergence of Korea as a "Land of Immigration:." The Korea Society Quarterly Summer and Fall 2002:p.16-20. Timothy C. Lim (2003). "Racing from the Bottom in South Korea? The Nexus between Civil Society and Transnational Migrants." Asian Survey Vol. 13, No. 3. Wang-Bae Kim (2004). "Migration of Foreign Workers into South Korea: From Periphery to Semi-Periphery in the Global Labor Market." Asian Survey Vol. 44, No. 2 (MarchApril 2004):316-335. Yong Wook Lee (2004). "The Evolution of Korean Foreign Labor Policies in Global Context: Toward the Politics of Societal (In) Security?". Korea and Global Migration Conference. Yoonkyung Lee (2009). "Divergent Outcomes of Labor Reform Politics in Democratized Korea and Taiwan." Studies in Comparative International Development 44 (December):47-70. Young-bum Park (2008)."Admission of Foreign Workers as Trainees in Korea." in ILO Asian Regional Programme on Governance of Labour Migration. Young-Ho Song In-Jin Yoon, Young-Joon Bae (2008). "South Koreans’ Attitude toward Foreigners, Monorities and Multiculturalism". The annual meeting of the American Sociology Association. Boston 73 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Social Capital, Locality of Networks, and Culture of Migration: Vietnamese Labor Migration to Korea Dr. CHOI Horim Institute for East Asian Studies (SIEAS), Sogang University Tóm tắt “Văn hóa của di cư” đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định và duy trì hiện tượng di dân xuyên quốc gia ở Việt Nam hiện nay. Bài viết này xem xét nền tảng bền vững ở nhóm lao động Việt Nam thành công khi di cư đến Hàn Quốc. Bài viết này dựa trên kết quả điền giả tại nhiều vùng miền ở Việt Nam giai đoạn 2008-2010, đặc biệt ở một số vùng thuộc Hưng Yên và Bắc Ninh nơi có nhiều cư dân làm việc hoặc dự định đến làm việc ở Hàn Quốc. Hiện tượng di dân xuyên quốc gia ở Việt Nam không chỉ đơn giản là do kết quả của chính sách quốc gia về phát triển kinh tế, quá trình toàn cầu hóa và hoài bão có cuộc sống sung túc hơn của người dân sau Đổi mới. Trái lại, tôi thấy rằng văn hóa di cư của Việt Nam đã định hình và tích lũy xuyên suốt trong lịch sử hậu thuộc địa và địa hình văn hóa của Việt Nam, là một trong những yếu tố mang tính chất lực đẩy bền vững nhất. Tôi sẽ tập trung vào vốn xã hội và mang lưới văn hóa chính trị địa phương để tìm hiểu nguồn gốc và sự phổ biến của hiện tượng di dân Việt Nam đến Hàn Quốc Trong trường hợp di dân xuyên quốc gia từ Việt Nam đến Hàn Quốc, hoạt động của đội ngũ tuyển dụng lao động tư nhân không chính thức được duy trì trong bối cảnh chính quyền và ban ngành địa phương có nhiều nỗ lực trong việc dàn xếp, giải thích và thực thi khung chính sách và những thỏa thuận được thiết lập giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Đặc biệt, các doanh nghiệp tư nhân được tin cậy trong việc hỗ trợ mạng lưới địa phương thương thuyết để đạt được giấy phép từ phía Hàn Quốc. Trong nỗ lực đạt được hỗ trợ này, sự xây dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội với quan chức địa phương đã trở thành một cơ chế quan trọng. Giả định rằng, văn hóa trong di cư ở Việt Nam bao gồm các thuộc tính liên quan đến nhau; di cư như là một quyết định đầu tư mạo hiểm, có tính toán đến chi phí cơ hội và thu hồi lại từ thu nhập kiếm được; di cư có thể là công việc của gia đình, di cư mang tính tự phát ở cấp độ địa phương, nó độc lập với các chính sách và pháp luật nhà nước; cơ quan chính quyền và mạng lưới chính trị ở địa phương đóng vai trò trung gian để việc di cư thành công; di dân được xem như là một lộ trình để đóng góp kinh tế cho quê nhà, bảo tồn văn hóa dân tộc như là một nguồn vốn xã hội trong quá trình di cư, tuyển dụng, thích nghi và quay trở lại thành công. 74 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Introduction When I first visited NT village in February 2009, I entered the main street stretching to the pond in the center of the village to find the street lined with about 30 three- or four-story houses. All of these houses have been recently built or newly painted. Beyond the pond stood many tall buildings as well. The tallest building of them was a nine-story modern hotel equipped with elevators. Here and there, big or small shops for daily goods, beauty shops, cellular phone shops, “Internet Café,” and “Karaoke” came into view. Piles of red bricks and mounds of cement in the alleys showed that re-construction of houses or street improvement projects were going on in the village. The outer appearance of the village was no longer an agricultural village. When I entered a three-story red bricked house with a parked car, there were three tall trees and two motorcycles in the courtyard. In the living room on the first floor was a parlor with black leather sofa, a rattan table and the marble-tiled floor was carpeted. On the wall, a painting decorated with mother-of-pearl and incised with the traditional symbols of longevity was hung. On either side of the ancestral shrine were a Samsung color television set and a Sony audio-video player. In the corner of the room was a desk with a personal computer on. Antiques, wine bottles, and picture frames were densely on display in the high-class cupboard. In the kitchen, modern utensils were arranged in order and there was a big LG refrigerator as well. Every floor was tiled with marble and had its own bathroom equipped with modern toilets and bath tubs. There were an air conditioner and a bed in every room. The owner of this house said he belonged to the “middle class” in the village. The houses of the self-claimed “middle class” I had visited possessed similar equipment in most cases. NT is a village in Luong Tai prefecture of Bac Ninh province, 40 km away northeast of Hanoi. Even 15 years back, NT was one of the poorest farming villages in Luong Tai. Villagers had long been engaged in double-cropping rice farming relying on natural cultivating methods and made up for their living by catching fish, shrimps, and small crabs in the ditches of empty fields, ponds, or swamps. Poor farmers were engaged in seasonal wage labor such as digging the narrow riverbed to irrigate rice paddies or helping harvest. Although not a few households raised ducks, chickens, and pigs, they did it mostly for self-sufficiency and the livestock farming of just a few households was carried out on a small scale of monetary exchange. When I first visited NT village in February 2009, it had around 3,800 population and 2,000 households, but full-time farming households accounted for a mere 30 percent, with increasing households doing commercial or non-farming business. Not a few households hired temporary migrant workers to continue their farming. Although the occupational 75 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 structure of villagers diversified, the majority of them still belonged to 15 native kin groups in which they had lived more than four generations. Lan, a fish vendor, said that “the color of the village changed” over the past decade. The village was dark leaden or dull grey-colored when most of the houses were thatched, slate-roofed or traditional tile-roofed but now they are changed to light green tile-roofed with red brick or bright yellow walls. When I told her that the village looked surprisingly wonderful, she explained, “The village owes all of its changes as it is now to overseas migrant workers.” How did it work that way? As of February 2013, Vietnamese migrant labor working in Korea is estimated at 60,611, which includes 18,237 undocumented Vietnamese workers (Korean Immigration Service 2013). Vietnamese migrant labor is the largest foreign workers but Korean Chinese, who are counted 227,670. During 2000-2004, approximately 5,000 Vietnamese labors have entered Korea every year, and 2005-2012, about 8,000~10,000 Vietnamese workers came to Korea each year. 28 Approximately 50,000 Vietnamese are applying for the Korean Language Proficiency Test (KLPT) a year, which became a mandatory qualification to get the certificate license for labor migration to Korea since the 'Employment Permit System (EPS) was implemented by the Korean government in 2004. Why is there continuous influx of Vietnamese migrant workers to Korea and why do more and more people wish for labor migration to Korea? In various sectors of the Korean academia, there have been substantial studies on the reason for increased number of foreign workers and social, economic issues caused by this trend. However, most of these studies were focusing on socio-economic impact of labor migration, feminization of migration, or adaptation barriers and conflicts that migrant workers experience in Korea (Kwon et al. 2005; Park et al. 1999; Park 2004; Seol 1998, 2000; Lee 2004; Chun 2006; etc). Some Vietnamese and foreign scholars have published studies on overseas migration of Vietnamese workers based on overall analysis of statistical data and policy documents (see Abella 2003; Dang 2008), but in-depth qualitative research on sociocultural background and/or migration processes is scare. Moreover, there is no ethnographic case study on the cultural background of Vietnamese labor migration to Korea, except the study by Chae (2007), which dealt with life changes of Vietnamese returnees from Korea. 28 According to an explanation of a local agent, the years from 1999 to 2005 were the “blooming and abundant” (no ro) period of migration to Korea. About 150 labor recruiting companies nationwide were engaged in labor export to Korea. Although the number of these companies drastically fell, about 30 to 40 percent of the companies still go on their business to mediate labor migration to the nation. 76 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 In general, the globalization in the post-cold war era was regarded as the basic background in discussions over the labor migration of Southeast Asia (Ananta & Arifin 2004; Asis 2004; Castles 2002; Hugo 2004; etc.). In the same vein, the rapid increase in overseas migration of Vietnam was widely explained with the growing impact of globalization after the doi moi of 1986 (Dang 2008; Dao The-Son & Nguyen Ngoc Quynh 2009). However, there is scarce research on why these people choose Korea, what kind of processes they go through for labor migration, and what are local-politics or cultural backgrounds that affect their choices and migration processes. For filling the gap, this study needs to focus on the cultural context of Northern Vietnamese locality. This paper aimed to achieve an in-depth understanding of the Vietnamese labor migration to Korea by focusing on the ethnographic case study. Descriptions in this paper are mainly based on the field research in NT village of Lương Tài prefecture, Bắc Ninh province, in 2009 and 2010.29 NT has a big number of labor migrants to Korea, and one of the most well-known villages to the people who are specialized in the process concerning Vietnamese transnational labor migration. NT Villagers’ Labor Migration to Korea As of 2009, approximately 400 people of NT village went overseas. Some are students but most of them are migrant workers. The village saw its first migrant worker in 1996. Overseas migration in the village began to sharply increase in 2000 to reach the peak between 2002 and 2006. In 2007, the largest number of migrant workers lived overseas, reaching more than 300 people in total.30 About two-thirds of them migrated to Korea. However, since the EPS was implemented in earnest, migrants tended to decrease and returnees increase. Although few residents could explain about Korea’s EPS exactly, they knew that migration procedure took more time and become more complicated than before. NT village is known for its fastest development and change in Bac Ninh to send workforce overseas. The village chief said, “That is because villager has very high interest in education and young people have great aspiration for success.” Although the local quota system is implemented, the allotment is at the provincial level and NT village shows that a village with many success cases has a higher possibility of sending the next migrant worker,. The village chief and the cultural manager of the Commune were like “grassroots experts” who knew all the details about the regulation and process of 29 Most names of key informants, private companies, and villages below prefecture-level mentioned in this paper that are anonymous. 30 http://www.bacninh.gov.vn/Story/VanHoaDuLich/TinTucVanHoa/2007/1/7735.html 77 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 migration to Korea. The reason why this village has a high concentration of migrant workers to Korea is because it always has labor migration brokerage experts. It is said that the most basic background for influx of international labor migration is the economic desire that followed socio-economic development of Vietnam. All the aspirant labor migrants said that they want to go to Korea to “escape the poverty,” when asked. Moreover, success stories of those who went to Korea rose up to be the desirable model of the young people, which caused the expectation and demand on labor migration to Korea to stay high. However, when we look at various strategies adopted by Vietnamese migrants, we can understand that their economic desire and hope are realized indirectly through a political and cultural context. Social networks are utilized in various systematic procedures that those who aspire to migrate to Korea should go through. Migration as a Village Business guided by Locality of Networks The occurrence of a lot of migrant workers in this village in 1996 was attributable to a man, (T), who worked at a labor recruiting company under the MOLISA. He is from a major native kin group. At that time, most villagers were lacking in information about overseas migration and hard to bear the costs of migration. While he was working at the company, T gradually helped residents who wished to migrate. The village chief said that “the village was very lucky” to have him as a member of the village. The first village youth who migrated to Korea in 1996 could succeed with his help. Since then such a “booming movement” took place for more village youths to migrate. Although retired in 2001, T together with his friend entered another labor exporting company and kept helping people with their migration. Villagers said, “Once a tie was formed, they could continue to use the tie.” Labor migration in this village was like a community project that mobilizes all important social relationships. Of these, family and kinship relationships served as the surest ones. Before 2000, many villagers didn’t dare to migrate because of the burden of the costs. At first, close relatives lent money. The family which borrowed the money, in turn, helped the other family which had lent the money migrate in a few years. In this way, many people in a close kin group migrated to Korea with time difference. T’s father lives with his four siblings in the same village. From the offspring of his six siblings, 11 people migrated overseas and, 7 of them stay in Korea. When he worked at a labor exporting company, T’s relatives set plans to help each other with migration. Six nephews of Ngoc migrated overseas for work and two of them worked in Korea. Ngoc too lent the first nephew who migrated to Korea some money she had saved from her small trade business. Later, her nephew’s remittance to his parents 78 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 became the most stable source of income as they had only a small farming land and furthermore their harvest fluctuated a lot every year. A brother of Ngoc, or her nephew’s father built a new house in 2007 and purchased land in Bac Ninh city. She borrowed part of the money her nephew had sent to her brother to pay the expenses for her son’s migration to Korea. Her brother was willing to help her who had helped his son before. The native leaders of the village play the role of mediators for migration procedure. The village chief made many close friends in the Department of Labor, Invalids and Social Affairs (DOLISA) of the People's Committee of the Province. These friends helped the village youths with their migration. The social relationships (quan he xa hoi) of the native leaders has acted as important social capital for the success of migration. With the help of their networks and information, the village leaders could smoothly help youths with migration. NT village has a lot of labor migration to Korea because people “followed the route (suit)” (di theo day) of former migrant workers. A family member of successful migrant workers said, “Although there were many cases in which they suffered fraud or failure because of lack of information, migration could be successful if we follow the route.” In this village, many families have siblings who succeeded in migration because the siblings who had settled first built the networks and foundations for stable livelihood. Furthermore, if their elder brother or sister had succeeded in labor migration, the younger brother or sister could enter college or university with the help of the remittance from their elder siblings. Since 2002, the village has seen a sharp increase in migration as more villagers became rich from the remittance and experience and information on migration process accumulated to arouse more interest in migration. However, families, relatives or neighbors who migrated abroad and settled in or local agents who helped their migration played a crucial role in the process more than anything else. In spite of the increase in migration cost, more routes were open to finance the costs. Although active migration improved the economic situation of the villagers, their farming became more difficult and less lucrative. Most of full-time farmers could just feed the family and help their children study with their harvest. Some middle-aged couples lived on debt when their children were still young. As youths left the village, old people had to undertake farming and some households were even left with old women only to do farming. But they could endure all the difficulties if they had children who migrated abroad since their hard farming was sort of investment in their children who would send them money soon. Hoa is a broker who has recently helped young people from NT village while living in a neighboring village. In refined clothes, he looked healthy and much younger for his age, 42, 79 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 with a look of “successful young businessman.” With a friendly smile at me in the first meeting with him, he agreed to have interview for me. The village leader who had introduced this guy to me said he would succeed in any business because he was “easy to befriend with his smiles, diligent and tactful nature as well as his attitude of keeping promises well.” He graduated from the College of Law in Hanoi, worked in the local labor ministry for a few years, and changed his jobs to a Hanoi-based construction and labor-exporting company in 1999. He had already worked as a professional who sent Vietnamese workers to Korea for 10 years. He himself tried to migrate to Korea for work but as he earned a lot of money from the agency, he gave up the previous attempt. His work experience at the local labor ministry and relationships with former law school alumni were of great help to his recruiting work. He had advantage in collaboration because he had relationships with a friend and a senior from his home town who worked at the Peoples Committee of the Province or Peoples Committee of the Prefecture to which NT village belongs respectively. Those wishing to migrate obtain information on the overseas migration procedure and schedule from official sources such as mass media, MOLISA, and DOLISA. However, they believed that it was more useful to get information from unofficial routes than official ones. Unofficial information generally came from experience or practical knowledge of their acquaintances at labor exporting companies, families or neighbors. They think official information does not contain “invisible” solutions for successful migration. To the contrary, unofficial one includes a lot of cautions against fraud as well as information about jobs after migration and everyday life in Korea. Most practical information about successful migration comes from close acquaintances working at the local labor ministry, labor exporting companies, or individual brokers. Village people said information from labor exporting companies usually took the form of notices from employers, official announcementsof government agencies and local officials. On the other, information from individual brokers, or “mediators (moi gioi)” included practical information about schedules and methods of paying fees, preparing necessary documents, and answering interview questions. In general, most of the brokers were still working at recruiting companies. Of course, there were also many agents who had worked at labor exporting companies or government agencies in the past. Some individual agents had personal ties with these companies or returned from overseas work. Residents called “moi gioi” those who provided unofficial information based on face-to-face relationships and directly carried out whole migration process successfully. 80 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Change and Continuity after the EPS Given the limited access to the EPS, illicit channels to go overseas are resorted to with very high costs and many risks involved. In addition, once selected, the employees cannot leave their jobs nor change their places of employment during contract period. Migrant workers under EPS have no choice but to follow the request or their employers (Dang 2008: 7).31 However, since the implementation of the EPS, the numbers of immigrant workers from other countries are gradually reducing while those from Vietnam are continuously increasing.32 As there is continued demand from its workers to go to Korea, the Vietnamese government is allotting migrant workers by local provinces, and also giving priority to under-developed or remote regions. OWC said that the government is implementing policies that give a preference to the underprivileged people, such as the poor, minorities, men of merit, the wounded in a war and their family. In 2006, when KLPT was adopted as the only qualification procedure for the labor migration to Korea, the government assigned 30% of the test applicants to vocational training institutes under the central ministries and the remaining to 64 provinces as quota based on their population.33 Its official explanation for such quota system is also to give a priority for overseas labor migration to the poor and the underprivileged. <Table 1> Results of the Korean Language Proficiency Test (KLPT) 2006 Total (‘07 1st Accumulated) Round Applicants 33,966 9,429 8,127 Qualifiers 27,729 6,489 5,124 Year nd 2 Round 2007 1 st 2008 2 nd Round 1st Round 8,189 8,221 14,661 8,077 8,082 13,878 Round (Source: The Hanoi branch office of HRDSK) 31 It is said that EPS would help reduce contract breaking or illegal work and undocumented residence in Korea. In reality, Vietnamese workers continue to break labor contracts to move for higher salary jobs. 32 As of the end of 2009, Vietnamese migrant labor accounted for 27.3% of all immigrant workers in Korea (Data from the Hanoi branch office of HRDSK). 33 There are nine public training institutes that provide the pre-training and one of them is directly managed by OWC. The Hanoi office of HRDSK is supporting to manage four institutes in Northern Vietnam; one of them is located in Bắc Ninh province which NT village belongs to. Besides, there are two institutes in Ho Chi Minh City and one in Hai Phong and Nghe An-Ha Tinh province, respectively. 81 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The number of applicants per a round of KLPT is limited at around 8,000. The reason for such restriction, according to OWC, is that if there are too many applicants, it would be difficult to manage the test at the central-level and also there might be too many people failing in the test, which might cause complaints among test applicants. The number of qualifiers is also restricted because if too many people pass the test but are not sent to Korea, it might cause big conflicts as well. Since its introduction in 2006, there were many occasions where the number of KLPT applicants from each province had greatly exceeded the provincial quota. As such, each province is running a “pre-test system” to screen the applicants in advance to the number that is a bit above the provincial quota. Both HRDSK and OWC are saying that the pre-test system is “very rational.” Now, Vietnamese labor migration to Korea is managed by the EPS as an official governmental program and the EPS is implemented through the KLPT. However, these systems are implemented different from the actual intent. More than anything, the KLPT should be the most basic system that screens migrant workers to Korea, but the “pre-test system”(du tuyen) implemented at the local level is making the national policy and diplomatic agreement between two countries to derail. Officials argue that brokerage is no longer needed in labor migration to Korea and that illegal brokerage fee has disappeared, but that is not the reality. The MOLISA and OWC have delegated most of processes in selecting the migrant workers to the People’s Committee of each province and prefecture, and the central government is ‘overlooking’ various forms of brokerage activities at locals. What is even more is that the government agencies are secretly engaged in the brokerage activity. Some officials of the MOLISA try to maintain a close ‘social tie’ (quan he xa hoi), with those officials in other government agencies responsible for selecting the migrant workers (see, Bennett 2009), and they use the network with local administrative bodies. Labor migration to Korea seems to have the nature of business programmed by government agents and their political and social networks are being used in this process. Since the implementation of the KLPT pre-test in 2006, the roles of mediators have undergone many changes. Applicants should register at the local labor department and learn the Korean language at the language center of each province. Most of the institutes had close ties with executives of the labor ministry. Once applicants received certificates for completing three-month programs, they should apply for the preliminary language test and win the at least three-to-one competition. Those who pass the preliminary test were qualified to take the main test managed by the central labor ministry. Since the drop rate was a mere 10 percent, or 82 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 less, at this main test, success in the preliminary test was the most important gateway to Korea. Agents have to concentrate their energy on helping the names of applicants included in the list of successful applicants in the pre-test. To do so, it is very important for them to maintain relationships with language centers and officials at the labor ministry. It costs applicants approximately $300 just to register their names in the applicant list. They pay about $1,000 for a three-month course at Korean language centers. This figure is nothing but a partial portion of the total expenses. While waiting for the result of the preliminary test, agents have to bribe (lo lot) the officials concerned. Without exactly knowing how much or to whom the money is paid in placing their names on the list of eligible applicants for the main test, applicants simply entrust their application to local agents. As a consequence, the EPS made social networks of locality “invisible” essential factors for decision making. In addition, the KLPT certificate is valid only for two years. Therefore, once they pass the preliminary test, they should make effort to go to Korea as soon as possible to get a job. Mediators should be able to mobilize every means available in this process of “placing the leg in the list (chen chan vao danh sach)”. It is known that migrant workers pay in Vietnam $700-800 for airplane tickets, medical checkups, visa, and guide to Korea and once they arrive in Korea, they again pay $1,300 including $500 insurance premium. According to “the Resolution No. 81” (Nghi dinh so 81 cua Chinh phu VN), they have to pay a month’s wage as a tax to meet the Vietnamese government’s administrative expenses. But all this is a mere minimum cost. It takes at least $2,000 to $3,000 to pay the fees for ministry official’s performing many steps of the process. It is known in Korea that including these fees, it takes at least $4,000 to $5,000. However, it takes more than $8,000 in many cases. They have to pay unofficial fees called “deposit (dat coc).” Depending on the situation, it amounts to $5,000 to $14,000. The large amount of migration costs arise from the many people involved in each step that applicants should go through to be finally employed. Most processes take place through secret communication between “clues” (dau day, or the agents and people involved in each step). Local agents said it takes at least $1,000 even in the first step of having a preliminary meeting with officials in charge. But once a tie is formed, the amount can reduce to half or with luck, to $300 to 400. The principle of confidentiality should be obeyed by all people involved even if it is not required by explicitly written agreement. However, applicants or their families should keep their payment certificates (chung tu). Despite changes in system, the role of individual brokers is still crucial. However, most 83 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 agents agreed with each other that since the introduction of EPS, Korea’s requirements had become stricter and document reviews more meticulous. Competition for migration has become fierce because employment is limited compared to the constantly growing number of applicants. In addition, as important selections are carried out at each local province, the number of local “clues” has increased and so has the costs. Moreover, because the final decision on employment is made in Korea, the risk of returning the “deposit” has risen if the applicants are not employed for a long time. If the agents are fraudulent, there is no way out because nothing is guaranteed by legal certificates. On the other hand, “sneaking in (di chui)” is another way of the major routes for migration to Korea. “Sneaking in” refers to illegal entry to Korea without making any labor agreements. This illegal entry is made in diverse ways, including travel, study, training, fake marriage, sneaking in on the ship, just to name a few. The three agents I had interviewed in Vietnam were well aware of these illegal routes even if they said they had not sent workers in that manner. The actual process is hidden in mystery (bi an) because this route is not carried out through official licensed companies. Also, this route has been continuously used regardless of institutional changes. If they choose this way of migration, applicants do not need to learn the Korean language and it costs them about $2,000 only. However, this route has very low possibility of success and even if they enter Korea, they have to live in hiding (chui lui). The local agents stressed that “doing right (dao ly)” is necessary and important in their work too. Therefore, such migration of sneaking in was against the right way and thus not desirable. They said that although they give secret bribes for successful migration, they maintain ethical sense of trusting each other and doing all their moral duties. A local agent, who helped over 70 people from NT village, said he could gain a lot of income from his work but had to make great effort to maintain relationships every time. He said it was particularly tiring and headachy to treat many people involved. The agents who I met said they too believed that overseas migration cost too much. But they said applicants should bear the costs to avoid such cases as failure to migrate or returning from Korea due to failure in getting a job. Once they succeed in migration, employment, and settlement, they can make a lot of money to offset all the costs. Remittance and Migration as a Family Business with Rational Choice NT villagers who succeeded in their labor migration to Korea paid minimum of US$7,000 to over US$10,000 as the cost. It is widely believed that the international labor migration is the most common way to escape poverty. Yet, not all the migrants are poor. If someone is in a 84 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 serious poverty, it is very difficult for them to achieve the labor migration, in reality. For migration, a huge amount of cost that is unimaginable with the income of farming household is required. It is said that such cost has increased even higher with the EPS implemented. The aspiring migrants and their parents all knew the amount of money needed and when and how that should be paid. In this light, they are “rational peasants” who can calculate the risky investment that takes a long time to retrieve (see, Popkin 1979). If the average monthly salary that they can get in Korea is around US$1,000 and they save up all their salary, they can pay back their ‘investment’ for at least 1 year. In reality, it requires around 18 months to 2 years. So, they should be able to work in Korea as long as possible and remit as much as possible to their home. Labor migration candidates have a precise calculation on such investment payback period and schedule. What is interesting is that there was higher number of people who wanted and succeeded labor migration when they have a family member or close relative who migrated to Korea. In these cases, in particular, they had already accumulated a significant amount of asset through the remittance and were above the middle-class in the village. For these people, labor migration is some sort of “family business.” Almost every NT villager talked about the positive effects of remittance from abroad, as if they directly had seen and felt the real changes in the village. The money sent from migrant workers was of great use in improving economic lives of their families more than anything else. The money was used to improve the necessities of life, first of all. The money was also reinvested in supporting youths to study in better environment. It greatly contributed to public works in the village as well, including expansion of the communal shrines and building a small embankment and a trail along the pond in the center of the village. Most of households with remittance spend their money preferentially on building a new house or purchasing consumer durable goods or luxuries. With a big money in hand in the short term, they have “new aspirations and ambitions” and reinvest the money in educating other children of their own or invest it in real estate. Investment in real estate in particular was acknowledged as the best way to enlarge their fortune. However, for most of them, it is not easy to save the remittance, big enough to invest in real estate. Therefore, investment in real estate has become a new economic goal to the families of migrant workers in recent years. The remittance from Korea has also played an important role in raising funds for communal activities or facilities of the village. Migration served as a public project contributing to the community, as demonstrated in the process of sending villagers abroad and sharing the profits of the money sent from them. NT village had already initiated annual fund 85 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 raising to support education of children from poor families 20 years before.34 In recent 10 years, more people have participated in the fund raising campaign. In 2008, they raised 7 million dong and distributed it to dozens of students. The village chief said residents had “passionately” taken part in public construction projects (cong trinh cong cong) for the village’s communal spaces, such as religious shrines, roads, pond, and walls of the alley since migration increased. In recent few years, New Year celebrations, communal rituals and festivals have become diversified and grown in scale in the village. The village cultural official quoted a saying that goes, “A new economy helps hold rituals on a larger scale. (Co kinh te moi co le lon)” Negative Impacts of Labor Migration As migration increased, so did fraud cases. Although I could not meet the villagers inflicted damages by fraud, there was a wild rumor about the first fraud case in the village. A young man had worked at an industrial complex in Hung Yen province before he lost his job in 2000 and was introduced to a local agent by his friend who had met at the factory. He borrowed a lot of money from his relatives to prepare the cost of $ 5,000 to migrate to Korea. His parents had to resell the gold and silver they had bought by making and selling bricks. He paid the deposit to the agent, but the agent ran away with the money. In about 2003 when applicants for migration were rapidly increasing, a growing number of agents from other villages visited NT to entice youths to migrate. Among them came swindlers as well. Consequently, some youths were cheated into losing all the money they had collected or borrowed for migration. However, the occurrence of a few legal disputes and conflicts over fraud cases did not dampen the enthusiasm for labor migration. Villagers believed that good social relations and intimate feeling (quan he tinh cam) guaranteed safe and sure migration. Mr. Duong said it cost him $8,500 in total to send his son to Korea in early 2008 with the help of an agent from a neighboring village, who worked at a company specializing in exporting workers to Malaysia and the Middle East with many branch offices in Hanoi and other cities. He believed that “the agent should think about everything and solve any problems (moi giay lo het),” hence entrusted everything to him and everything went fast and smoothly. Villagers said NT village had extraordinarily many successful migrant workers because of the people who had maintained reliable agentcustomer relationships. Also, they came to have abilities to sense the danger of fraud because many villagers had already succeeded in migration. 34 http://english.toquoc.gov.vn/chuyenmuc/vanhocquenha/view.asp?n_id=2534&n_muctin=23 86 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The village cultural official also played a role of connecting applicants to “trustable good agents” many times. He said he introduced local agents to neighbors because most of them were farmers who had never left the village since they were born and therefore they could not handle the complicated processes without help. He added it was also important to find and connect agents who had ties with the central labor ministry because village leaders had difficulty doing so in Hanoi even though they could help them well with a lot of work in the local. Labor migration did not have good impacts on all villagers. The gap between rich and poor widened and tough issues regarding child-rearing or conjugal relationships took place. As young people left the village in large numbers, the village turned into that of old people and children. Those who returned from abroad did not always have good impacts on the village either. The returnees transmitted the “bad habit” (tat xau) they had picked up in other countries. The village saw more people squandering money or gambling, leaving home and neglecting their duties without concentrating on farming. Also, arguments between neighbors rose over borrowed money from time to time. Mr. Thanh returned home in 2007, when he was deported after a seven-year stay in Korea as an undocumented migrant worker. His wife had saved the money sent from him while raising their ten-year-old daughter and doing the hard work in the field alone. After his return, Thanh bought more farming land and a used truck as well to do farming properly, but the farming was not easy and his resolution did not last for long. Saying he would do a new business, he met his close friends he had made in Korea and drank almost every day. He had a car accident while being drunk and driving the truck. He gambled in Hanoi and Hai Phong and eventually lost his truck. His neighbors deplored that he was ruined by his migration to Korea. It was a hard and lonely thing for parents and children to live apart for a long time. Some young man had never returned to his country in ten years or more since he left for Korea and his parents deplored they had almost lost their son and daughter. A middle-aged woman said sending children abroad to avoid poverty was a guilty act. Quynh, a woman in her early 50s, sent her daughter to Korea for work.Although she could use the money her daughter had earned, she said she wept every day to think over her daughter’s hard and wretched life abroad. Her daughter worked overtime in a leather factory without taking any day off. She wiped off her tears as she talked about her daughter, who said to her on the phone last winter, “Mom, I’m so tired and cold.” She said, “I’m so anxious and worried (thay chi xot ruot qua) about my daughter.” 87 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Families who remained at home had many difficulties too. A young mother left a fewmonth-old baby at home to work abroad. The baby was looked after by her grandparents, who said the baby was often sick and did not grow well as she did not have her mother beside. They worried about their grandchild, who might misbehave as she grew without her parents. They said, “Although we have built a new, better house, we are so lonely and sad.” Ngoc, aged 34, has lived alone for 8 years, raising two children, since her husband went to work in Korea. As the remittance from him became irregular since three years ago, she has not received any money for a few months many times. Her neighbors said, “Because the couple has already had many conflicts and problems, they don’t trust each other and seldom call recently.” Although poor people decreased in the village, the gap between rich and poor worsened. Some said that labor migration destroyed traditional emotions of rural villages. Lan, the before-mentioned fish and meat vendor, said that as rich people increased in the village, warm human affection between people disappeared. She said, “People are extremely preoccupied in earning more money to become rich (say me lam giau qua).” However, Korea is still the best destination of labor migration? As the experience and expectation from the Korean society are being discussed and as related perceptions are being communicated, they work as a background or a push-factor for labor migration to Korea. First of all, Korea is recognized as a market with a large investment returns guaranteed. Korea is recognized as a place where Vietnamese can live with favorable conditions and has a comparative advantage to countries such as Taiwan and Malaysia. Village people said Korean labor market is stable enough for undocumented foreign workers to find a job, which allow them to remit money to their family for a long time. Thus, Korea is understood as a place where they can retrieve all their investment in a relatively short period of time and earn a lot more money afterwards, despite the high initial investment needed. In addition, Vietnamese migrant workers in Korea have their own communities (cong dong) in Korea which are linked with very strong networks as well. In particular, Vietnamese communities are made up by their social ties originated from home locality. They have usually sustained the insider membership to the home village, and used the networks to exchange resources they need to survive in Korea. Although there are no exact statistics, many workers from NT village have not yet returned since they migrated to Korea before 2000. But in recent few years, returnees began to grow and yet they hope to migrate again. Those who could not find a proper job where they 88 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 can use the skills properly that they had learned in Korea or those who could not save enough money to buy a house or invest in land are “fretting (sot ruot)” over re-migration. I met two people who had been to Korea as industrial trainees on a three-year contract. They said it was natural for them not to have returned even after the contract period was over. Vietnamese workers rent a room and generally a group of four to six workers share the room in Korea. Because they can earn as much money as they could have in a dream as farmers “with dusty feet and soiled hands (chan lam tay bun)” if they work hard for three years, they wish to remain and work even after the contract period ends. To these workers, “Illegal sojourn and working is natural and highly worth trying.” Almost every NT people say Korea is their favorite country for migration. They agreed in their opinion that “Korea’s labor market is the surest one (thi truong Han Quoc la chac chan hon ca). In many cases, Korea was compared with Taiwan, Malaysia, and Japan. To the Vietnamese workers, Japan provides relatively more opportunities to skilled workers and pays higher wages on a stable basis in regular jobs but it is more difficult to prepare for migration because of its complicated process and high costs. Taiwan has the advantages of inexpensive fees for agents and guaranteeing their jobs as contract workers, but migration process and procedure have “fewer loop holes (chat che hon)” and the monthly pay is relatively low. Many people have recently gone to work in Czech Republic, Malaysia, and the Middle East because it is much easier and stable to migrate to these countries. But they said that although the migration costs were low, the pay too was low and the economic effect of migration to these countries was not big. In comparison, they think they could extend their stay and continue their work in Korea. On top of this, undocumented employment was also possible because many Vietnamese have already migrated to Korea and they can help with each other. Moreover, they know that some Korean employers of small-and-medium sized enterprises still prefer to hire foreign workers without official contracts because their wages are relatively low and employers don’t need to buy insurances for the workers. Conclusion: “Culture of Migration” To the people of Vietnam, migration is a way of life. 35 Most migrants have primordial sense of belonging to their hometown, and simultaneously, they show their constructivist local identities that are formulated based on necessity. Vietnamese have a strong understanding that they should maintain the “insider connection to their home village” even if they leave their hometown for long time or forever. This is generally called the "noi tich," or, 35 See, Dang Nguyen Anh (1996; 2008), Hardy (2003), Le Bach Duong (1998), Li Tana (1996), etc. 89 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 cultural membership as an insider of the home village (see, Kleinen, 1999; Truong 2001; Choi 2007). The problem is that this kind of cultural perception is also applied to transnational migrant workers. It explains the Vietnamese “culture of migration.” 36 ‘Culture of migration’ used in this context starts from the proposition that migration is acknowledged as a natural foundation of life in Vietnam, in the light that the migrants are using their hometown network that take migration as a natural choice as a valuable resource to find a better socio-economic status and life for themselves, their family and their neighbor. The Vietnamese “culture of migration” is also applied in labor migration to Korea. This study tried to understand the Vietnamese culture of migration as the sustaining push factors for labor migration to Korea. In the transitional situation of Vietnam, labor-recruiting business activity is maintained in the context where local actors have been afforded significant capacity to mediate, interpret and implement the framework of policies and agreements created by the governments. In particular, since the KLPT became a sole official qualifying procedure for labor migration, and since the central government implemented the allotting quota system to each province, the private businesses are reliant on the support of networks of locality to negotiate smoothly through the processes of gaining certificate license to Korea. In attempting to gain this support, the building and cultivation of social ties with local state officials has constituted an important mechanism. The Vietnamese “culture of migration” that is implicated in the cases of a village of Northern Vietnam has following attributes; migration as rational decision making process of risky investment; migration as a family business; migration practices arbitrarily operated in local level; local state agents and political networks of locality as mediators of successful migration; migration as a pathway of continuous moral economic contribution to their homelands; preserving cultural membership of home village as a key social capital in the processes of migration and returning; reproduction of social networks and copying of community identities in Korea originated from the locality of home country. 36 For a discussion on ‘culture of migration' of other countries, such as Mexico, the Philippines, and India, we can refer to Asis (2006); Kandel and Massey (2002); Cohen (2004), etc. 90 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 References Abella, M. 2003. “Driving forces of labour migration in Asia,” World Migration 2003: Managing Migration Challenges and Responses for People on the Move. Geneva: IOM. Ananta, Aris & Evi Nurvidya Arifin eds. 2004. International Migration in Southeast Asia. Singapore: ISEAS. Asis, Maruya M.B. 2004. "Borders, Globalization and Irregular Migration in Southeast Asia," in Aris Ananta & Evi Nurvidya Arifin eds., International Migration in Southeast Asia. Singapore: ISEAS. pp.199-227. ______ 2006. "The Philippines' Culture of Migration" in Migration Information Source. http://www.migrationinformation.org/Profiles/display.cfm?ID=364 Bennett, Jonathan 2009. "The Development of Private Tourism Business Activity in the Transitional Vietnamese Economy," in Michael Hitchcock, Victor T King, Michael Parnwell eds. 2009, Tourism in Southeast Asia: Challenges and New Directions. Singapore: ISEAS. pp.146-164. Castles, Stephen 2002. "Migration and Community Formation under Conditions of Globalization," The International Migration Review 36(4): 1143-1168. Choi Horim. 2007. "Ritual Revitalization and Nativist Ideology in Hanoi," in Philip Taylor (ed), Modernity and Re-Enchantment: Religion in Post-Revolutionary Vietnam, Singapore: ISEAS. Cohen, Jefferey H. 2004. The Culture of Migration in Southern Mexico. Austin: University of Texas Press. http://www.utexas.edu/utpress/excerpts/excohcul.html Dang Nguyen Anh 1996. “Internal Migration and Development in Vietnam," PSTC Working Paper #96-05. Population Studies and Training Center, Brown University. ______ 2000. "Emigration and Emigration Pressures in a Transitional Viet Nam," APEC/JETRO Conference Proceedings. Chiba: Institute of Development Economies. ______ 2008. "Labour Migration from Viet Nam: Issues of Policy and Practice," ILO Asian Regional Programme on Governance of Migration Working Paper No.4 Dang Nguyen Anh, Cecilia Tacoli, and Hoang Xuan Thanh 2003. “Migration in Vietnam: A Review of Information on Current Trends and Patterns, and Their Policy Implications,” Paper presented at the Regional Conference on Migration, Development and Pro-Poor Policy Choices in Asia, June 22-24, 2003, in Dhaka, Bangladesh. Dao The-Son & Nguyen Ngoc Quynh 2009. “Does Internatinal Migraion Contribute to the Improvement of Household Living Standard in Vietnam?” Paper presented for the Vietnam Update 2009 Confeerence “Migration Nation”, Nov. 19-20, ANU, Canberra. Hardy, Andrew. 2003. Red Hills: Migrants and the State in the Highlands of Vietnam. Singapore: ISEAS. 91 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Hugo, Graeme 2004, "International Migration in Southeast Asia since World War II," in Aris Ananta & Evi Nurvidya Arifin eds. International Migration in Southeast Asia. Singapore: ISEAS. pp. 2870. Kandel, William and Douglas S. Massey. 2002. “The Culture of Mexican Migration: A Theoretical and Empirical Analysis,” Social Force 80(3): 981-1004. Kleinen, John 1999. Facing the Future, Reviving the Past: a Study of Social Change in a Northern Vietnamese Village. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies. Koh, David W. H. 2006. Wards of Hanoi. Singapore: ISEAS. Le Bach Duong 1998. "State, Economic Development, and Internal Migration in Vietnam," Dissertation of PhD in Sociology, the Graduate School, Binghamton University, State University of New York. Li Tana 1996. Peasants on the Move: Rural-Urban Migration in the Hanoi Region. Singapore: ISEAS. Popkin, Samuel L. 1979. The Rational Peasant. Berkeley: University of California Press. Truong Huyen Chi, 2001. Changing Processes of Social Reproduction in the Northern Vietnamese Countryside: An Ethnographic Study of Dong Vang Village (Red River Delta). Ph.D. Dissertation of the University of Toronto. Wee, Vivienne and Amy Sim 2004. “Transnational Networks in Female Labour Migration,” in Aris Ananta & Evi Nurvidya Arifin eds., International Migration in Southeast Asia. Singapore: ISEAS. pp.166-98. MOLISA (Vietnamese Ministry of Labor, Invalids and Social Affairs), 2006 & 2008 References in Korean Chae, Suhong, 2007 “귀환 베트남 이주노동자의 삶과 동아시아 인적 교류”, [Vietnamese Returnees from Immigrant Work in Korea, Their Life and Human Exchange in East Asia], 『비교문화연구』 [Cross-cultural Studies] 13(2): 5-39. Choi, Horim 2003. “베트남 도시 마을에서의 국가—사회관계: 하노이 ‘프엉 응옥 하’(Phuong Ngoc Ha)를 중심으로” [The State-Society Relations in Vietnamese Urban Community: A Case Study on 'Phuong Ngoc Ha' in Hanoi], 『비교문화연구』 [Cross-cultural Studies] 9(1): 29-74. ______ 2010 “동남아시아의 이주노동과 지역 거버넌스”[Transnational Labor Migration in Southeast Asia and Regional Governance: In Search of Good Governance] 『동남아시아연구』 [Southeast Asian Studies] 20(2). (in Korean) Chun, Hyungkwon, 2006 “모국의 신화, 노동력의 이동, 그리고 이탈: 조선족의 경험에 대한 다이아스포라적 해석” [Myth of Motherland, Movement of Labor Force and Separation: Diasporic Interpretation of the Korean-Chinese Experience], 『한국동북아논총』 [Journal of North-East Asian Studies] 38: 135-160. 92 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Kwon, Kichul, Hongku Kim, and Heejae Kim, 2005. 『동아시아의 이주노동자: 현실과 정책』. [Migrant Workers in East Asia: Reality and Policies]. Pusan: PUFS. Lee, Suja, 2004. “이주여성 다이아스포라: 국제성별분업, 문화혼성성, 타자화와 섹슈얼리티”. [Female Migrant Diaspora: International Gender Division of Labor, Cultural Hybridity, Otherness, and Sexuality], 『한국사회학』 [Korean Sociology] 38: 189-219. Park, Baegyoon, 2004. “세계화와 잊어버림의 정치: 안산시 원곡동의 외국인 노동자 거주지역에 대한 연구” [Globalization and the Politics of "Forgetting": A Study on a Foreign Immigrant Community in Wongok-dong, Ansan], 『한국역사지리학회지』 [Journal of the Korean Historical and Geographical Society] 10(4): 800-823. Park, Kyungtae, Donghoon Seol, Sangchul Lee, 1999. “국제노동력 이동과 사회적 연결망: 경기도 마석의 필리핀인 노동자 집단을 중심으로” [International Labor Migration and Social Networks: The Case of Filipino Workers in Masok, Korea] 한국학술진흥재단 1997년 자유공모과제 보고서 [Korea Research Foundation Report in 1997]. Research Institute of Korean Labor & Society [한국노동사회연구소] 2005. 『고용허가제 1년, 외국인력 정책 및 취업교육 평가와 개선방향』. [The First Year of Employment Permit System (EPS), Evaluation and Improvement Direction of Foreign Labor Policy and Employment Training]. Seoul: Korea International Labor Foundation (한국국제노동재단). Seol, Donghoon, 1998. 『외국인노동자와 한국사회』 [Foreign Workers and Korean Society]. Seoul: SNU Press. 2000. 『노동력의 국제이동』 [International Migration of Labor]. Seoul: SNU Press. Korean Immigration Service. 2009/2010. Monthly Report of Immigration-Foreigners Policy National Statistics Office. 2008. Hanoi branch office of HRDSK. 2008. Unpublished documents http://www.bacninh.gov.vn/Story/VanHoaDuLich/TinTucVanHoa/2007/1/7735.html http://english.toquoc.gov.vn/chuyenmuc/vanhocquenha/view.asp?n_id=2534&n_muctin=23 93 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Low-skilled Labour Policies: Right-Based Approaches and Gendered Dimensions: A Case Study of Indonesian Migrant Workers in Peninsular Malaysia Dr. Balambigai Balakrishnan Transient Workers Count Too, Singapore Tóm tắt Malaysia là một trong những quốc gia tuyển dụng nhiều nhất lực lượng lao động tay nghề thấp di cư đến từ khu vực Đông Nam Á. Trong ba thập kỉ gần đây, để đối phó với tình trạng khan hiếm lao động do quá trình công nghiệp hóa nhanh cũng như việc từ chối làm những công việc quá mất vệ sinh, nguy hiểm và khó khăn - gọi tắt là “3D”, đất nước này phải dựa vào nguồn lao động di cư. Những việc làm này vốn không đòi hỏi người lao động di cư kĩ năng tay nghề. Hơn 95% lao động di cư ở Malaysia làm việc trong lĩnh vực này, thường hợp đồng làm việc giới hạn cao nhất là 5 năm và không có khả năng được nhập quốc tịch trong tương lai. Năm 2011, có khoảng 1,6 triệu hồ sơ xin nhập cư vào Malaysia, chiếm khoảng 14% trong số 11 triệu lao động nước này làm việc ở 6 lĩnh vực. Các lĩnh vực tương tự cũng tuyển dụng một số lượng lớn lao động nhập cư trái phép và một số ít lao động nhập cư thường trú dài hạn. Ước tính vào đầu tháng 1 năm 2009, có khoảng 1,2 triệu lao động không phép ở Malaysia. Các dữ liệu năm 2000 cho thấy có khoảng 290.573 lao động thường trú dài hạn ở Malaysia. Mặc dù lao động nhập cư đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế ở Malaysia, nhưng chính sách nhập cư vẫn chưa nhấn mạnh vào tầm quan trọng của lực lượng này. Cho đến nay, chính sách dành cho lao động di cư có tay nghề thấp ở Malaysia chủ yếu vẫn mang tính nhất thời, nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề thiếu hút lao động và tình trạng bài ngoại, hơn là xem nó như là chiến lược kinh tế và tầm nhìn quốc gia hướng đến vấn đề bảo vệ quyền con người. Ở Malaysia, có bằng chứng cho thấy rằng các chính sách dành cho lao động di cư làm việc trong lĩnh vực lao động phổ thông có sự phân biệt trên cơ sở giới. Nam giới sẽ bị phạt rất nặng nếu họ bị phát hiện nhập cư không phép và có ít cơ hội hơn trong việc xin cư trú lâu dài ở Malaysia, thậm chí khi họ đã kết hôn với người địa phương. Nam giới thường được thuê làm việc trong những lĩnh vực đòi hỏi sức mạnh về thể chất và sống trong những điều kiện khắc nghiệt như ở đồn điền, ngành công nghiệp xây dựng. Những người này thường được trả thù lao cao hơn so với các lĩnh vực khác do nhận thêm tiền trợ cấp lao động. Lao động nữ thường làm những việc trong nhà vốn không chịu nhiều quy định khác nhau và do vậy cũng không nhận được bất cứ sự bảo vệ nào của pháp luật. 94 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Malaysia vẫn còn thiếu cơ chế quản lý hiệu quả và minh bạch trong đó có vấn đề quyền và phúc lợi dành cho người di cư. Những phúc lợi của người lao động trong lĩnh vực phổ thông thường tùy theo long tốt của chủ thuê mướn (như mức lương tối thiểu, ngày nghỉ, y tế sức khỏe). Trong khi lao động nhập cư tạo ra những lợi ích kinh tế ở Malaysia nhưng họ phải đối mặt với hàng loạt những bất lợi về mặt xã hội. Những ví dụ theo cách tiếp cận quyền và chiều cạnh giới được đưa ra dựa vào các dữ liệu từ cuộc nghiên cứu năm 2009 (Luận án tiến sĩ của tác giả) khảo sát 858 lao động phổ thông nhập cư từ Indonesia đến Malaysia từ 1980 và làm việc trong 6 lĩnh vực lao động. Cuộc nghiên cứu này củng cố thêm quan điểm về sự hiện diện của bất bình đẳng giới và quyền con người. Sự khác biệt được thể hiện trong tình trạng hôn nhân (những gia đình ly tán), tính chất việc làm, kĩ năng được tích lũy và kiều hối. Ví dụ, trong khi lao động di cư thường có thu nhập thấp hơn người Malaysia, phụ nữ tạo thu nhập thấp hơn nam giới. Tuy nhiên, những nước xuất cư lại nhận lượng kiều hối cao hơn từ lao động nữ. Phần kết của bài viết này sẽ đề cập đến tác động của chính sách di dân. Bài viết khuyến nghị các chính sách nên hạn chế sự mở rộng khoảng cách giới và quyền con người. Để làm điều đó, nó đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực hơn của các bên có liên quan, kể cả nước gửi và nước đón nhận lao động di cư, trong việc phát triển và thực thi các chính sách phải phản ánh sự chia sẻ nền tảng về văn hóa lịch sử và sự mở rộng của cách mạng công nghiệp có thể đóng gióp vào cuộc thảo luận toàn cầu về hiện tượng lao động xuyên quốc gia. 95 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Introduction Malaysia is one of the largest employers of low-skilled37 migrant workers in the Southeast Asia region (IOM 2010a). In the last three decades, the country has relied heavily on migrant workers to deal with the labour shortage caused by the rapid industrialisation and sophistication of a local labour force that shunned the ‘3D’ jobs: or jobs considered dirty, difficult and dangerous, otherwise also known as the unskilled/low-skilled or semi-skilled jobs (Hugo 2005c; Kanapathy 2008c; Schuman September 6, 2010). More than 95 percent of migrant workers in Malaysia are employed in this sector and are almost always limited to a maximum 5 year work period with no prospect for future citizenship. As shown in Table 1, in 2011, there were 1.6 million documented migrant workers in Malaysia representing about 14 percent of the Malaysia’s labour force which consisted of 11 million workers. The low-skilled sectors also employed the undocumented and permanent resident migrant workers. An estimate at the beginning of January 2009 indicated close to 1.2 million undocumented migrant workers and a legalisation process of illegal workers in 2011 registered 1.3 million undocumented workers (David and Subramaniam January 20, 2009; Letchumanan September 11, 2011). Data in 2000 indicates that there were 290573 permanent residents in Malaysia (Kanapathy 2008b) . Although Table 1 indicates a decline in the number of migrant workers in the Malaysian labour force since 2008, when the estimates on undocumented migrants and permanent residents are included the migrant workers in that year has been estimated as high as one in five of the total workers in employment in Malaysia. A report by Department of Statistics Malaysia (2001) concerning the 2000 Census data indicates a gender imbalance among non-Malaysian citizens, with a ratio of 129 males to 100 females among non-Malaysian citizens, or almost 40 percent. This contradicts the general significant trend of the “feminisation” of international migration with a large percentage (almost half) of Asian international migrants being women (IOM 2005; Piper 2005a; Brooks and Devasahayam 2011; Cristaldi and Darden 2011). However, the area has received little research or policy attention in Malaysia. 37 Those who earned MYR 2500 or less monthly in approved sectors are classified as low-skilled workers and almost 95 percent of the temporary migrant workers in Malaysia fall into this category (Abubakar 2002; Kanapathy 2006; Kassim 2006a). 96 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Table 1 Distribution of Indonesian Documented Migrant Workers in Malaysia, 19972011 Total Total in Total Number of % of % of % of % of Malaysian Malaysian Number Indonesian Indonesian Migrant Indonesian Indonesian Population labour of Workers from total workers in from total from total (in force (in Migrant Migrant Malaysian Malaysian population millions) millions) Workers workers labour labour force force in Malaysia 1997 21.7 8.8 627426 316111 50 7 4 1 1998 22.2 8.9 395140 210772 53 4 2 1 1999 22.7 9.2 409660 269194 66 4 3 1 2000 23.3 9.6 807096 603453 75 8 6 3 2001 24.0 9.7 849829 634744 75 9 7 3 2002 24.5 9.9 1067529 788221 74 11 8 3 2003 25.1 10.2 1336980 988165 74 13 10 4 2004 25.6 10.4 1470090 1024363 70 14 10 4 2005 26.1 10.4 1815238 1211584 67 17 12 5 2006 26.6 10.6 1869209 1174013 63 18 11 4 2007 27.2 10.9 2044805 1148050 56 19 11 4 2008 27.7 11.0 2062596 1085658 53 19 10 4 2009* 27.7 11.4 1918146 991940 52 17 9 4 2010 28.3 11.5 1817871 792809 44 16 7 3 2011 # # 1573061 785236 50 14 7 3 28.3 11.5 # *As of January 2009, Assumed to be same as previous year (data is not available) Source: DOSM 2008; 2008a; June 2011; 2011b; DOIM Unpublished Data Although migrant workers play an important role in Malaysia’s economic growth and in filling employment need, migrant policies do not stress their importance. The policies, which started developing actively with the signing of Medan Agreement (with Indonesia) in 1984, have been largely responsive to Malaysian public’s opinion (M A Kramer et al. 2008; The Star March 11, 2009) and boosting national pride (Healey 2000). With other objectives in mind, the policies in the low-skilled sectors are found to be discriminatory at some level on the basis of gender and Malaysia lacks efficient and transparent governance that encompasses the rights and welfare of the migrant. The ad-hoc and partial policies often concentrate on solving issues temporarily rather than taking strategic views. Furthermore, instead of designing policies that applied to all source countries, Malaysian policies are always countryspecific (ADB 2008). The Philippines in 1997 (Healey 2000), Indonesia in 2011 and Cambodia in 2012 banned their domestic workers from going to Malaysia (Migration News 97 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 January 2012), all asking for the establishment of minimum wages and better employment conditions. Malaysia’s response was to hire more Indonesian domestic workers with the Filipino ban; more Cambodians were employed following the ban of Indonesians; and more Indonesians were approved after the ban of Cambodians. As a result, the migrants are led to rely on the mercy of their employers for their rights to employment benefits (such as minimum wages, holidays and medical leave). In sum, while the majority of the migrant workers gain economically working in Malaysia, only a minority may have gained socially, often at their own will rather than guided by policies. This paper attempts to discuss the gendered dimensions and investigate Malaysian policies from a rights-based perspective. The discussion is supported by data gathered from a field survey (author’s PhD research) of 858 low-skilled Indonesian migrant workers who have arrived in Malaysia since 1980 and are employed in six labour sectors. The paper gives a brief overview of the Indonesian-Malaysian migration corridor. The research methodology is then outlined. The concept of nation-state, with particular reference to Malaysia, is then examined in order to understand the platform underpinning Malaysia’s migration policies. This paper then explores the gender and human welfare dimensions by looking at the social and economic consequences of Indonesian migration in the low-skilled sector. The paper concludes with policies aiming to close the widening gender and human right gaps in migration policies in Malaysia. In doing so, it calls for a higher involvement of all stake holders in developing and implementing policies. Background: Indonesia–Malaysia Migration Corridor The migration of Indonesians to Malaysia is the largest international migration flow between two ASEAN members and it occurs between the largest sending country and the largest receiving country in this region (DRC Migration 2007; IOM 2010a). The outflow of remittances from Malaysia was the highest in the Asia region in 2008 and almost half was sent to Indonesia (Ratha et al. 2010). Malaysia has also been the largest recipient of Indonesian migrant workers and the largest contributor to the Indonesian remittances (Raharto 2007; Hernandez-Coss et al. June 2008). While the movement between these two countries has long historical roots, it gained momentum in the 1980s (Bahrin 1965; 1967). The number of Indonesian migrants in 98 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Malaysia has grown from an estimated 200,000 in the mid 1980s to over two million in 2010 (ESCAP 1985; Hugo 1988; Migration News January 2012). The majority of these migrants are employed in the low-skilled sectors. Some of the migrants who arrived in the 1980s regularised their settlement in Malaysia by acquiring permanent residency, however the majority have joined the labour force as either documented or undocumented workers. The statistics on documented workers reported by Department of Immigration Malaysia (DOIM) as shown in Table 1, indicate the Indonesians as dominating (more than one-third) the migrant worker labour force in Malaysia for more than a decade. However, as a result of Malaysia wanting to reduce it’s over reliance on one country’s labour, as well as wanting to strengthen bilateral relationships with other countries in the region, the proportion of Indonesians in the migrant labour workforce has been reduced gradually since its peak in 2001 and 2002. In 2011, migrant workers were recruited from at least 13 countries, with almost half of them being Indonesians. Vietnam and Cambodia emerged as new source countries making up 3.4 and 2.3 percent of the total migrant workers recruited. Table 0 Number of Contract Migrant Workers in Malaysia by Citizenship and Sector, 2011 Agriculture Construction Domestic Manufacturing Plantation Services Total Workers Indonesia Bangladesh Nepal Myanmar India Vietnam Philippines No % No % No % No No % No % No % 86141 57 161691 72 134733 73 125155 22 251569 84 25947 20 6951 5 24696 11 49 63369 11 12208 4 9390 7 7.4 11157 7 3750 2 74 214242 40 2478 1 26796 20 16.4 49.9 6254 4 13709 6 102 107201 19 3202 1 15658 12 9.3 21039 14 3794 2 504 5707 1 17749 6 38606 29 5.6 496 0 2507 1 996 1 48208 8 138 1128 1 3.4 9 8354 6 4816 2 16932 4256 1 5784 2 4217 3 2.8 Pakistan 10849 7 5695 3 25 3190 1 5251 2 1219 1 1.7 Thailand 630 347 506 3631 3 0.4 Cambodia 286 236 6 1775 4 0.5 China Sri Lanka Others Total 669 29152 1 157 64 1110 5 286 36 152325 100 223688 100 16 32 184092 1 100 5952 55 260 396 774 38 5383 2241 483 541 0.3 19 2 7 49.9 580820 1 100 299217 100 132919 2.3 100 1573061 Source: DOIM, Unpublished Data The low-skilled migrant workers generally and Indonesians specifically, are legally employed in six major sectors in Malaysia: agriculture, construction, domestic work, manufacturing, plantation and service. The Department of Labour Force Peninsular Malaysia (DLFPM), Ministry of Human Resources guidebook outlines the type of jobs and responsibilities by each 99 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 sector (and the allowable number of migrant workers per sector). The agriculture sector covers rice, poultry, fisheries and fruits and vegetable farming. The plantation sector includes the large-scale farming of palm, cocoa, rubber and coconut. Workers in the plantation sector are divided into two groups: those who do agricultural work (planting, harvesting, weeding and general maintenance plots) and non-agricultural work (transportation, repair and maintenance, activities in processing and production in the oil palm mills). In this study both these sectors are combined and referred as plantation sector. As shown in Table 1, the manufacturing sector now has the largest share of foreign labour and employs approximately 30 percent of the total number of migrant workers in Malaysia. Migrant workers are mainly employed as production operators in this sector. They are also found in the wood and food manufacturing industries. The service sector allows migrant workers to find employment in restaurants, laundries, cleaning services, resorts, charity homes, retail and wholesale outlets, textiles, goldsmiths, hair salons, and recycling industries. However, migrant workers are not permitted in any front-line jobs such, as cashiers or counter clerks. In the construction sector, workers are employed in constructing low and high rise building, highways, bridges, overhead transmission power lines, underground cable pooling, landscaping and other projects (DLFPM November 2006). The domestic work sector recruits workers to carry out household duties, including those of caring for children and the elderly population (Chin 1997; Kassim 2006a). This is the only sector which is not recognised as a formal sector. The sector does not come under the various employment regulations, and it does not provide any protection under the employment law in Malaysia. As a result, the employees in this sector, almost all female, do not enjoy many rights: they are not eligible for sick leave or public holidays; they have no specific break periods or days off; there are no official limits to the hours worked; there is no paid overtime or termination benefit; and there is no annual leave (Piper 2005a). The employment terms are largely dictated by the employers and, therefore, are dependent on their goodwill (or lack of it). The policies also differed from one source country to another depending on their bilateral agreements. As shown in Table 2, the Indonesian low-skilled workers made up the largest share of migrant workers employed in 2011 in all sectors, apart the manufacturing and services sectors. In addition to the approved sectors, the migrant workers, especially Indonesians are found 100 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 involved in petty trading, self-employment (hawkers, cobblers, tailors, freelance domestic workers, drivers and others) and other jobs (Lean and Hoong 1983; Kassim 2000, p. 102). Such jobs which paid MYR 2500 or less monthly were classified as in “others” sector in this study. Unlike the documented and undocumented workers who are legally prohibited from finding employment in this sector, the permanent residents, as with Malaysian citizens, do not have any restrictions on their work in this sector. In fact, this sector employs many Indonesians who fled Aceh in the 1980s, gained illegal entry into the Peninsular and later obtained their permanent residencies (Wong and Anwar 2003b). Their presence is highly noticeable in central areas of Kuala Lumpur. Research Methodology Data for this paper were drawn from various sources. While most published data was obtained through government reports (see later), access to much unpublished data was gained during in-depth interviews with major stakeholders. The secondary data was drawn from three major sources of international migration data in Malaysia: Department of Statistics, Department of Immigration Malaysia and other administrative agencies. The Indonesian Migrant Worker Survey (IMW2009 Survey) data presented in this paper was collected from April 2009 for a period of three months through a survey of 858 respondents. Face-to-face individual interviews were undertaken with Indonesian labour migrants who first arrived in Malaysia before 2007, were above 18 years old and found working in lowskilled sectors. Due to lack of a sampling frame, participants were selected using convenience and snowball sampling. The survey had a geographical scope limiting to the state of Selangor and Federal Territory of Kuala Lumpur, which is the capital city of Malaysia. These two states were among the top three states which had the largest share of migrant workers in Peninsular Malaysia. The survey ended with usable responses from 858 respondents of which 56 percent (481) were from documented workers, 21 percent (180) from undocumented workers and 23 percent (197) from permanent residents. Among these 40 percent were females. Nation-State of Malaysia Malaysia aims to become a fully developed country by 2020, a vision created in 1991 by the then Prime Minister Dato Seri Dr Mahathir Mohamad. This vision sees Malaysia as fully developed “in terms of all dimensions of national life: national unity and social cohesion, the economy, social justice, political stability, system of government, quality of life, social and 101 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 spiritual values, and national pride and confidence” (Economic Planning Unit 2005, p. 8). Furthermore, Millennium Development Goals (MDG) for Malaysia centres on ensuring human well-being and eradicating poverty. However, none of these goals specify the contributing role of migrants, nor indicate Malaysia’s responsibilities to its non-citizens. In Malaysia, migrant workers are generally perceived as security threats rather than economic contributors (Cabbalero-Anthony 2008; Arifianto 2009; Wong 2009). This is compounded by the public’s perception of migrants as stealing their jobs (although Malaysia’s economy structurally depends on them), committing crimes (the rate of migrant crime is not significantly high), spreading diseases, being involved in terrorist activities and spreading deviant religious teachings (Healey 2000; Wong 2004; Wong 2009; Selvarani and Vijaindren May 25, 2008). The large flow of undocumented migration further undermines the image of migrant workers in Malaysia. There was an attempt to deal with illegal migrants with largescale arrests and deportations in the 90s, with operations like “OpsNyah” (which means “Get out”), coinciding with the economic downturn (Arifianto 2009). When migrants protested for better wages, treatment or rights, recruitment bans were imposed on the countries of protesting nationals or new policies such as “Hire Indonesian Last”, were generated (Gurowitz 2000; Liow 2003). Consequently, the Malaysian public views all migrant workers as a problem and potential threat to Malaysia (Kamal October 6, 2009). This has been confirmed by Klemans and Klugman’s (2009) international research on host country’s attitudes towards immigrants, in which the Malaysian public were assessed as having the lowest tolerance of migrants of any country in this study. More than 90 percent of Malaysians are in favour of prohibiting entirely or limiting the number of migrants in Malaysia. About 50 percent do not want to live next to a migrant in Malaysia (PEW 2007). Such negative attitudes towards migrants undermine the potential positive developmental gains of migration. Malaysia’s resistance towards international migration lies in the history of its making (Andaya and Andaya 1982; Khoo 1999). Prior to independence, Britain’s efforts to establish a country with equal rights for all members failed in Peninsular Malaysia due to the strong opposition from the Malay nationalists (who proclaimed themselves as the “natural” owners of the country) (Andaya and Andaya 1982; Khoo 1999). An agreement was reached, prior to independence, that while the non-Malays’ were to have citizenship (Khoo 1999), the Malays were to be endorsed as the dominant ethnic group with Islam as the official religion and Malay as the official language (Boon-Kheng 2002; Boon-Kheng 2004; Saravanamuthu 2004). 102 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 In Sabah and Sarawak, in addition to the Malays, the indigenous communities (such as Dayak, Iban, Kadazan and others) were to be recognised as the key members of the nationstate. Since 1971, the Malay and indigenous communities have been classified as “Bumiputera” (which means “son of soil”) and they have a certain priority in education, employment, political power and wealth due to the incorporation of a quota system (Ariffin 1995, p. 347). Despite the policies having been reviewed, the prioritizing of the Bumiputera, which was originally to have been in place for 14 years, has continued. Making all citizens equal has not yet become a part of the national agenda. This inequality, based on ethnicity, strongly influences the identity and national feeling of Malaysia’s multi-cultural populations. Thus, Malaysia lacks a national unity and shared national identity (Boon-Kheng 2004, p. 1). The inequality experienced has influenced some Malaysians to emigrate permanently (Lam and Yeoh 2004). Citizenship provides membership to a country in which all members are thought to have legislated equal rights (Castles and Miller 2009). However, in Malaysia, there are irregularities in relation to equality concerning gender, race and ethnicity (Balasubramaniam 2004; Saravanamuthu 2004; Mascarenas 2012). There are many examples of these. Malaysian women do not have the same rights as Malaysian men if they marry a non-national; the process has embedded within it the assumption that only wives (of Malaysian citizens) are able to proceed with possible permanency and citizenship (see chapter 2). As race in Malaysia is determined by the race of the child’s father, Malaysian women who are married to foreigners are encouraged to emigrate, citizenship not being extended to their children. Every citizen does not have equal freedom of mobility within the nation: Sabahans and Sarawakians are free to enter Peninsular Malaysia, for work or to reside (Sim 2002) while Peninsular Malaysians are required to obtain work permits when moving to Sabah or Sarawak and face highly restrictive permanent settlement policies (Fernandez 2009). Maintaining the indigenous ethnic dominance within these states is suggested as the reason for such restrictions. Castles and Miller (2003, p. 138) suggest that Malaysia’s complex ethnic composition has influenced its international migration policies. Unlike Singapore, which facilitates the permanent residency of the high-skilled workers, Malaysia resists the permanent settlement of most migrants whether skilled or unskilled. While allowing low-skilled labour migration, it disenfranchises them with highly restrictive policies (a time bound contract, being tied to a 103 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 particular employer, not being allowed to bring their families and not being allowed to marry a local) (Battistella 2007). The delicate ethnic issues within Malaysia complicate any attempt to confront the issue of migrants, documented and undocumented. For example, while Chinese and some ethnic Malays are wary of the inflow of Indonesians (as they are thought to strengthen Malay electoral power) (Kassim 1997; Gurowitz 2000; Jones 2000), the Malay or “Bumiputera” politicians are wary of anyone who reduces their racial dominance (Sadiq 2009). Migration respecting migrants’ rights is more possible when labour movements have been active or when countries are willing to uphold the world’s best practice in relation to human rights (Piper 2010). However, Malaysia, which does not yet have an equal rights-based multicultural society, prohibits most forms of workers’ rights to migrant labourers (Gurowitz 2000). If Malaysia is to continue to compete with other lower-wage migration countries, such as China and Vietnam (Migration News January 2012), there is a need for the migration policies to be revised so as to protect the rights of the migrant workers. The cultural form of the nation-state of Malaysia is as yet ambiguous and unfinished, unresolved and contested (Wong 2009, p. 309). The issue of migration is a challenge to any nation state; to a nationstate still evolving its human rights issues and governance it is a very big challenge. Rights-Based Approaches The rights of migrant workers in this paper are examined in relation to rights to access good health care facilities, housing, skill development and information that protect migrants from unscrupulous practices by members of the migration network especially agents. Health Care The ASEAN Committee on the Implementation of the Declaration on the Protection and Promotion of the Rights of Migrant Workers (ACMW) in 2008, called for a focus on, among other things, occupational safety and the health of migrant workers among member countries (ASEAN 2009). Consistently, the Workmen Compensation Act in Malaysia requires employers to provide medical care and payment of costs for work-related injuries. However, it was not made a compulsory pre-requisite for employing a migrant worker as in Singapore. Therefore, the medical care they received depended on employers’ goodwill. Only recently, (after a significant number of abuses) through a bi-lateral agreement with Malaysia, Indonesia made it compulsory for all domestic workers (only) to have insurance coverage which includes health care benefits. 104 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The migrant workers’ health care in Malaysia is an on-going issue with the media and public, however, with only negative aspects being highlighted. The workers have been accused of contributing to the increase in public medical expenditure in Malaysia (Kananatu 2002). Although, unpaid medical bills by foreign patients have increased steadily from MYR 3.4 million in 1995, to MYR 12.8 million in 2008 (Iszahanid 2009), the cost which made up only one percent of the total expenditures of Ministry of Health in 2008(Ministry of Health 2008 ), is not out of proportion when compared to the size of migrant workforce, which stood at almost 10 percent of Malaysia’s labour force, contributing enormously to its economy. In an attempt to maintain a healthy population, Malaysia screens migrant workers’ health at various stages: prior to migration (at the home country), in the first three months upon arrival in Malaysia and annually as a requirement to renew their permits. They are tested for about 15 major diseases, as shown in Table 3. In 2007, compulsory medical examinations of documented migrant workers, reported an estimated 3.2 percent of 1.3 million workers tested as unfit. Pregnancy has also been included as an additional criterion for woman to be declared unfit to work in Malaysia. This requirement undermines the rights of migrant females in Malaysia. The unfit workers, and any pregnant women, are deported immediately (even when their health issues have arisen while in Malaysia). Those who use illegal routes and the permanent residents do not undergo such medical examinations. As suggested by UNDP (2009), the access to health care differed by the status of migrants and sector of employment. The permanent residents, with their legal right to reside in Malaysia, had full access to all medical benefits offered to Malaysian citizens. However, for others in the IMW2009 survey, cost and confidentiality were major issues of concern to migrant workers in accessing health care. Except for plantation and domestic workers and a few others, migrant workers bore high medical costs themselves. In some instances, employers paid bills, which were then deducted from their monthly salary. Private health centres cost around MYR30 per visit (which includes medicines), around 3 to 6 percent of a documented worker’s monthly salary of between MYR 500 and 1300 and 79 percent resorted to private clinics when they had health issues in order to maintain some confidentiality. Table 3 Distribution of “Unfit” Migrant Workers According to Type of Diseases in Peninsular Malaysia and Sabah, 1998-2005 & 2007 105 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Diseases Screened 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2007* HIV/AIDS 0.7 0.6 0.9 1.0 1.4 1.5 1.3 1.5 1.6 TB 7.8 8.6 11.4 15.8 14.5 12.5 12.3 15.7 39.8 Syphilis 14.9 17.7 14.4 8.2 7.4 8.7 8.4 8.4 6.7 Hepatitis B 68.6 56.2 52.0 44.3 51.0 52.2 50.1 42.8 26.1 Psychiatric Problems 0.1 0.1 0.1 0.0 0.2 0.2 0.1 0.1 0.4 Pregnancy 5.3 4.9 5.8 4.9 5.6 3.6 3.9 5.2 5.6 Others 2.6 12.0 15.5 25.8 19.8 21.4 23.9 26.3 19.8 Total Unfit (‘000) 24.0 14.0 11.0 9.0 8.0 19.0 25.0 38.2 41.6 Percentage Unfit 4.4 2.6 2.0 1.8 2.2 2.6 2.8 3.3 3.2* Number Tested (‘000) 566 545 526 500 403 716 909 1,158 1,300@ @ an estimation, source: (Edwards 12th April, 2009) Source: Ministry of Health Annual Report 2003; 2005; *Selvarani and Vijaindren May 25, 2008 When faced with occupational injuries (10 percent from the total), 66 percent had their medical costs paid by their employers, 22 percent paid their own and the rest a combination of resources. Eighteen percent had consequently lost their jobs after the accidents. Among those who lost their jobs, 50 percent were in the construction industry. During the interviews, the documented and undocumented migrant workers expressed fear of losing their jobs if they were sick and needed to take leave. They therefore concealed their sickness from their employers and sought medical treatment from private clinics. Through the stringent application of health checks, initially and then annually, the government is seen to be safeguarding Malaysia’s population. However, there are no policies to improve or ensure that migrants stay healthy and free from occupational hazards during their working life in Malaysia. While the majority of Malaysians (in the low-skilled sector) receive medical benefits, migrant workers are without policies to ensure this basic right. Housing Living conditions in the host country effect the quality of life migrants enjoy (World Health Organisation 2003b). In order to save as much as possible, economic migrants, in most cases, try to keep their living expenses to a minimum and often stay in accommodation provided by their employers (Kassim 2000). 106 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Kassim (2000) has found that the living conditions of the migrants is related to the sector in which they are employed and their status. Most (91 per cent) of the domestic workers in the IMW2009 survey, being documented, lived with their employers in houses with at least three bedrooms, reflecting the lifestyle of Malaysians with sufficient income to employ a domestic worker. The domestic workers either had their own small room or shared with others. They had access to good basic amenities, similar to their employers and, consequently, lived in better conditions than most other migrant workers. Just six per cent of domestic workers lived in flats independently. These migrants enjoyed a higher freedom than most workers in this sector and some had family members living with them. Fifty-five per cent of construction workers, both documented and undocumented, lived at the construction site they worked on, in makeshift shacks called “kongsi” (as shown in Plate 1) which literally means “sharing”. These are usually constructed from scrap materials available at the construction sites and lacked basic amenities of water and sewage. The shacks are only used for storing items and sleeping with cooking being done outside. Other facilities are shared between a few shacks. These shacks would be approximately 100 square feet and house five to eight migrants. Plate 1 “Kongsi” at a Construction Site In the manufacturing sector, flats (42 percent) and hostels (16 percent) were the most common form of accommodation. Flats are low-cost living units with an area of between 600 and 750 sq feet, with two or three bedrooms and facilities (Omar 2008). The rent ranged from RM300 to RM400 monthly. The flats, which are suitable for a family of four, usually housed six or 107 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 more workers. These flats were the preferred option of those who did not receive accommodation from their employers. Another 15 percent, of mainly undocumented workers, in the manufacturing sector, lived in kongsi. Manufacturing timber products, these migrants built kongsi in the forests where they lived and worked. A majority of the plantation workers lived in housing estates or quarters (as shown in Plate 2) provided by their employers. Each unit, consisting of one bedroom, a kitchen and a bathroom would house three to five workers. However, it was gathered from the migrants, that the remote location of these units in housing estates, surrounded by trees, made the migrant workers vulnerable to insect borne disease, such as malaria, and also exposed them to venomous snake bites. Plate 2 Accommodation Provided for Plantation Workers More than one-third of workers in the service sector and those who worked in the “others” sector lived in flats. An additional one-third in these sectors lived in wooden houses in the villages which often had one or two bedrooms with kitchen and bathroom facilities. The low wages received by these workers prohibits them from having access to more decent accommodation. Their only option is to share with as many co-workers as possible in order to keep costs low. Generally, permanent residents stayed in better houses (they had families, a higher income and legal status with some owning their homes) and the undocumented migrants lived in kongsi and in squatter areas which already had settled Indonesians. 108 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Documented migrants most often stayed at housing arranged by their employers often separated from the local population. For example, in the plantation sector, the migrant workers shared houses with workers from their own country and their units were located far from that of the locals. These migrants also had difficulty in getting access to resources that would improve their quality of life (see Case 1). Case 1 Wibawa is a young man who has been in Malaysia for two years. He does not mind the work and he actually feels fortunate to have a job. However, he hates his leisure hours. He shares his quarters with 3 other workers and they do not have a television. He has to buy one if he wants it. Although he and his colleagues are interested in playing sports, they do not own a football and they were told to keep the noise level down when they did organise some games. Although Wibawa and his friends could buy some sports equipments on their own, they think that it is their employers’ responsibility. Wibawa enjoys craft work and was making some money doing that prior to his migration. Source: IMW2009 survey In sum, while the migrants often had housing provided or them, its basic nature, location and the necessity to share with others did little to add to their quality of life. Despite the relatively cheap rent, it is still about a quarter of their already low wages. Skill Development Only 7.7 percent of the IMW2009 survey migrants stated that they had attended any training while they were in Malaysia. The various trainings included computer skills, safety instruction for construction workers (organised by the Construction Industry Development Board (CIDB) in Malaysia), cooking, driving, leadership course, net making, machine operation, health and safety courses, plastering and cutting plywood and others. Almost all of the training was for documented workers. Most of the training was designed to assist workers to settle into their jobs rather than to upgrade skills, being given at the beginning of employment or during the induction period. Migrants in the domestic work sector receive basic guidance in household chores (the use of electrical appliances such as the iron, vacuum cleaner, electrical stove, washing machines and dryers) for a week from their agencies. While Chin (1997, p. 367) finds that female workers employed in the domestic work sector could not apply these skills upon return, Raharto et al. (1999, p. 154) reports a gain in experience from travelling abroad by returning female 109 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 workers from Sabah to East Flores. Only a small percentage of domestic workers find their work experience useful upon return to Indonesia. However, workers in this sector with English or Mandarin (which is learned during their working years in Malaysia), coupled with their experience of working in Malaysia, have enhanced their ability to obtain similar jobs, with higher pay, in Singapore or Taiwan. Employers in this sector generally prefer workers with some experience, as outlined by Paul (2011) in research done on step migration. This is a process in which migrants move from one country to another, usually from a country with lower entry restrictions to one with higher requirements. Paul (2011) also found that the Filipino workers in Singapore use their spare time to accumulate training and skills through the Philippines Overseas Employment Agency (POEA) to help them to move into more selective, and financially rewarding, countries of destination. In the manufacturing sector, workers are initially rotated through various jobs and finally are placed in a section where their productivity per hour is the highest. They receive on-the-job training from supervisors or senior workers. Workers in the plantation sector are trained to perform the specific tasks of their jobs, for example to prune palm leaves or cut palm fruits usually by their senior colleagues. Despite the limited job training that migrants in the IMW2009 survey received and the low level of skill involved in their employment, when asked if they thought that their work experience would either definitely or possibly be useful to them in their home country, approximately one-third valued their experience positively. As shown in Figure 2, those employed in the manufacturing and construction sector find the work experience to be most useful upon return. These sectors offer migrants some technical expertise and in some cases even certificates acknowledging their skills. A large number of plantation workers interviewed also saw their experience as being useful for future employment in the plantation sectors in Kalimantan, Indonesia. Figure 2 Distribution of Migrants who Thought their Skills would be Useful upon Return by Sector 110 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 50 45 40 Percent 35 30 25 20 15 10 5 0 Source: IMW2009 survey The small number of those who have attended courses clearly indicates that there is little importance placed on upward skill mobility for these low-skilled migrant workers. The conditions of the employment deny this as a possibility. Migration Network While there are so many Indonesian low-skilled workers seeking to migrate internationally for economic purposes there is a migration economy: migration itself is a money-making industry. Indonesia regards its workers as a “strategic non-oil export commodity” and in its 2004 legal framework covering Indonesian migration it describes “the recruitment, employment, and post-employment of overseas workers” as business entities” (Yue 2008, p. 124). Jones (2000), in her book entitled “Making Money Off Migrants: The Indonesian Exodus to Malaysia”, details the various abuses of migrants and criticises the governance of migrants in Malaysia and Indonesia. Kimura (2011, p. 13) also sees that both countries seem to be either unable or unwilling to control these activities. The costs, however, of agents, both registered and not, are not simply economic. The agents contribute to the complexity of the social impacts of migration, as do the attitudes of government, the media and the public. Various kinds of brokers, middlemen and agents (known as calo, taikong, tauke and mandor) have established well-known networks in both Malaysia and Indonesia, with the power to manipulate and exploit the migration process (Hugo 1993). Approached in their small villages 111 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 by local agents with connections to either registered or unregistered companies, recruits are often given false information (Ford 2005). According to Ford (2005, p. 13), “practices such as falsification of identity, deprivation of liberty, overcharging and even extortion, are common”. While this process is exploitative of the migrant at home, it also has an enormous impact on their identity once in Malaysia, where their uncertain legal status allows employers to take advantage of the worker’s insecurities providing only the lowest wages, demanding long working hours and allowing poor and/or unsafe working conditions. As a result, some migrants spend their life in Malaysia in fear of imprisonment and/or deportation. Thirty-five migrants in the IMW2009 survey stated that they had been cheated by agents. Twenty-eight of these are documented migrants and the others are currently undocumented. As shown in Table 4, the migrants were given false promises and have been cheated in terms of their wages and job responsibilities or have been abandoned. Such incidences are not rare and they often make the headlines in the media (The Star Feb 20 2008; The Star March 24, 2010). While the experiences of migrants often involved losing money in agent costs and the promise of inflated wages, exploitation resulting in migrants not having correct documentation means that they become legally vulnerable. Table 4 Experiences of IMW2009 Survey Migrants with Agents “I came to Peninsular with an agent and then I was abandoned with no job”. “I have had all the problems and I got the help of tekong (an illegal agent) to enter Malaysia again”. “I reported the agent to the Indonesian Embassy”. “During training, the calo (agents in Indonesia) gave more work hours and never reduced it”. “Cheated by an agent, was promised a job in different sector but then was sent to a furniture shop”. “I am not going to rely on an agent again”. “I have given money to a third party to renew a permit but have not seen them since”. “It took a year for the agent to deliver the permit”. “The agent in Indonesia offered a high income but the Malaysian agent offered a lower income”. “My loan was only Indonesian Rupiah 5 million (MYR 1760) but I had to pay back MYR 2100” “The salary was not as much as the agent promised” Source: IMW2009 survey The negative effect in the low-skilled migrants overall identity and life experiences can be caused by any member in the migration network, including, governments, the agent at the host country, the agent in the home country, the money lenders and even family members (Rashid 2012). These dimensions form the “background” experience of the migrants. 112 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Gendered Dimensions The gendered dimensions are analysed from the perspective of gender ratio, marital status and family, employment, skills accumulated and remittances using mainly data gathered from the IMW2009 Survey of Indonesian migrants. Gender Ratio Table 5 draws on the IMW2009 survey data of 858 respondents to show the gender ratio by status of migrants. The overall ratio of 159 males for every 100 females found in the survey is inconsistent with the general trend of feminisation of migration in Asia and in fact the survey data showed a higher male ratio than the Census 2000 statistics among non-Malaysian citizens (129 males to 100 females). Sector of employment, time of arrival in Malaysia and statuses offer further details to the differences in the gender imbalance. Table 5 Distribution of Migrants by Gender and Status Male Female Total Male to Female Ratio No. % No. % No. % Documented 265 50.3 216 65.3 481 56.1 122 Undocumented 134 25.4 46 13.9 180 21.0 291 Permanent Resident 128 24.3 69 20.8 197 23.0 186 Total Respondents 527 858 100 159 44 1384774 100 129 Non-Malaysian Citizens* 780354 61 331 56 604420 39 Source: *DOSM 2001 and IMW2009 survey According to the 2010 Malaysian labour force survey (DOSM 2011c, pp. 46-48), males comprise 90 percent of workers in construction, 76 percent in agriculture and plantations, and 66 percent in the manufacturing sector. When combined, these four sectors employed more than 70 percent of the total number of international migrant workers and 80 percent of the Indonesian migrant workers in 2011 (unpublished data from the Department of Immigration, Malaysia). Similarly, as shown in Table 6, the IMW2009 survey shows a very high male to female ratios in the construction and plantation sectors. If these sectors were to continue to dominate the Malaysian economy and continue to be selective of gender, then there would continue to be a higher proportion of males to females (both locals and international) employed in Malaysia. Table 6 Distribution of Migrants by Gender and Sector 113 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Male Female Total Male to Female Ratio No. % No. % No. % Domestic Work Construction 1 119 99 120 14 202 96 Manufacturing Plantation 1 62 50 110 97 8 0.8 4 210 25 2525 62 50 124 14 100 3 3 113 13 3666 Services 93 44 118 56 211 25 79 Others 59 74 21 26 80 9 280 Source: IMW2009 Survey However, if the current trend of increased reliance on the domestic services continues, where nearly all workers in this sector are female migrants, the gender balance of the Malaysian international labour force will soon alter. Whether these workers will be from Indonesia though, and whether it alters the male dominance of Indonesian workers, is also dependent on both Malaysian and Indonesian governments’ policies related to domestic workers. The Indonesian government has imposed a ban on sending domestic workers to Malaysia beginning in 2017 (Migration News July 2011) and the Malaysian government too continues to reduce its reliance on Indonesia as its major source country of migrant workers, for this sector. When the survey data was controlled for year of arrival by status, the gender ratio for documented respondents who have arrived since 2005 suggested a strong feminisation of migration, as there were only 64 males for every 100 females interviewed. It can therefore be stated that the recent migration flow from Indonesia contained more females than males. The undocumented migrants had the highest male ratio and the documented migrants, the lowest. Undocumented workers are not included in the census data and it is known that male workers are more likely than the females to undertake illegal travel to Malaysia (Hugo and Bohning 2000; Raharto 2007; Asis and Piper 2008; Keban 2000 ). The gender ratio for undocumented migrants, as shown in Table 5, indicates the presence of almost three males for every one female. The sex ratio between male and female is further increased with the inclusion of permanent residents, reflecting the fact that the majority of the permanent residents originally travelled to Malaysia without documents. This is because about 35 per 114 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 cent of the permanent residents in this study applied for permanent residency prior to 1984, which is when the Medan agreement, aiming to regulate migrant workers from Indonesia, was signed (Kassim 2006a; Kanapathy 2008a). Marriage and Family Documented migrants are not allowed to marry in Malaysia during their contract period (DLFPM November 2006). Furthermore, labour migrants are prohibited from bringing their families to reside or work in Malaysia. Although these regulations are seen to contradict basic human rights (Article 16 of United Nations Human Right Declaration) (United Nations Undated), such regulations are common in Asia, especially for the workers in the low-skilled sectors. Similarly, in Singapore, migrant workers in the low-skilled sectors are not allowed to marry Singaporean citizens or permanent residents during their contract period (Rahman 2005; Piper 2005b) and both Malaysia and Singapore deport female low-skilled workers who are found to be pregnant (Devasahayam 2010). The median age at first marriage reported among Indonesian females in 2003 is 19.5 years (World Health Organization 2003a). The median age for Indonesian men at first marriage is 25 years (UNFPA 2006). Indonesians are known to marry at a younger age than other Southeast Asians (Jones and Gubhaju 2009; Jones 2010). At the time of interview, almost 75 percent of the migrants in the study were above the median age at first marriage in Indonesia and almost 70 per cent of the migrants reported being married. Almost all permanent residents are married, as these are also significantly older. As shown in Figure 1, more males are currently married, while a higher percentage of females are divorced, separated and widowed. While it is possible that some women may have been separated after undertaking migration, a higher number of single mothers are said to undertake migration as a way to support their families (Reichert and Massey 1979; Khoo et al. 1984; Cerrutti and Massey 2001). In Malaysia, an interview with an employment agency indicated that single mothers are preferred as domestic workers, due to their experience with children and their determination to earn a living to support their children back in Indonesia. Figure 1 Distribution of Migrants by Marriage and Sex 115 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 80 Male 70 Female Percent 60 50 40 30 20 10 Single Married Others Source: IMW2009 survey Migrants are prohibited from bringing their families to reside or work in Malaysia (DLFPM November 2006). Despite this, one-third of married documented workers and half the married undocumented workers in the IMW2009 survey have their spouses living in Malaysia. However, only 77 per cent of spouses of permanent residents interviewed reside in Malaysia. Eighty-five per cent of the migrants who have their spouses living in Malaysia are employed in the construction, services and others sectors. Migrants working in these sectors have a higher flexibility in terms of housing (discussed earlier) which in turn allows them to maintain a regular family life, despite the restrictions on family reunion and childbirth imposed on lowskilled migrant workers in Malaysia. A few couples came individually as documented workers to Malaysia and then reunited with each other, finding employment with the same employer or two employers located near to each other. Collinson et al. (2003) observe that in some cultures it is expected that the wife should eventually follow her migrant husband. The IMW2009 survey however does not confirm this. Of the 300 spouses residing in Malaysia, controlling for gender, it was found that more than 60 percent of female respondents have their spouses residing in Malaysia compared to 46 percent of male respondents. Using data concerning the year of first arrival in Malaysia, 59 males arrived after their female spouse, while only 32 females arrived after their spouse. Thus, in this study, contrary to the above research, it is not the females but the males who are more likely to follow their spouses. If a man’s wife finds documented work in Malaysia , then it is likely that her husband will then risk an undocumented migration in the construction, services or others sectors. The results indicate the inadequacy of one of the restrictions set for the low-skilled migrants 116 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 in Malaysia: the prohibition on low-skilled documented migrants to live with their partners and families during their work tenure. However, since the policies do not clearly state whether a family member of an existing migrant can undertake documented work (and, of course, there is no ability to restrict the undocumented workers) it was found that migrants often find ways to reunite with their family members who undertake either legal or illegal travel. These restrictive policies, intending to ensure a migrant’s return to their homeland, are ineffective and insensitive to the effect on migrants’ lives. Employment The low-skilled workers in the IMW2009 survey are found employed in six sectors, as shown in Table 6. The differences in monthly wages earned by these workers existed at various levels. As shown in Table 7, the male migrant workers in this study earned almost MYR 500 monthly (41 per cent) more than the females. The differences in wages reflect the wage differences in sector of employment and the status of a migrant. The average monthly income of domestic workers, as reported in the IMW2009 survey, is MYR 526, the lowest average monthly income identified in this study. A domestic worker’s annual wage averages at almost MYR 6300 in this study, almost MYR 2000 more than the amount reported by the International Organisation of Migration (2010a). The workers in this sector also work the highest number of days in a month and the highest number of hours per day. Table 7 Comparison of Work Hours and Wages by Gender and Sector Male Female Constr Dom Manufac Plant Serv Oth Constr Dom Manufac Plant Serv Oth uction estic turing ation ices ers uction estic turing ation ices ers (n=194 Work (n=62) (n=10 (n=9 (n= (n=8) Work (n=61) (n=3) (n=1 (n= ) (n=1) 6) 1) 54) 15) 9) 8. 1 9 1 (n=1 16) Hour s Wor ked 8.3 - 8.5 8.6 9.8 9.7 7.5 14 10.8 - 26 - 25 26 26 28 25 30 23 22 per Day Days Wor ked 117 24 2 6 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 per Mon th Aver age 1 Mon thly Salar 1417 - 1122 830 997 135 7 831 52 6 830 616 74 0 0 7 3 y (MY R) Aver age Salar y per 6.7 - 5.3 3.7 4.5 5.2 4.4 Hour 1.4 3.6 3.6 3. 5. 5 3 (MY R) Source: IMW2009 survey Some studies suggest women are performing less-skilled tasks as a reason for earning lower wages (Takenoshita 2007; Eversole and Shaw 2010). However this study highlights how these low wages reflect the lack of protection by the governments and, the placement of domestic work in the informal sector, which has no regulatory bodies. In addition, among the sectors which employed both males and females, the lowest differences in wages were found in the plantation sector and the highest in the construction sector, ranging from MYR 200 to MYR 600 more for males than females. Although discrimination in wages exists between genders, the jobs provide an opportunity to previously unemployed females (almost 70 percent of females were unemployed before coming to Malaysia) and female remittances contributes significantly to the amount remitted to Indonesia. The wage differences between sectors are partly influenced by the migration status. The two highest paid sectors consisted largely of permanent residents, who were free to move between jobs and employers and often did so to find higher paying jobs. This is reflected in the average wages earned by migrants in terms of their status, as shown Table 8. Documented 118 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 migrants worked the most number of days and most number of hours per day and permanent residents worked the least number of hours per day. Among these, the females worked the highest number of days and hours and were paid the least. Thus, those migrants with documentation are more likely to experience negative consequences in relation to wages and hour worked than the others. This challenges the Malaysian policy that encourages the migrants to travel with documentation. Table 8 Comparison of Work Hours and Wages by Status Hours Documented Undocumented Permanent Migrants Migrants Residents Total Male Female Male Female Male Female Male Female (n=260) (n=212) (n=131) (n=46) (n=117) (n=64) (n=508) (n=322) Worked per 8.8 12.3 8.8 9.1 8.8 8.9 8.8 11.1 Worked per 26 27 26 24 27 25 26 26 1037 651 1057 754 1616 826 1175 701 4.6 2.4 4.8 3.5 7.3 4.2 5.31 2.9 Day Days Month Average Monthly Salary (MYR) Average Salary per Hour (MYR) Source: IMW2009 survey It has been observed in other research that females remit more of their wages than their male counterparts due to higher expectations and commitments (Tacoli 1999, p. 672). As shown in Table 9, although males in the IMW2009 survey remitted MYR 852 (US$284) more than their female counterparts, in terms of proportion, their remittances were 7 percent lower than the females. While the males receive higher wages, they may have had higher expenses than the females. The females in this study, who are mainly employed as domestic workers, work in an environment in which most of their expenses, especially accommodation costs, are borne by their employers (Kanapathy 2008c), leaving them to save and remit most of the income. Table 9 Mean and Proportion of Remittances by Selected Characteristics N Mean n Proportion Amount Remitted in Remitted in 2008 2008 119 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Sex Male 477 3981 460 29.5 Female 292 3129 277 36.8 Single 206 3376 203 33.6 Married 529 3782 501 31.0 Others 34 3420 33 42.0 Construction 193 4177 186 25.1 Domestic Work 110 3224 107 49.7 Manufacturing 110 3554 109 30.7 Plantation 105 3970 98 38.6 Services 181 3384 172 30.2 70 3302 65 22.1 Undocumented 156 3852 149 29.7 Documented 447 3710 435 37.2 Permanent Resident 166 3333 153 20.6 Marital Status Sectors Others Status Source: IMW2009 survey Chin (1997), in a study involving Indonesian and Filipino female workers in the domestic work sector in Malaysia, found those workers remitted at least one third of their monthly salaries home. Similarly, in the IMW2009 survey, as shown in Table 9, migrants in this sector remitted the highest proportion of their wages, an average of 50 percent. However, male workers in the plantation sector remitted almost 39 percent of their wages. These workers are usually provided with accommodation and work in geographically remote areas, without any avenues to spend. Thus, workers in the domestic and plantation sectors (majority of them are documented workers) remit a higher proportion of their wages. In terms of use of remittances, females more than males remitted for their children’s and siblings’ education costs. According to Thomas-Hope (1986) and Leinbach and Watkins (1998), the financing of education is considered a progressive form of investment whereby, although the migrants do not see any immediate benefits, it is expected to bring generational change. 120 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Conclusion The examples for the discussion of rights-based approaches and gendered dimensions drawn from data gathered from a field survey in 2009 (author’s PhD research) of 858 low-skilled Indonesian migrant workers show that Malaysia still lacks efficient and transparent governance that encompasses the rights and welfare of the migrant and policies that aimed to narrow the widening gaps between the males and females. The issues of gender discrimination in wages need to be addressed through comprehensive labour laws that ensure there is no exploitation of workers. The additional vulnerability of migrant women, who work largely in the domestic sector, needs to be addressed by specific regulations that ensure their safety and well being. All migrants who find themselves in difficulties are extremely vulnerable to abuse. If they do not have the correct documentation, they are literally at the mercy of their employers. Without welfare safety nets, the lowest paid workers are only able to survive when their health allows full employment. Vision 2020, created by Dr Mahathir Mohammed, hopes to see a fully developed Malaysia in all dimensions of its national life (Economic Planning Unit 2005, p. 8). This Vision 2020, however, does not place any importance on the migrant population which, during the last decade, has made up between 14 to 20 percent of Malaysia’s labour force. There is a need for Malaysia to firstly acknowledge the contribution that low-skilled international migrants make to its economy. This study sees that sound immigration policies will help achieve Malaysia’s vision of becoming a democratic and developed nation. Policies that “combat the dark vision of migration as a ‘security threat’, and protect the sense of hope and possibility which migratory movements have always contained” are at the base of such an approach (MorrisSuzuki 2007, p. 170). Malaysia’s contested national identity and existing inequalities within its citizenship need to be addressed in order to facilitate these migration policies (BoonKheng 2004, p. 1). However, policies that acknowledge migrant’s rights, capabilities and wellbeing, as suggested by Sen (2000), are extremely important for Malaysia to achieve its vision as a developed and a democratic nation. These policies would then produce the “development-development-development” to migrants, the host country and the home country, the goal of world’s best practice policies. The Role of Home Country Representatives / Associations Indonesian migrants face many difficulties and challenges throughout the migratory process, beginning in their home country. The Indonesian government does not yet have sufficient 121 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 policies in place to ensure the welfare of their migrants while overseas. It could learn from the Philippines Overseas Employment Administration (POEA), a government agency with representatives in destination countries, which ensures the welfare of Filipino citizens while overseas (Piper 2005a). It also offers migrants an opportunity to participate in courses during their off-days, learning skills for future use. This assists migrants to return with skills, even if they did not acquire specific on-the-job skills. POEA also ensures that the Filipinos are wellinformed of their rights, with a thorough knowledge of the migration process including methods for transferring remittances (Piper 2005a). The Indonesian government needs to take an active role to reduce the number of migrants duped into travelling illegally. The high commission or embassy representatives should represent migrants when faced with legal issues while overseas. It is also highly recommended that Indonesia develop a database of all their citizens working in Malaysia and regularly monitor their activities and welfare. Human Welfare Migrants and their welfare should be the focus of new migration policies. Efforts must be made to change laws and perceptions that criminalise migrant workers. The existence of a strong anti-migrant environment within Malaysia, evidenced in both its policies and community attitudes, does not maximise the developmental potential of migration. The migrant workers must be accorded the minimum standards accorded to the Malaysian citizens under the Employment Act 1955, such as equal wages, a maximum limit of work hours, the provision of overtime work, paid rest days, paid holidays, annual leave and paid sick leave. Migrant workers should be offered written contracts of services, stipulating the agreed terms and conditions of employment. The well-being of migrants, coupled with the knowledge gained, will influence migrants’ effectiveness in the use of their capital earned abroad and the possibilities of them transforming their life upon return (Cerase 1974, p. 261). Stricter laws should be imposed on employers or officials who are found to break the law. This means that immigration policies must not be seen in isolation from other policies: they must be embedded within a socio-political system that upholds the equal rights of all within its boundaries. While citizens may have more privileges, non-citizens should be given full support. The key to the implementation of such policies is strong social and political will and sustained good governance. ASEAN In addition to ensuring the welfare of migrants, the long-term policies need to be developed with the co-operation of both receiving and sending countries. However, the unequal power between sending and receiving countries may force the poorer sending country to accept 122 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 policies which do not comply with human rights (Wickramasekara 2002; Wickramasekara 2011). This is where the role of regional co-operation through ASEAN is important in facilitating an awareness of co-responsibilities and co-development and building policies that do not allow low-skilled workers to be treated unfairly. ASEAN, since 2004, has recognised the temporary migration of low-skilled workers as an area requiring further investigation and co-operation (Manning and Bhatnagar 2004; Thanh and Bartlett 2006), and in 2007 it adopted the Declaration on the Protection and Promotion of the Rights of Migrant Workers. This sets out the duties and responsibilities of both labour-sending and receiving countries with the aim to protect migrant workers. Although ASEAN has taken steps to view and plan migration as a regional issue rather than a purely national one, as suggested by Cremona (2008), the implementation of migration policies are still in the form of bi-lateral agreements between member countries. Thus, often the weaker or poorer countries are forced to compromise the welfare of their citizens, as remittances make a substantial contribution to their economy. In such instances, regional policies (blanket polices) would assist in ensuring equity between member countries in recruiting and sending workers (ADB 2008). It would also stop countries who employ large numbers of international workers from changing source countries, rather than upgrading their policies, whenever they are confronted by the rights of migrants. References ADB (2008). Asian Development Outlook 2008 : Workers in Asia. Hong Kong, Asian Development Bank. Andaya, B. W. and L. Y. Andaya (1982). A History of Malaysia. London, Macmillan Press. Ariffin, J. (1995). "At the Crossroads of Rapid Development: Malaysian Society and Anomie." International Journal of Sociology and Social Policy 15(8-10): 343-371. Arifianto, A. R. (2009). "The Securitization of Transnational Labor Migration: The Case of Malaysia and Indonesia." Asian Politics & Policy 1(4): 613-630. ASEAN (2009). Annual Report 2008-2009, Implementing the Roadmap for an Asean Community 2015. The Association of Southeast Asian Nations (ASEAN). Jakarta. Asis, M. M. B. and N. Piper (2008). "Researching International Labor Migration in Asia." Sociological Quarterly 49(3): 423-444. Bahrin, T. S. (1965). "Indonesian labour in Malaya." Kajian Ekonomi Malaysia 1(1). Bahrin, T. S. (1967). "The Pattern of Indonesian Migration and Settlement in Malaysia." Asian Studies 5: 233-257. 123 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Balasubramaniam, V. (2004). The Politics of Communalism and Egalatarianism in Malaysia Kuala Lumpur, Marshall Cavendish Academic. Battistella, G. (2007). Migration Without Borders: A Long Way to Go in the Asian Region. Migration Without Borders, Essays on the Free Movement of People. A. Pecoud and P. D. Guchteneire. New York, Berghahn: 199-220. Boon-Kheng, C. (2002). Malaysia: The Making of a Nation. Singapore, Institute of Southeast Asian Studies. Boon-Kheng, C. (2004). Ethnicity and Nation-building in Malaysia. The Challenge of Ethnicity - Building a Nation in Malaysia. C. Boon-Kheng. Kuala Lumpur, Marshall Cavendish Academic. Brooks, A. and T. Devasahayam, Eds. (2011). Gender, Emotions and Labour Markets: Asian and Western Perspectives. Oxon, Routledge. Cabbalero-Anthony, M. (2008). Reflections on Managing Migration in Southeast Asia: Mitigating the Unintended Consequences of Securitisation. Security and migration in Asia: The Dynamics of Securitisation M. Curley and S.-l. Wong. London, Routledge. Castles, S. (2003). Migrant Settlement, Transnational Communities and State Region. Migration in the Asia Paciifc, Population, Settlement and Citizenship Issues. R. Iredale, C. Hawksley and S. Castles. Cheltenham, Edward Elgar: 3-26. Castles, S. and M. J. Miller (2009). Theories of Migration. The Age of Migration, 4th Edition. New York, Guilford Press. Cerase, F. P. (1974). "Expectations and Reality: A Case Study of Return Migration from the United States to Southern Italy." International Migration Review 8(2): 245-262. Cerrutti, M. and D. Massey (2001). "On the auspices of female migration from Mexico to the United States." Demography 38(2): 187-200. Chin, C. B. N. (1997). "Walls of Silence and Late Twentieth Century Representations of the Foreign Female Domestic Worker: The Case of Filipina and Indonesian Female Servants in Malaysia." International Migration Review 31(2): 353-385. Collinson, M., S. Tollman, et al. (2003). Highly Prevalent Circular migration: Households, Mobility and Economic Status in Rural Sourth Africa. Conference on African Migration in Comprative Perspective, June 4-7, Johannesburg, South Africa. Cremona, M. (2008). Circular Migration: A Legal Perspective CARIM Analytic and Synthetic Notes 2008/30. Florence, Robert Schuman Centre for Advanced Studies, European University Institute Cristaldi, F. and J. T. Darden (2011). "The Impact of Immigration Policies on 124 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Transnational Filipino Immigrant Women: A Comparison of Their Social and Spatial Incorporation in Rome and Toronto." Journal of Urban History 37(5): 694-710. David, A. and S. Subramaniam. (January 20, 2009). "Ready for the Job Crunch?" New Straits Times Retrieved April 25, 2010, from http://www.highbeam.com/doc/1P1- 160139410.html. Devasahayam, T. W. (2010). "Placement and/or Protection? Singapore's Labour Policies and Practices for Temporary Women Migrant Workers " Journal of teh Asia Pacific Economy 15(1): 45-58. DLFPM (November 2006). Guidebook, Policy, Procedure and Regulations of Foreign Worker Employment in Malaysia Department of Labour Force Peninsular Malaysia. Kuala Lumpur, Perniagaan Rita: 68. DOSM (2001). Population Distribution and Basic Demographic Characteristics. Population and Housing Census of Malaysia 2000. Department of Statistics Malaysia. Kuala Lumpur. DOSM (2011c). Labour Force Survey Report 2010. Department of Statistics Malaysia. Kuala Lumpur. Economic Planning Unit (2005). Malaysia Achieving the Millennium Development Goals: Sucesses and Challenges. UNDP. Kuala Lumpur United Nations. Edwards, A. (12th April, 2009). "TB Still Lurks in the Shadows." The Star Online Retrieved January 13, 2010, from http://thestar.com.my/news/story.asp?file=/2009/4/12/focus/3676511&sec=focus. ESCAP (1985). "The Return of International Labour migrants in the ESCAP Region." International Migration 25(1): 129-147. Eversole, R. and J. Shaw (2010). "Remittance Flows and Their Use in Households: A Comparative Study of Sri Lanka, Indonesia and the Philippines." Asian and Pacific Migration Journal 19(2): 175-203. Fernandez, J. (2009). "No Free Entry into Sabah." Sabahkini Retrieved March 9, 2012, from http://www.sabahkini.net/index.php?option=com_content&view=article&id=2209:no- free-entry-into-sabah&catid=35:berita-sabah&Itemid=27. Ford, M. (2005). Migrant Labour in Southeast Asia Country Study: Indonesia. Manila, Friedrich Ebert Stiftung. Gurowitz, A. (2000). "Migrant Rights and Activism in Malaysia: Opportunities and Constraints." The Journal of Asian Studies 59(4): 863-888. Healey, L. (2000). "Gender, "Aliens", and the National Imaginary in Contemporary 125 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Malaysia." SOJOURN: Journal of Social Issues in Southeast Asia 15(2): 222-254. Hernandez-Coss, R., G. Brown, et al. (June 2008). The Malaysia-Indonesia Remittance Corridor, Making Formal Transfers the Best Option for Women and Undocumented Migrants The World Bank Working Paper No 149, The World Bank: 1-97. Hugo, G. (1988). "Population Movement in Indonesia since 1971." Journal of Economy and Social Geography 79(1): 242-256. Hugo, G. (1993). "Indonesian Labour Migration to Malaysia: Trends and Policy Implications " Asian Journal of Social Science 21(1): 36-70. Hugo, G. (2005c). "The New International Migration in Asia: Challenges for Population Research." Asian Population Studies 1(1): 93-120. Hugo, G. and W. R. Bohning (2000). Providing Information to Outgoing Indonesian Migrant Workers. SEPAT Workinng Paper. Manila, International Labour Office. IOM (2005). World Migration 2005: Costs and Benefits of International Migration. Geneva, International Organization for Migration. IOM (2010a). International Migration and Migrant Workers Remittances in Indonesia: Findings of Baseline Surveys of Migrant Remitters and Remittance Benefciary Households The Philippines, International Organization for Migration. Iszahanid, H. (2009). Bil Hospital Warga Asing RM 12.8 Juta. Berita Harian. Jones, G. W. (2010). Changing Marriage Patterns in Asia. Asia Research Institute, Working Paper Series No.131. Singapore, Asia Research Institute & Department of Sociology, National University of Singapore. Jones, G. W. and B. Gubhaju (2009). "Trends in Marriage in the Low Fertility Countries of East and Southeast Asia." Asian Population Studies 5(3): 237-265. Jones, S. (2000). Making Money off Migrants: The Indonesian Exodus to Malaysia. Hong Kong, Asia 2000 Ltd and Centre of Asia Pacific Social Transformation Studies. Kamal, S. M. (October 6, 2009). "Malaysians Do Not Welcome Migrant Workers Says UN Agency." The Malaysian Insider Retrieved February 4, 2010, from http://www.themalaysianinsider.com/index.php/malaysia/39540-malaysians-do-not-welcomemigrant-workers-says-un-agency-. Kananatu, K. (2002). "Healthcare Financing in Malaysia." Asia Paciifc Journal of Public Health 14(23): 23-28. Kanapathy, V. (2008a). Controlling Irregular Migration: The Malaysian Experience Working Paper. Bangkok, International Labour Organisation Kanapathy, V. (2008b). "International Migration Statistics and Data Sources - Malaysia." 126 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Asian and Pacific Migration Journal 7(3-4): 335-348. Kanapathy, V. (2008c). "Malaysia." Asian and Pacific Migration Journal 17(3-4): 335-347. Kassim, A. (1997). "Illegal Alien Labour in Malaysia: Its Influx, Utilization, and Ramifications." Indonesia and the Malay World 71: 50-82. Kassim, A. (2000). "Indonesian Immigrant Settlements in Peninsular Malaysia." Journal of Social Issues in Southeast Asia 15(1): 100-122. Kassim, A. (2006a). Contemporary Cross-border Migration in Malaysia, Its Impact and Implications and Development. Persidangan Kependudukan Kebangsaan: Membina Generasi Masa Hadapan, September 5-7, Sunway Lagoon Resort, Hotel, Selangor, Malaysia, National Population and Family Development Board, Ministry of Women, Family and Community Development Keban, Y. T. ( 2000 ). International Migration, The Strategy for National Development and Globalisation. Labour Migration in Indonesia: Policies and Practices, UNESCO. Khoo, S.-E., P. C. Smith, et al. (1984). "Migration of Women to Cities: The Asian Situation in Comparative Perspective." International Migration Review 18(4): 1247-1263. Khoo, S. M. (1999). Envisioning the Malaysian Nation. Nationalisms Old and New,. Brehony K and Rassol N. UK, Macmillian Press Ltd. Kimura, K. (2011). Regional Migration, Domestic Labour and Worker's Protection: The Case of Indonesian Female Migrant Domestic Workers in Malaysia Dissertations Reserach Design Hague International Institute of Social Studies Kleemans, M. and J. Klugman (2009). Public Opinions Toward Migration. Human Development Research Paper, United Nations Development Programme Human Development Report Office. 53. Lam, T. and B. S. A. Yeoh (2004). "Negotiating 'home' and 'national identity': ChineseMalaysian Transmigrants in Singapore." Asia Pacific Viewpoint 45(2): 141-164. Lean, L. L. and P. C. T. Hoong (1983). "Migrant Workers in Asean: A Review of Issues and Implications for Government Policies." International Migration 21(2): 277-287. Leinbach, T. R. and J. F. Watkins (1998). "Remittances and Circulation Behavior in the Livelihood Process: Transmigrant Families in South Sumatra, Indonesia*." Economic Geography 74(1): 45-63. Letchumanan, A. (September 11, 2011). "6P Set to Swing into Phase 2." The Star Online Retrieved May 18, 2012, http://thestar.com.my/news/story.asp?file=/2012/5/15/nation/20120515174141&sec=nation. Liow, J. (2003). "Malaysia's Illegal Indonesian Migrant Labor Problem: In Search of 127 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Solutions." Contemporary Southeast Asia: A Journal of International & Strategic Affairs 25(1): 44-64. M A Kramer, M G van Veen, et al. (2008). "Migrants Travelling to Their Country of Origin: A Bridge Population for HIV Transmission?" Sex Transm Infect: Epidemiology 84:554-555 doi:10.1136/sti.2008.032094 Manning, C. and P. Bhatnagar (2004). Liberalizing and Facilitating the Movement of Individual Service Providers under AFAS: Implications for Labour and Immigration Policies and Procedures in ASEAN. REPSF Project 02/004: Final,. Australia. Mascarenas, B. G. (2012). Labour Migration in Malaysia and Spain; Markets, Citinzenships and Rights. Amsterdam, Amsterdam University Press. Migration News. (January 2012). "Southeast Asia." vol. 19, no.1 Retrieved January 18, 2012, from http://migration.ucdavis.edu/mn/more.php?id=3738_0_3_0. Migration News. (July 2011). "Southeast Asia." vol. 18 no. 3 Retrieved January 18, 2012, from http://migration.ucdavis.edu/mn/more.php?id=3700_0_3_0. Ministry of Health (2008 ). Healthfact 2008, Ministry of Health Malaysia. Morris-Suzuki, T. (2007). "Cross-Border Migration and East Asian Regional Integration." International Journal on Multicultural Societies (IJMS) 9(2): 158-173. Omar, D. B. (2008). "Communal Living Environment in Low Cost Housing Development in Malaysia." Asian Social Science 4(20): 98-105. Paul, A. M. (2011). "Stepwise International Migration: A Multistage Migration Pattern for the Aspiring Migrant." American Journal of Sociology 116(6): 1842-1886. PEW (2007). World Publics Welcome Global Trade - but not Immigration. The PEW Global Project Attitudes Washington, PEW. Piper, N. (2005a). Country Study: Malaysia. Migrant Labour in Southeast Asia. Singapore, Friedrich Ebert Stiftubf (FES) Project on Migrant Labour in Southeast Asia. Piper, N. (2005b). Country Study: Singapore. Migrant Labour in Southeast Asia. Singapore, Friedrich Ebert Stiftubf (FES) Project on Migrant Labour in Southeast Asia. Piper, N. (2010). "All Quiet on the Eastern Front?—Temporary Contract Migration in Asia Revisited from a Development Perspective." Policy and Society 29(4): 399-411. Raharto, A. (2007). "Indonesian Labour Migration: Issues and Challenges." International Journal on Multicultural Societies (IJMS) 9(2): 219-235. Raharto, A., H. Romdiati, et al. (1999). Migrasi dan Pembangunan di Kawasan Timur Indonesia: Isu Ketenagakerjaan. . Jakarta, Lembaga Ilmu Pengetahuan Indonesia (PPT-LIPI) / Australian National University / Australian Agency for International Development. 128 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Rahman, M. (2005). "Bangladeshi Migrant Workers in Singapore: The View from Inside." Asia-Pacific Population Journal. Rashid, S. R. (2012). "Capitalizing on Social Ties for Overseas Labor Migration: Findings from Bangladesh " Asian and Pacific Migration Journal 21(1): 31-55. Ratha, D., S. Mohapatra, et al. (2010). Outlook for Remittance Flows 2010-11. Migration and Development Brief 12 (23 April). Washington DC, World Bank. Reichert, J. and D. S. Massey (1979). "Patterns of U.S. Migration from a Mexican Sending Community: A Comparison of Legal and Illegal Migrants." International Migration Review 13(4): 599-623. Sadiq, K. (2009). Paper Citizens. Oxford, Oxford University Press. Saravanamuthu, J. (2004). Malaysian Multicultural Policies and Practices: Between Communalisn and Consociationalism. The Challenge of Ethnicity - Building a Nation in Malaysia. C. B. Kheng. Kuala Lumpur, Marshall Cavendish Academic. Schuman, M. (September 6, 2010). Malaysia's New Journey. Time Magazine: 17-20. Selvarani, P. and A. Vijaindren. (May 25, 2008). "Maid for Trouble." New Straits Times Retrieved May 27, 2009, from http://www.asiaone.com/Health/News/Story/A1Story20080525-66917.html. Sen, A. (2000). Development as Freedom. New York, Alfred A.Knof Inc. Sim, H. C. (2002). Women Workers, Migration and Family in Sarawak. Curzon, Richmond. Tacoli, C. (1999). "International Migration and the Restructuring of Gender Asymmetries: Continuity and Change among Filipino Labor Migrants in Rome." International Migration Review 33(3): 658-682. Takenoshita, H. (2007). Transnationalism among Japanese Brazilian Migrants: Circular Migration and Socioeconomic Position. TASA 2007 Conference, December 4-7, Auckland. Thanh, V. T. and P. Bartlett (2006). Ten Years of ASEAN Framework Agreement on Services (AFAS): An Assessment. REPSF Project No. 05/004,. Jakarta. The Star (Feb 20 2008). Crackdown on Agencies which Ill-treat Foreign Workers. The Star. Kuala Lumpur. The Star (February 21, 2007). Over 30,000 Foreign Women are Runaways. The Star. Kuala Lumpur. The Star (March 11, 2009). Cheers and Tears Over New Foreign Worker Levy. The Star. Kuala Lumpur. The Star. (March 24, 2010). "Migrant Workers being Lured, Exploited and Abused: 129 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Amnesty." The Star Online Retrieved March 27, 2010, http://thestar.com.my/news/story.asp?file=/2010/3/24/nation/20100324174428&sec=nation. Thomas-Hope, E. M. (1986). "Transients and Settlers: Varieties of Caribbean Migrants and the Socio-Economic Implications of their Return." International Migration 24(3): 559572. UNDP (2009). Human Development Report 2009 Overcoming barriers: Human Mobility and Development. NewYork, UNDP. UNFPA. (2006). "HIV Prevention for Girls and Young Women." Global Coalition on Women and AIDS, Young Positives Retrieved June 9, 2012, from http://www.unfpa.org/public/home/publications/pid/1201. United Nations (Undated). "Universal Declaration of Human Rights." Wickramasekara, P. (2002). Asian Labour Migration: Issues and Challenges in an Era of Globalization. International Migration Paper 57. Geneva, International Labour Organisation. Wickramasekara, P. (2011). Circular Migration: A Triple Win or a Dead End. Global Union Reserach Network: Discussion Paper no. 15. A. Bodemer. Geneva, International Labour Office. Wong, D. (2004). Border Controls, Illegal Migration and the Sovereignty of the NationState. Institut Kajian Malaysia dan Antarabangsa (IKMAS). Bangi, Universiti Kebangsaan Malaysia. Wong, D. (2009). Malaysia's New Migrants: Problems of Incorporation and Management. Multiethnic Malaysia. L. T. Ghee, A. Gomez and A. Rahman. Puchong, Vinlin Press Sdn Bhd. Wong, D. and T. A. T. Anwar (2003b). Recent Acehnese Migration to Malaysia: Memories of Migration and the Migration of Politics. IKMAS Research Notes Series. Institute of Malaysian and International Studies. Bangi, UKM. World Health Organisation (2003b). International Migration, Health and Human Rights Geneva, World Health Organisation. World Health Organization (2003a). Indonesia and Family Planning fact Sheet. The Department of Family and Community Health. New Delhi, World Health Organization, Regional Office for South-East Asia. Yue, C. S. (2008). Demographic Change and International Labour Mobility in Southeast Asia - Issues, Policies and Implications for Cooperation. Labour Mobility in the Asia-Pacific Region. G. Hugo and S. Young. Singapore, Institute of Southeast Asian Studies. 130 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Labour Migration from Viet Nam to the Republic of Korea: Policy Challenges and Responses Assoc. Professo r Dang Nguyen Anh Inst itute of Sociology, Hanoi, Vietnam Tóm tắt Bên cạnh việc mở cửa để nhận các luồng vốn đầu tư, Việt Nam còn đang đứng trước cơ hội rất lớn để đưa lao động ra nước ngoài làm việc. Ngày càng có nhiều lao động rời đất nước để tìm kiếm cơ hội việc làm với thu nhập tốt hơn. Không dưới 80.000 lao động Việt Nam đi lao động nước ngoài mỗi năm. Hiện nay có hơn 500.000 lao động Việt Nam có hợp đồng làm việc có thời hạn ở hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Họ làm việc ở khoảng 30 nhóm ngành nghề, từ trình độ chuyên môn thấp đến cao (BLĐTBXH, 2010). Sự khác biệt đáng kể về mức lương giữa Hàn Quốc và những thị trường lao động khác trên toàn thế giới trở thành nhân tố mạnh mẽ thu hút lao động nhập cư. Nhu cầu di chuyển lao động từ những khu vực nghèo, thu nhập thấp đến những nơi có cơ hội kinh tế tốt, có thể kiếm được thu nhập cao hơn từ công việc xây dựng hay sản xuất. Hàn Quốc được xem như là điểm đến thu hút dân di cư do điều kiện điạ lý không quá xa Việt nam cũng như văn hóa thân thiện. Nơi đây có nhu cầu khá cao về lao động di cư đến từ Việt Nam, Indonesia và Philippines, làm việc trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Sự khác biệt về thu nhập và cơ hội việc làm giữa Hàn Quốc và Việt Nam đã dẫn đến hiện tượng di cư lao động. Không ít hơn 8.000 lao động đã được bố trí làm việc trong những năm gần đây. Những lao động này chủ yếu là nam giới, đến Hàn Quốc làm trong các lĩnh vực xây dựng và dịch vụ. Phân tích này chứng minh rằng những tác động của di cư lao động đến Hàn Quốc nhìn chung là tích cực tới bản thân, gia đình họ ở quê nhà. Ngoại trừ sự gia tăng số lượng lao động Việt Nam được báo cáo là trốn khỏi Hàn Quốc. Cần phải có sự hợp tác quản lý tốt hơn nữa giữa Việt và Hàn về lao động di cư. Với khoảng 80.000 lao động Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở Hàn Quốc, rất cần thiết phải chú trọng tăng cường chính sách đào tạo kĩ năng nghề cho lao động di cư và xử lý những trường hợp vi phạm hợp đồng, và những trường hợp trở về Việt Nam hiệu quả. Chính phủ Việt Nam nên quan tâm nhiều hơn nữa cũng như tăng cuờng khả năng giám sát các cơ quan chủ quản lao động trong khi chính phủ Hàn Quốc nên động viên sự quay trở lại của lao động, những lao động lành nghề, có trình độ và những chuyên gia. Cả hai 131 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 nước nên phát triển các thỏa thuận song phương để bảo vệ quyền lợi người lao động và tối đa hóa những tác động của di dân. Ở phần kết luận, bài viết sẽ trình bày các kiến nghị và đề xuất về các lỗ hổng trong chính sách và giải pháp hiện hành để quản lý tốt hơn lao động di cư từ Việt Nam sang Hàn Quốc. Introduction International migration has increased to the top of the global policy agenda. As the scale, scope and complexity of migration has grown, states and other stakeholders have become critically aware of the challenges and opportunities presented by international migration. There is now a common understanding that the economic, social and cultural benefits of international migration must be more effectively realized, and that the issues of labour migration could be better addressed. However, both labour sending and labour receiving countries often pursue own short-term aims. The former are concerned with obtaining a flexible, low cost labour whereas the latter are mainly aimed at generating jobs for an underutilized and low-skilled workforce and at getting the maximum possible inflow of foreign currencies (Abella, 1995). Many countries actively encourage labour export and actual government involvement in recruitment and deployment of workers, regulation and supervision of placement agencies. Because of the breadth of the emerging issues and complexity of migration types within East Asia, the paper focuses only on labour migration and concentrates primarily on the situation and policy challenges of migrant workers from Viet Nam to the Republic of Korea (ROK). In this regard, the paper employs a definition of international labour migrants generally as those who have been working outside their countries of origin for contracted work initially arranged by the placement companies in Viet Nam. It does not examine the problems related to Vietnamese migrant workers or married women in ROK (which have been well documented by IOM/MRTC); neither the paper attempts to assemble statistical data on migrant workers originating from Viet Nam to ROK, given the severe lack of accurate data on irregular migration. The paper will begin with a background of labour migration from Vietnam to East Asia, followed by an analysis of the causes and impact of migration to ROK. Then, policy and legal mechanisms regarding overseas deployment and labour migration will be discussed. At the conclusion, the paper will present some recommendations and suggestions on the gaps in the existing measures and policy responses to better manage labour migration from Viet Nam to ROK. 132 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Migration of workers from Viet Nam International migration is not a new phenomenon in Viet Nam, but has been greatly occurring for decades. Since the Doi Moi Renovation labour migration has emerged as the most significant aspect of visible changes in the country, requiring and generating policy responses. Vietnam entered the international and Asian labor markets fairly late, compared with other Southeast Asian countries. When neighboring countries such as ROK, Singapore, Malaysia were achieving high economic growth in the 1980s, Vietnam was suffering severe poverty, unemployment and low growth. Like other sending countries in the region, the primary means of understanding migration of workers from Vietnam is demographic and under-employment, given its relatively young workforce. The country has been described as a labor surplus economy with its comparative advantage of low-cost labors. Despite high growth rates and remarkable achievements in poverty reduction during the 90s, and notwithstanding the growth of the private sector and its capacity for job creation, unemployment has risen in Vietnam every year. Overall, it is estimated that up to 25 million people, or 56 percent of the total workforce, are either unemployed or underemployed (World Bank, 2009). Modernization of the agricultural sector has significantly reduced the sector’s capacity to absorb labor, motivating rural labours to migrate. Going abroad to work has been a survival way for people in rural areas in addressing unemployment, especially under the pressure of agricultural land reduction. There is increasing number of people who want to migrate as contract workers. In East Asia, labour shortage and ageing workforces are among many underlying factors that generate migration in the region. Demand for and supply of foreign workers in many sectors that cannot be filled by native workers. Migration of both unskilled and skilled labors have increasingly been taking place in response to the demand for workers and manual labors in Taiwan (China), Japan, Republic of Korea. Overall, the “demand-pull” factor of income differentials and the “supply-push” factor of excess labor supply interact to induce migration of workers from Vietnam. Migrants tend to find ways, even illegal ones, to migrate and stay in foreign countries where they have better opportunities. Receiving countries often tighten regulations to deter migration that even increases irregular migration. The lack of information and transparency in policies has pushed migrants into vulnerable situations where they can easily become irregular immigrants. International labor emigration from Vietnam is extensively shaped and directed by the government which has followed other Asian migration players in actively promoting labor 133 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 export with the multiple aims to ease domestic job situation, to increase the inflow of hard-currency remittances and international integration. The country’s labour export policy is marked by three waves (Dang, 2000). The first and second waves were directed to Eastern Europe and the Soviet Union. The third wave started in 1994, with East Asia and some Middle East countries being the main destinations of Vietnamese workers. Indeed, labour migration from Viet Nam will probably scale up in the future as trade links between Viet Nam and the East and Southeast Asian nations are fully developed. No less than 80,000 Vietnamese workers leave the country for jobs overseas each year. There are now more than 500,000 Vietnamese workers under the definite time contracts working in over 40 nations and territories worldwide. They work in about 30 different types of occupations and ranging from low to highly skilled laborers and professionals (MOLISA, 2010). Unskilled workers still account for a large proportion of the total labour export and labour migrants concentrate mainly in construction, mechanics, electronics, textiles, aquatic processing, shipping industry, healthcare, education, and agriculture (Dang, 2008). Table 1. Vietnamese contract workers under contract-based employment in some major destinations by year, 2000-2010 Unit: workers Destinations Year Total Chinese Taipei Japan South Korea Africa – Malaysia Middle Others East 2000 31,500 8,099 1,497 7,316 239 34 14,315 2001 36,168 7,782 3,249 3,910 23 1,094 20,110 2002 46,122 13,191 2,202 1,190 19,965 408 9,166 2003 75,000 29,069 2,256 4,336 38,227 750 362 2004 67,447 37,144 2,752 4,779 14,567 938 7,267 2005 70,594 22,784 2,955 12,102 24,605 1,276 6,872 2006 78,855 14,127 5,360 10,577 37,941 5,246 5,604 2007 85,020 23,640 5,517 12,187 26,704 6,184 10,788 2008 86,990 31,631 6,142 18,141 7,810 11,113 12,153 2009 73,028 21,677 5,456 7,578 2,792 16,083 19,442 134 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 2010 85,546 28,499 4,913 8,628 11,741 10,888 20,877 Total 736,270 237,643 42,299 90,744 184,614 54,014 126,956 Source: MOLISA (2012) The above figures are however under-estimated, as they do not include a large number of irregular or undocumented migrants. Many migrant workers flowed through irregular channels or individual arrangement. The problems are reinforced when migrants usually do not know the local language and are often unprotected by laws of their destinations countries. In emergence, they have very limited or no access to remedies and supportive social networks. These workers are considered a burden for the host society despite their contribution to economic growth. Regardless of high costs and risks associated with migration process, many believe that the hardship will be more than compensated by the anticipated gains through migration. We know unfortunately very little about this as accurate figures and updated statistics on these hidden flows are difficult to obtain. Motives and Consequences of Labour Migration to ROK The marked differences in wage levels between ROK and other labour markets worldwide become a strong factor of migration. High demand for labour from impoverished and low income regions to areas with better economic opportunities where the income to be gained from manufacturing and construction work is many times greater. ROK is considered a relatively attractive destination which is not geographically far from Viet Nam and culturally friendly. There is a fairly well developed demand for migrant workers from Vietnam, Indonesia and the Philippines across many manufacturing and service sectors. There are four main types of migrants from Vietnam to ROK: the first consists of labour migrants working as short-term contract workers under the EPS system for 2-3 years who account for about 60,000 workers; the second includes persons who arrived as trainees but overstay their visas and work illegally whose number is about 12,000 workers; the third group include Vietnamese students include people who hold governmental scholarships and full-fee paying private students (also called private students). They mainly go for colleges and universities for high education. Their number is less than 6,000 persons; The last group includes young females married to Korean men with an estimated number reaching 50,000 women. These women migrate as a result of their inter-culture marriage and seek permanent settlement in ROK. Given the different nature and motives of education or marriage migrations, the present paper will not include married women and students in the analysis. It employs the data collected by a sample survey on Vietnamese migrant workers to and from ROK in 2010. 135 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The below figure allows us to investigate motives driving migration. Information was provided by both returnees and absent migrants (N=779). As displayed in Figure 1, ‘earn more’, ‘save money’, and ‘finding a better job’ are the main reasons for migration. The main motive of Vietnamese workers is overwhelmingly economic. Figure 1.- Reasons for migration 4.8% Other To enjoy life 22.1% 11.2% 2.9% To follow family members To follow friends 1.9% To follow companies 0.6% 2.2% More freedom to do what wanted Didn’t feel safe to live in Vietnam 23.2% 9.1% 8.3% 0.3% 0.8% 0.5% 0.3% 33.5% To save money and send it back 36.4% To earn more money 3.5% 6.6% To get qualifications 10.6% 16.7% 24.7% 26.8% To find a better job 0% 47.1% 7.4% 9.3% To learn useful new skills To learn another language 41.2% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35% 40% 45% 50% Returned migrants Absent migrants Sources: Survey on Migrant Workers to/from ROK (2010) Figure 2 examines the frequency of contacts between migrants and their families in Viet Nam. Often, migrants contact with their families more than once a month (23.0%). In addition, 17% of households report that they communicate with their members more than once every three months. The result may reflect the Vietnamese tradition of tight family relationship and the improvement of telecommunication such as telephone, mobile phone and internet, especially in rural Viet Nam. Figure 2.- Frequent contact between migrants and their families 136 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 I don't have contact with them anymore 1.9% Less than once a year 1.3% More than once a year 8.0% More than once every six months 12.8% More than once every three months 16.9% Monthly 19.8% More than once a month 23.0% Weekly 8.6% More than once a week 4.1% Daily 2.3% More than once a day 1.3% 0% 5% 10% 15% 20% 25% Sources: Survey on Migrant Workers to/from ROK (2010) A positive impact for Viet Nam is that there was a large proportion of returned migrants reported learning new skills from working in ROK. Among returnees, over 30 per cent brought with them advanced working skills. Also, about 30 per cent of returned migrants reported ability to handle a new language, and the other 30 per cent understood well the Korean culture (Figure 3). They can become efficient human resources for both local and ROK companies in Viet Nam. Figure 3.- Skills gained by migration 30.07% Learn/improve vision,knowledge on culture and … 30.58% Learn/improve working skills and styles 14.78% Learn about new social issues 11.51% Learn/improve life skills 22.68% Learn/improve professional skills or trade 30.58% Learn a new language 0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35% Sources: Survey on Migrant Workers to/from ROK (2010) As above mentioned, migration can help relieve labour surplus and population pressure in the sending countries. Labour migration, by creating a significant number of jobs annually, help reduce unemployment rate in Vietnam, particularly in rural areas. About 40% of surveyed households with current and return migrants) stated that migration reduce unemployment in 137 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 the sense of preventing the likelihood that a migrant falls into unemployed status or creating job vacancies for the left-behinds (Figure 4) Figure 4.- Opinions on the impact of labour migration Strengthening the economy 19.5% Investing in businesses 23.5% Reducing poverty 55.8% Sending money home 71.3% Gaining skills and resources 37.3% Reducing unemployment 40.1% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% Policy Changes and Responses As afore-mentioned, the Vietnamese government has regarded labour deployment abroad as an important factor contributing to the national development. Exporting labour has been facilitated in order to accelerate the inflow of foreign capital, as well as to reduce the pressure of job creation in the country. The wide gap between Vietnam’s and international wage/income levels is a key pull factor for migration from Vietnam. Unemployment is another factor. Despite recently high growth rates, unemployment in Vietnam has been increasing every year. There are about 1.3-1.5 million new labors enter the job market every year (Vietnam Trade Office, 2008). In the mean time, the massive job shedding by the state sector, agricultural modernization, reduction of agricultural land, and the economic and financial crisis all add up to a large number of unemployment in Vietnam. Since the year 2000, the government has announced that sending laborers to work abroad is one of Vietnam's major efforts to settle issues of employment. Following the open-door models and Doi Moi introduced in 1986, national policies in Vietnam were slowly relaxed with regard to international migration. The Government introduced a series of policies to institutionalize and regulate labor export. Starting in 1992, state-owned companies with operating licenses were permitted to send workers to other countries, based on bilateral labor contracts. In 1998, further measures were taken to expand and diversify labor export, when the Central Communist Executive Committee enacted Directive No. 41CT/TW. Reflecting changes in international and domestic labor markets, in 1999 the government approved a policy on overseas employment (Decree No.152/1999/NDCP) which specifies procedures and mechanisms to facilitate overseas employment of 138 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 workers from the state and non-state/private sectors. Laws regarding Vietnamese nationals working abroad under contracts (No. 72/2006/QH11) were passed and became effective from 1 July 2007; Decree No. 126/2007/ND-CP in the same year was enacted to regulate, in detail, and guiding the implementation of the law and various other legal regulations related to migration of workers, have created a comprehensive legal framework aimed at facilitating sending contract-based workers to work abroad. These legal documents aim to formalize the process of out-labor migration. By defining the rights, and obligations of recruiting and other sending entities, the government ministries/agencies and the workers themselves, the 2007 Law enables local labor export agencies and placement agencies to expand to better meet the needs of their foreign partners. Workers are required to take language, culture and vocational training before they are sent overseas. For those who wish to go and work in ROK, they must first pass the Korean language test before being listed online for recruitment by employers. In general, legal documents for each labourer are often incomplete and do not provide a strong basis for liquidation of employment contracts and settlement of workers’ disputes when returning, which affects the benefits of these workers. Meanwhile, the prescribed sanctions that are applicable to enterprises’ violations are generally not strict enough, the result typically being a warning or a fine ranging from VND 500 thousand to 40 million (25-2000 USD). These fines are extremely low in comparison to the profits earned by these companies, and they do not provide enough disincentive for placement companies. It would be hard to apply the above Law to irregular and undocumented migrant workers who work abroad by their own means. The question of implementing polices is a matter of concern. There are a number of concerns with placement agencies and their associated brokers which often overcharge high fees from migrant workers and their families. Some workers become deeply indebted in even pre-departure stage, as they must borrow from private money lenders in order to pay overcharging fee and other associated costs. Placement agencies often lack responsibilities in informing workers about the real situation in receiving countries, assisting and compensating unwanted returnees. The recruitment agents devote very little attention to the situation of the workers after they leave Viet Nam, making it very difficult for monitoring migrant workers. Privatizing the recruitment agencies and give ways for exploitative brokers and traffickers to manipulate and take advantage people who wish to work abroad. Because the managment issues of the migrant workers in destination countries have already been documented (MOFA and IOM, 2011), the present paper will not discuss but acknowledge the relevance of these issues in managing migration of workers from Viet Nam 139 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 to countries of destination, including ROK. In addition, migrant workers going to ROK are not aware of the laws and cultures of the country. They are likely to run away after arrival in ROK or breach their work contract after the first year. These labors continue to work in KOR without proper documents, becoming illegal migrants. They are vulnerable to abusive unscrupulous middlemen and exploitative employers. As a result, they are even vulnerable to trafficking, arrest and deportation. Community-level communication campaigns in Viet Nam for awareness-raising and combating labour brokerage would be greatly useful for potential migrants who seek overseas employment. Last but not least, the transfer of the laws and legal documents into concrete actions becomes great challenges for ROK and Viet Nam in reality. The process will not only require policy enforcement, capacity building but also effective partnership of the two governments with other stakeholders such as trade union, NGOs, migrant’s associations, employers, private sector etc. in safeguarding the rights of migrant worker. Concluding Remarks Current problems in managing and regulating migration activities suggest the necessary for better policies and programs to optimise the possible positive impacts of migration. Law system on migration should be improved. Close management and tighten supervision from the government should be given to ensure the correct and high quality implementation of labour placement companies while sending workers abroad and to protect labourers in every stages of migration process. The differentials in income and employment opportunities between among the Asian economies, including ROK and Viet Nam, have led to the movement of labour from low wage to high wage countries. Rather than decreasing, international labour migration is likely to increase largely in the future, becoming a global phenomenon. Around the world, it is an undeniable fact that migration cannot be stopped and migrant workers have become indispensable to many economies. Migration is a complex issue and the economic, social and cultural benefits of migration must be more effectively realized. The analysis suggests that the impacts of migration to ROK on the migrants themselves and their families at origin generally positive. Strengthening legal and formal systems that can provide support to migrants would make migrants more productive and better off in there new environment. Poor management of migration movements and other related issues could cause serious damage, putting Vietnamese people in more vulnerable situation. For these reasons, the government should pay more attention and 140 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 strengthen its supervision of labour placement agencies and labour export programs. Labour migrants need to be protected before, during and after migration. Migrants from Vietnam still face difficulties in migration. Many of these difficulties are the results of the current management system largely involved brokerage and the migrants’ lack of information. Because migration is multidimensional in nature, and migrants are not simple commodity but human beings, they need to be respected and protected by national laws and governments in both countries of origin and destination. Last but not least, Vietnam is not a signatory of the 1990 International Convention on the Protection of the Rights of All Migrant Workers and Members of Their Families. This furthers the impression that Vietnam remains a passive partner in migration, not wishing to endanger established markets for its surplus labor. The preparing process to ratify the Convention would take time and requires the amendments and adaptation of current legal framework and law instruments in Vietnam. Nonetheless, the ratifying of the Convention would provide a basis from which to address the violations of rights of Vietnamese workers abroad. This seems a critical need, given the large numbers of Vietnamese working overseas and the continuing outflows of migrants from the country. The report draws some ways by which policy could respond to the migration of workers from Viet Nam: 1. Tightening government’s monitoring and supervising of labour placement agencies’ activities. It is necessary to complete the formal and legal system on migration and strengthening law enforcement. Specific policies to state clearly responsibilities of labour placement agencies should be developed. 2. Facilitating policies, programs and activities to support contract laborers. Government, local authorities and civil society organization should participate in raising awareness through training and media, helping migrant workers to make right decisions on working abroad. Credit and fund support programs to provide loans for poor people to cover the cost of migration should be facilitated. The migrants should be equipped with adequate information, knowledge, training and working conditions abroad. 3. Promoting the cooperation of origin and destination countries, and the participation of various actors in the society to protect Vietnamese labourers. The Vietnamese government should develop bilateral and multilateral agreements with the governments of destination countries, including ROK, to protect and regulate Vietnamese citizen’s right and safety. The Union, the Vietnamese diplomatic 141 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 representative agencies, international and local NGOs in Vietnam should also corporate with local NGOs in destination countries to support and protect Vietnamese workers abroad. 4. Paying high attention to migration motives and implications of migrant workers from Viet Nam. The analysis of the size, migration to and from ROK has indicated that a closer cooperation between Viet Nam and ROK is required to better manage the labour migration between the two countries. In this regard, Viet Nam and ROK Government policies toward labour exporting over time have strong impact on not only the number of people who migrate, but also the way migration have impact. Government policies and regulation on international migration have been added as well as amended to cover emerged issues in migration. 5. Attracting migrant workers to return. The government should have incentives and attractive conditions for the return of workers, skilled labourers, trainees and professionals to maximizing the impact of migration through significantly contribution to the development of human resourses in Vietnam. 6. Reacting to some specific development related to migration. For example, suitable policy on family planning and population redistribution would reduce the pressure of migration. Secure private property rights and symmetric business information should be a must. Gender linked migration programs, activities and policies should also be considered as a key for better managing migrants development. References Abella, Manolo. “Policy and institutions for the orderly movement of labour abroad” in Abella, M. and Lonnroth K. (eds) Orderly International Migration of Workers and Incentives to Stay: Options for Emigration Countries. Geneva: International Labour Office. 1995. Commission for Overseas Vietnamese Affairs. Vietnamese Community Abroad: Questions and Answer. Hanoi: The Gioi Publisher, 2005. Dang, Nguyen Anh. Labour Export from Vietnam: Issues of Policy and Practice, Working paper, ILO, Bangkok, 2008. Dang, Nguyen Anh. Emigration and Emigration Pressures in a Transitional Vietnam APEC/JETRO Conference Proceedings, Institute of Development Economies, Japan, 2000. MOFA (Ministry of Foreign Affairs) and IOM (International Organization for 142 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Migration). Migration of Vietnamse Nationals Abroad. Hanoi. 2011. IOM (International Organization for Migration) Labour Migration in Asia: Trends, Challenges and Policy Responses in Countries of Origin. Geneva: International Organization for Migration, 2003. MOLISA (Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs). Cumulated Data on Overseas Laborers by Countries of Destination. Hanoi: Department for Administration of Overseas Employed Labor Force, 2011. International migration to Taiwan – – A view from gender perspective Nguyen Thi Hong Xoan, PhD & Nguyen Thi Van Hanh, PhD School of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University in HCMC Tóm tắt Sự gia tăng hiện tượng di dân quốc tế ở Châu Á đã dẫn đến một số vấn đề quan trọng. Đặc biệt, những bằng chứng về tình trạng bóc lột lao động nữ đang rất được quan tâm. Thêm vào đó, nó có những hậu quả đáng kể ở các nước đến lẫn nước ra đi. Tương tự như vậy, di dân đã góp phần phát triển mạng lưới giữa nơi đến và nơi đi dòng chảy kiều hối, thông tin và các hình thức khác của di dân. Bài viết này tập trung vào hai trong số các dòng di dân quan trọng ở Châu Á – đó là di cư lao động Việt Nam – Đài Loan và di cư qua đường kết hôn với nam giới Đài Loan. Nội dung bài viết được phát thảo thông qua các dữ liệu thứ cấp ở Việt Nam và Đài Loan. Bài viết được mở đầu với việc đưa ra các cấp độ, xu hướng trong di dân quốc tế Việt – Đài và tìm hiểu hình thái cấu trúc di dân này. Sau đó, qua các dữ liệu thứ cấp sẽ phân tích quá trình di cư và các tác động của quá trình này đến gia đình và cộng đồng nơi xuất cư. Những khuyến nghị về chính sách sẽ kết lại nội dung bài viết này. 143 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Introduction The last two decades have seen a massive increase in the scale and complexity of international migration in Asia (Hugo, 2003). Among the most striking features is the fact that in many important flows, women outnumber men. The increase in international migration of women in Asia has raised a number of important issues. In particular some evidence of exploitation of the women involved has been of concern. In addition, it has considerable consequences for the makeup of population in both origin and destination areas. Similarly, the migration develops networks between origin and destination along which flow remittances, information and other forms of migration. Usually this results in women moving from a less developed, to a more developed, country within the Asian region. Labour migration between nations is not a new phenomenon in Vietnam. Since the 1980s, Vietnam started to send labourers to work under the framework of cooperation within the former socialist bloc. Receiving countries of Vietnamese labour migrants were the former Soviet Union and other Eastern European countries such as Eastern Germany, Russia, Bulgaria, Hungary and Czechoslovakia. In this flow of labour migration, the number of men usually outnumbered women. Contemporary labour migration of Vietnam, however, is different in a number of ways. In the 1990s Vietnamese labour export experienced a dramatically growing flow to the new destinations in Asia such as Malaysia, Taiwan, Republic of Korea (RoK), Japan, the Middle East, Libya, even the small neighboring PDR Laos. The countries of destination experience a significant imbalance between the numbers of males and females of labour migration. The massive increase in mobility in Asia (Hugo, 2005) has provided ample opportunity for international marriage with millions of young single Asians moving as students, tourists, unskilled labor migrants, business people and skilled migrants between nations (Cottrell, 1990). However migration for the express purpose of marriage has also increased massively in the region. Notwithstanding that, Piper (2003) has persuasively argued that international migration for work and international migration for marriage are strongly inter-related and cannot be regarded as discrete categories. It is possible to identify a specific type of marriage migration involving the selection of international brides through agencies (Piper and Roces (eds.), 2003). Vietnam is not an exception in terms of having long story of cross-border marriage. Indeed, in 1954 there was a village in the North part of the country where many mixed marriage couples such as Vietnamese women living with Italian, French and Morocco men (Nguyen Thi Hoa, 2008). These foreign men were veterans having served in the French 144 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 army. During the war with American from 1954 to 1975, there were Vietnamese women in the South getting married to American soldiers. However, before the renovation in 1986, internation marriage was not very common in Vietnam, and historically, families were extremely strict in terms of allowing their children to get married to foreigners, especially respectable families (Do Thi Tam, 2003). Therefore, cross-border marriages before the 1980s in the country mainly happened between Vietnamese women and ethno-Vietnamese men overseas (Hugo and Nguyen, 2008). As a result of socio-economic and cultural changes after the renovation, getting married to foreigners has been more acceptable since 1990 and this marriage migration has steadily increased over years. Taiwan and Korea are the important countries of destinations. The increase in international migration in Asia has raised a number of important issues. In particular some evidence of exploitation of the women involved has been of concern. In addition, it has considerable consequences for both origin and destination areas. Similarly, the migration develops networks between origin and destination along which flow remittances, information and other forms of migration. The present paper focuses on two of the important streams of labour migration in Asia – that of people from Vietnam moving to work in Taiwan or get married with Taiwanese men. The perspective adopted is largely from drawing on secondary data of this in Taiwan and Vietnam. The paper begins by outlining the main levels of, and trends, in international migration from Vietnam to Taiwan and explores some of the structural factors shaping that migration. It then draws upon secondary data to examine the process of migration and some of the impacts of the movement on the families and communities of origin. It concludes by examining some of the policy implications of the findings. 2. The Context Vietnam is one of the larger nations of Southeast Asia with a population of 86 million in 2009 growing at an annual rate of 1.3 percent (UNESCAP, 2005). Although its economy is growing rapidly (8.4 percent in 2005; Asian Development Bank, 2006) per capita GNI remains low (US$480 in 2003) and the incidence of poverty is high, 28.9 percent in 2002 and even higher in rural areas (35.6 percent) (Asian Development Bank, 2005). Vietnam gained full independence in 1975 after many years of war which left devastation and economic crisis. In response Vietnam began the transition from a centrally planned to a multi-sector economy and instituted a policy of Doi Moi (In 1986, Vietnam adopted renovation policies associated with market liberalisation. Doi Moi is the transition from a centrally planned 145 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 protected economy to a multi-sector open economy). This has had a profound impact on social and economic development of the nation. There was a substantial rise in foreign investment, living standards increased and Vietnam was opened to a wide array of outside influences. However the gap between rich and poor and between rural and urban areas widened and as a result there was an acceleration of rural and urban migration and contract labor migration overseas. 2.1 International Migration to Taiwan While international migration is becoming more significant in several Asian nations, no country has been more influenced by the phenomenon than Taiwan. Taiwan began to show interest in accepting foreign workers during the late 1980s, as its economy had been boosted by the presence of transnational companies and international businesses. In October 1989, the country passed a special decision to allow foreigners to work in the Fourteen Key Construction Project, an important development program. In October 1991, certain private sectors like labor-intensive construction and manufacturing industries were allowed to employ foreign workers (Cheng, 2003; Lan, 2006). In August 1992, the Taiwanese government legalized the employment of foreign migrants in the domestic service sector (Cheng, 2003;Lan, 2006). The temporary immigration of foreign contract workers to Taiwan was originally triggered by serious labor shortages that forced the government to open the door to foreign labor in 1992. The period between 1996 and 2000, however, saw the most noteworthy growth in the population of foreign contract workers, both in terms of overall numbers and the rate of arrival. There are 437,441 foreign (non-Chinese) migrants in Taiwan, and the Indonesian population seems to be the largest, numbering 123,905 individuals, followed by 101,592 Vietnamese, 80,484 Thais, and 79,901 Filipinos, according to Japan's National Institute of Population and Social Security Research (NIA) (2009) as of November 2008. Many foreign workers are in labor-intensive manufacturing sectors, while most female migrants work as domestic service providers or maids, numbering 44,160. The gender balance of foreign migrants is 266,172 female migrants to 171,269 male migrants, indicating that female migrants significantly outnumber male migrants. Critics argue that the Taiwanese government may partially be responsible for these gender and national inequalities. The legal entry of foreign migrant workers may seem strictly regulated by the state, but Taiwanese labor brokers are able to recruit certain ethnic groups and nationalities in a biased manner (K. Kaneko, 2009). By the end of November 2011, there were 420,000 foreign contract workers in Taiwan, 222,000 of whom were employed in the industrial sector and 198,000 in the services industry as caregivers and home domestic workers. The main sending countries 146 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 include Indonesia (38 percent of all foreign contract workers), Vietnam (23 percent), the Philippines (19 percent), Thailand (18 percent), and Malaysia (2 percent). Similarly to labor migration, Taiwan has been largely influenced by marriage migration. As shown in Table 1 and 2, the large scale of international marriage is indicated by the fact that in 2003 one third of all marriages in Taiwan involved a foreign spouse. In 2004, this rate decreased to 24.0 percent, and this gradually reduces with substantially around 3 percent per year until 2008. It is apparent that the bulk of these marriages are of Taiwanese men to foreign brides (Wang and Chang, 2002, 95). Of all foreign marriages up to 2003, 91.4 percent were of this type but 96 percent of those to Southeast Asians and 99.8 percent of those to Vietnamese involved foreign females (Tsay, 2004, 185). The tables indicates that the main source of foreign spouses were from China where the cultural and ethno linguistic linkage is obviously important. It is true too that some of the marriage migration from Southeast Asia also involves spouses of Chinese ancestry. Nevertheless it is apparent that the majority of the Southeast Asians are of different ethno linguistic background to their Taiwanese partner. Table 1: Source: Taiwan: Marriages to Foreign Spouses1 1994-2003 Wang and Chang, 2002, 96; Tsay, 2004; Do, et al., 2003, 38 Percent of all Marriages to Southeast Year 1 China Asia Vietnam Total Foreigners 1994 7,885 4,899 530 12,784 Na 1995 9,180 6,574 1,969 16,754 Na 1996 9,349 11,212 4,113 20,561 Na 1997 8,951 16,009 9,060 24,960 Na 1998 12,451 10,454 5,035 22,905 15.7 1999 17,589 14,674 8,482 32,263 18.6 2000 23,628 21,338 13,863 44,966 24.8 2001 26,797 19,405 12,417 46,202 27.1 2002 28,906 20,107 na 49,013 28.4 2003 35,473 19,643 na 55,116 32.2 1994-7 inclusive data are for visas granted to foreign spouses. 1998-2003 data are for registered marriages. 147 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Table 2: Foreign Brides in Taiwan (2004- September 2009) Year Total Number of Marriage % of International Marriage 2004 336,483 23.82 2005 364,596 20.14 2006 383,204 16.77 2007 399,038 18.29 2008 413,421 14.03 2009 426,297 20.09 Source: Ministry of the Interior (2009), Executive Yuan, Taiwan According to Ministry of Interior by September 2009 there were 426,297 foreign brides in Taiwan. The Taiwanese grooms are most likely less well-off with low levels of education. It is reported that a lack of economic recourses brings about great challenges to the foreign brides’ integration in the destination. Since they are mostly from economically less prosperous regions in the Chinese Mainland or Southeast Asia, they tend to be stigmatized in mainstream society. 2.2 International Migration in Vietnam Vietnam is one of the larger nations of Southeast Asia with a population of 86 million in 2009 growing at an annual rate of 1.3 percent (UNESCAP, 2009). Although its economy is growing rapidly (8.4 percent in 2005; Asian Development Bank, 2006) per capita GNI remains low (US$480 in 2003) and the incidence of poverty is high, 28.9 percent in 2002 and even higher in rural areas (35.6 percent) (Asian Development Bank, 2005). Vietnam gained full independence in 1975 after many years of war which left devastation and economic crisis. In response Vietnam began the transition from a centrally planned to a multi-sector economy and instituted a policy of Doi Moi (In 1986, Vietnam adopted renovation policies associated with market liberalisation. Doi Moi is the transition from a centrally planned protected economy to a multi-sector open economy). This has had a profound impact on social and economic development of the nation. There was a substantial rise in foreign investment, living standards increased and Vietnam was opened to a wide array of outside influences. However the gap between rich and poor and between rural and urban areas widened and as a 148 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 result there was an acceleration of rural and urban migration and contract labour migration overseas since the mid 1990s. Labor export has been part of Vietnam’s socio-economic development strategy since the end of the 1980s. However, it did not play a significant role until 1990s. Vietnam started sending unskilled workers abroad via licensed agencies in November 1991, when the government issued Decree 370 on the regulation to send Vietnamese workers abroad to work for a fixed period. Compared with the other Southeast Asian countries, Vietnam seems to enter into the international labor market fairly late. International labor migration from Viet Nam is extensively shaped and directed by the government. The importance of labor export to Viet Nam’s socio‐economic development has been consistently mentioned in official documents and statements by high‐ranking government officials (Dang Nguyen Anh, 2007). According to the Department of Overseas Labor (DOLAB), Ministry of Labor Invalid and Social Affairs (MOLISA), by 2010 there have been about 736,270 Vietnamese workers working in about 40 countries all over the world. Among the receiving countries, as shown in the table 3 the major destinations for Vietnamese workers are Taiwan (237,463 people), Malaysia (184,614 people ), Korea (180,970) Japan (42,299). The number of Vietnamese laborers in these four countries accounts for above 75% of total Vietnamese workers overseas. The remaining destinations are Europe, North Africa, Saudi Arabia, Australia… Table 3: Vietnam’s export workers to selected countries, 2000-2010 Year Taiwan Malaysia Japan Korea Others Total 2000 8,099 239 1,497 7,316 14,349 31,500 2001 7,782 23 3,249 3,910 21,204 36,168 2002 13,191 19,965 2,202 1,190 9,5741 46,122 2003 29,069 38,227 2,256 4,336 1,112 75,000 2004 37,144 14,567 2,752 4,779 8,205 67,447 2005 22,784 24,605 2,955 12,102 8,148 70,594 2006 14,127 37,941 5,360 10,577 10,850 78,855 2007 23,640 26,704 5,517 12,187 16,972 85,020 2008 31,631 7,810 6,142 18,141 23,266 86,990 2009 21,677 2,792 5,456 7,578 35,525 73,028 2010 28,499 11,741 4,913 8,628 31,765 85,546 Total 237,463 184,614 42,299 90,744 180,970 736,270 Source: DOLAB, 2011 and Nguyen Van Ngu (2012) 149 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 In 2011, the number of Vietnamese workers going overseas estimated around 81,475 people, of which nearly 50 percent was female migrant workers. Also, the four biggest receivers of Vietnamese workers in this year were still Taiwan, Malaysia, Korea and Japan, and Taiwan is the leading country in terms of this matter. In recent years, Vietnam sends about 80,000 workers abroad per year (Ho Thi Thanh Nga, 2012). Vietnam has signed labor export contract with Taiwan since 1999. Although the Taiwanese government’s policy for attracting foreign workers began in the early 1990s, it was not until May 1999 that the governments of Taiwan and Vietnam officially signed the bilateral "Agreement on Mobilizing and Receiving Vietnamese workers". In November 1999, the first group of Vietnamese migrant workers (131 workers) arrived in Taiwan (Ho Thi Thanh Nga, 2012). By the end of 2000, the total number of Vietnamese workers in Taiwan was 7,746. This number has continuously risen. Table 2 draws data from national statistical sources and shows the number of Vietnamese laborers in Taiwan over the 2000-2010 period. The large scale of labor migration is indicated by the fact that the number of labor migration from Vietnam to Taiwan per year sharply increased from 8,009 to 29,069 in 2003. This rise continued and reached the peak with 37,144 people in 2004. However, in 2005 this number sharply decreased to 22,784 and continued down to 14,127 in 2006. This can be explained by the fact that in 2005, frustrated by the desertion rate of Vietnamese workers, which was the highest rate among foreign workers of all Asian sending countries in Taiwan, the Taiwanese Council of Labor Affairs applied a freeze on the receiving of Vietnamese workers in order to discuss the situation with DOLAB, the department responsible for Vietnamese workers abroad. In 2006, the two departments had renegotiated the standard labor contracts for Vietnamese workers, extending them from three to six years and cutting down on red tape, as well as adopting a formal grievance policy through which employees could seek redress against their employers. As a result, by the end of 2006, the number of Vietnamese workers in Taiwan was 81,060 people and it reached to 97,000 by September 2012. In 2012, Vietnam sent about 30,500 labors to Taiwan. This number made Taiwan become the largest receiver of Vietnamese workers and Vietnam become the second largest country in terms of sending laborers to Taiwan, behind Indonesia as Vietnamese workers consists of 21.43 percent foreign workers in this country. At present the total number of Vietnamese workers staying in Taiwan is around 80,030 people, of which about 66.0 percent work in the industrial factories, 33.0 percent work as caregivers and the rest work in different jobs such as sailors, construction… Table 4: Vietnamese Labor Migrants in Taiwan (2000-2010) 150 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Year 200 200 0 1 Numb 8,09 er 9 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 7,78 13,19 29,06 37,14 22,78 14,12 23,64 31,63 21,67 28,49 2 1 4 4 0 1 9 7 2009 7 2010 9 Source: DOLAB, 2011 and Nguyen Van Ngu (2012) From 2000-2010 the total number of Vietnamese workers forced to return to Vietnam because of poor health statuses was 32,665 people accounted for 13.7 percent of total Vietnamese workers in Taiwan. In addition, the number of occupation-borne accidents among Vietnamese workers in this country was 2,224 people, making Vietnam become the second biggest country after Thailand (3,622) in terms of this issue. The number of Vietnamese workers running away was 45,697 people accounted for 42.13 percent of total run-away laborers in Taiwan. By December 31, 2011, about 49,000 Vietnamese workers, 30,000 of them are females, have left their companies in Taiwan, accounting for 41 percent of the total number of foreign workers quitting jobs in the territory. Of these workers, 35,000 have been deported to Vietnam. On average, 550 Vietnamese workers run away from their workplaces every month in 2011 (VietnamNet Bridge, 2012). In 2005, due to high rate of desertion and run-away of Vietnamese workers (highest among Asian countries in Taiwan), the Taiwanese Government imposed a freeze on the hiring of Vietnamese laborers. By the following year, the two Governments negotiated and re-signed the labor export contract with the supplementary clauses including higher commission and harder discipline to prevent laborers from desertion. But it seemed that these additional clauses did not work efficiently as the number of Vietnamese workers in Taiwan run- away from their companies and work illegally is getting higher and higher. According to DOLAB, MOLISA, in 2011, there were 8000 Vietnamese workers in Taiwan escaped from their legal work and until May 2013 this number has rapidly increased to 20,000. At present, about 15,000 Vietnamese workers stay illegally in Taiwan. Together with labour migration, since the 1990s the number of Vietnamese brides getting married to Taiwanese men has dramatically increased. According to the Taipei Economic and Cultural Office (TECO) in Ho Chi Minh City (HCMC), from 1995 to 2007 there were 97,066 Vietnamese females married to Taiwanese men and the peak of this movement was from 1999-2004 (Figure 1). Figure 1 Number of Taiwan-Vietnam Marriages, 1995-2007 Source: Taipei Economic and Cultural Office in HCMC 151 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 16000 14000 12000 10000 Year 8000 Number of marriages 6000 4000 2000 0 1995 1997 1999 2001 2003 2005 2007 As showed in Figure 1.1, the number of this kind of marriages had steadily increased from 1998 to 2004 and the peak year was 2000 when about 13,837 Vietnamese women married to Taiwanese men. However, the number of this follow had significantly decreased and stays around 3,000 cases per year since 2005 to present. 3. Living Experiences of Vietnamese Migrants in Taiwan 3.1 Labor Migrants Taiwanese policy for receiving foreign workers is mainly based on four principles: (1) Foreign workers should address the deficiency in the number of domestic workers but should not affect the employment interests of native workers; (2) Foreign workers may work in Taiwan but should not be able to immigrate to Taiwan; (3), Foreign workers should not affect social order and security; (4) Foreign workers should not hinder Taiwan’s economic and industrial development (Tang, 2003; Ho Thi Thanh Nga, 2012). However, it is believed that the bulk of Vietnamese workers work as domestic helpers and hospital workers. and. most of them attain low-skilled jobs in construction, domestic field, farming, etc (Table 3.1) Due to being unskilled, the average income of Vietnamese workers at Taiwanese companies is quite low around US$650 per month. It is estimated that the remittances sent to Vietnam from Vietnamese workers in Taiwan is around 1.8 billion VND per year. In Taiwan, at the end of August 2009 about 344,599 migrant workers, mostly coming from Indonesia, the Philippines, Thailand and Vietnam worked in the country. This accounted for around 3 percent of the national labor force. In terms of gender distribution of migrants workers, about 218,000 of the foreign blue-collar workers were female and 126,000 were male. Around 166,500 employees worked in productive industries, mainly factories, while almost 174 000 worked as nursing or domestic workers. Although there is no gender disaggregated data about the employment sectors available, it is widely believed that workers 152 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 in the domestic sector are mostly female and the ones employed in factories and construction sites mainly males. This means that female workers leave their legal jobs in the formal sector and move to illegal ones in informal domestic services. This can lead to consumption that there is close relation between employment statuses and run-away situation of foreign workers in Taiwan. Among Vietnamese migrant workers, the number of female workers also outnumbers that of men, and these female labor migrants are most likely to work in garment and food processing factories and domestic workers. Of Vietnamese laborers in Taiwan, 46% are female – the highest rate among all countries which Vietnam has sent workers to. The reason of increasing the number of Vietnamese female laborers going to Taiwan is due to the increasing demand for feminized form of labor in this receiving country. High number of women participating in labor force in this country causes a high demand for care service. Therefore, most of the female migrant workers in this country work in the informal sector such as caregivers and domestic services. Since 2009 the number of foreign workers in this informal sector outnumbered those in the formal factories. Almost all of these female migrants come from poor families and are forced to leave their home to look for better employment opportunities with the dream of getting out of their current hard circumstances. Due to their low levels of education and low work skills, the female migrant workers working in Taiwan in general and from Vietnam in particular have been facing great difficulties at the destination. Their moves at the same time bring about many problems for their relatives left behind. According to a Director of Labor Export Company, the average income of Vietnamese workers in Taiwan is 8 to 9 million VND. While, as indicated in (CEDAW, 2012) the fee they pay for getting the job is US$3,800-4,500 under a 3-year contract in Taiwan. However, in a number of cases, the fee reaches to 7,000 USD. Their incomes and expenses per month as followed: Income Calculation: Migrant Worker Gross Minimum Wage: 17,280 NTD Health Insurance: 225 NTD Food & Board: 4,000 NTD Labor Insurance: 215 NTD Broker's Service Fee: 1,800 NTD Total: 8,532 NTD Tax: 2,292 NTD Net Monthly Income: 8,748 NTD (250 US$) Net Annual Income: 104976 NTD (3000 US$) 153 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 The above data shows that their incomes just enough to cover their expenses at the destination, no saving left. This is the reason why Vietnamese workers in Taiwan are more likely to run away from their current work places to seek for higher pay in order to cover the high cost of fees paid for recruitment agencies or Taiwanese employers authorized by Vietnamese labor agencies for collecting the fees. Under current regulations, a worker is required to pay US$3,800-4,500 for a job under a 3-year contract in Taiwan, but according to an inquiry of the Taiwanese Labor Committee, the actual payment amounted to $5,000-6,000 on average and in a number of cases, and it increases to USD 6,500 to 7,000. As stated in the Article 1 of the UN Declaration on the Elimination of Violence against Women: “the term ‘violence against women’ means any act of gender-based violence that results in, or is likely to result in, physical, sexual or psychological harm or suffering to women, including threats of such acts, coercion or arbitrary deprivation of liberty, whether occurring in public or in private life.” Based on this definition, women migrant workers in Taiwan mainly found in the informal working sector, as caregivers and domestic workers is characterized by inferior status, low payment and a lack of protection by the labor laws, leaving the women more vulnerable to all forms of exploitation and violence. At the end of 2009 almost 175 000 mostly female migrant workers were working in Taiwan as nursing or domestic workers in families or nursing homes. The majority (69%) of them is coming from Indonesia, followed by 17% from Vietnam and 13% from the Philippines (http://office.wrp.org.tw). Except caregivers in nursing homes with more than 5 employees, these workers are not covered by the Labor Standards Law or a similar law or act to protect them. There are also no standard contracts or control mechanisms to ensure a minimum of safety for these women. Generally speaking this kind of work is not regarded as work and does not qualify these women to possess the same rights as a worker. They solely have to rely on the agreements specified in the contract with the employer. Nursing worker in the family not only serves sick or old person in the employer’s family but work as a slave in their house. Not only female migrant worker get maltreated, but it is also reported about male migrant worker working on the Taiwan-flag fishing boards getting abused by their employers and their pays have been withheld while serving on the ship (ait, 2013). Vietnamese Brides in Taiwan Due to their low levels of education and no work skill, these Vietnamese young women cannot get involved in other kind of international migration such as labor migration which employs only skilled workers. Therefore, they are forced to get married to foreigners as a way to get out of poverty inspite of the high risk when they move to a new coutry with unfamiliar 154 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 language and culture. In regard to the marriage between a Vietnamese citizent and foreigner, the marriage process needs to go through the Department of Justice at the provincial level before the marriage certificate is issued by the commune authorities. After getting the marriage certificate, the couple have to go to TECO in Vietnam for applying visa to Taiwan or Korea. To complete this process the couple gets to provide many documents such as birth certificate, a paper to show single status, health status.....and these need to be translate from Vietnamese to Chinese and vice versa. Due to their low levels of education and limited language, they can not do these by themselves, so they pay for brookers instead. There is much discussion in the literature about the issue of trafficking of women in the Asian region. There is no doubt that it is of significance but there is a tendency to incorrectly dichotomise moves into totally volitional moves and those where the mover is kidnapped and forced to move totally against their will. The reality in fact is more of a continuum between totally voluntary movements on the one hand and forced migration on the other. Many migrants who are not kidnapped in the conventional version of trafficking are by no means fully voluntary movers. Many are not given accurate information about their lot at the destination (Hugo, 2003), others move purely at the instigation of their parents or other relatives, others are deceived and still others are kidnapped after their arrival in the destination. All of these scenarios have been observed in the marriage migration of Vietnamese women to Taiwan and elsewhere (Wang and Chang, 2002). There is considerable discussion in the media on the link between “mail order brides” and prostitution (Watkin, 1999). Figure 2: Source: Kidnapping Continuum Between Trafficking and Voluntary Migration Modified from Do, et al., 2003, 49 Use of Force Deception Dealing Only With Parents Voluntary Results in Trafficking Voluntary No evidence states that these parents sell their children for money, but the survey data show that the parents of the brides receive on average USD1000 to USD2000 from the grooms during marriage process as well as later remittances from Taiwan (Hugo and Nguyen, 2004). Some of Taiwan men use weakness of Vietnamese law and use old divorced certificate to get married to Vietnamese women, while they have already remarried in Taiwan. Ridiculously, few Vietnamese women support them and agree to be a concubine. In many cases, these men use “their wives” like a goods by selling them to other men or to the brothel for profits. Some of them force their wives to work like a slave after marriage. Not many, but few girls aged 155 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 below 18 used fake birth certificates to trick local authorities. To be chosen by a Taiwan man, these girls have to overcome a competition with other ones such as showing their bodies in front of Taiwan men. If lucky they are chosen, if not they have to wait for next round, then their expenses will be more costly. This is the reason why many people blame these girls that getting married by this way they make Vietnamese women’ dignity decreased in the eyes of international friends. Many of the girls were informed by brokers that if they have Taiwan husbands they will have very good life. Their husbands will provide them everything they need and support their families in Vietnam because in Taiwan people are very rich. Therefore, quite a few women become disillusioned with their real lives in there. Their living experiences in Taiwan are other problems needed to take into consideration. In Vietnamese newspapers, quite a few articles about risky cases among Vietnamese brides in Taiwan such as domestic violence, women trafficking have been posted lately. As a result, most of them stay home as housekeepers at the beginning of their arrivals, and they are completely dependent on their husbands and his family. Even later on, some of the brides do not work outside because the husband does not want her to work. Those are women who live in nuclear families with their husband and children. The reason for staying home of these women is that child care costs are very expensive, so they cannot afford to send their children for care there. Lacking information about the destination and language barriers not only hamper the bride’s relationship with her husband and his family but make it difficult to deal with bureaucracy and to access services. This reinforces their isolation especially during the early years and is a contributor to the loneliness that many brides report. According to TECO in HCMC since almost all of the Vietnamese brides have low levels of education this also can be a barrier to them joining language training courses. Some find that their inferior position in the family, and the long hours of hard work expected of them, exacerbated by language barriers and by loneliness, and they are very unhappy. So unhappy in fact that some return to their homes in Vietnam and obtain a divorce. According to Luu Phuong Thao (2008), about 10% of Vietnamese brides get abused and 20% get divorced. These unlucky women either come back Vietnam or remarry to stay in Taiwan. It is a matter of concern as indicated in Hanoinet, 2007, off those coming back Vietnam, a lot are mentally ill. In particular, in Trung Nhat Commune, District Thot Not, Can Tho province, where there are the most women getting married to Taiwanese and Korean men, hundreds of sad stories about women coming back from Taiwan and many need metal disorder treatment. However, in these cases, their families take them to private clinic because they want to keep 156 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 them on a secret. Therefore, in this commune the tendency of looking for international partners seems to be on the rise over years dispite the risky cases noted already. Indeed, in the first half of 2007, in this commune 25 girl already married to Korean men, 7 to Taiwanese and other 250 got ready for the journey. In Mekong Delta area, more than 3,000 children from Taiwan-Vietnamese unsuccessful marriages stay with their grandparents. Discussion and Conclusion International migration from Vietnam to Taiwan is attracting most attention in Vietnam. When the number of international migration is increasing rapidly and the number of female migrants has gradually outnumbered male migrants it puts pressure on Vietnamese and Taiwanese authorities. Although this movement results in noticeable economic improvement in the sending communities, it causes a series of social problems. Although many anti“gender discrimination” resolutions have been adopted by E. A. countries, there is still a great deal more to be done. No laws related to domestic workers where most female migrants work make them out reach of legal protection. This poses them at a risk of sexual and labour abuse and harassment. Gender discrimination is still prevalent within the home and labour markets of Asia. Young women from less developed countries in this region are more likely to become victims of human trafficking. Working as domestic workers and caregivers make these female workers work in long-working hour with low-pay and unsecure work environment. Leaving families behind to move to Taiwan may cause their children a lack of good care or broken up family. The recent policy does not allow migrant workers to change their employers unless they can prove of their abuse, harassment or rape. Taiwanese and Vietnamese Government should monitor recruitment agencies from overcharging recruitment fees and should apply better monitoring measures on employers in domestic work in order to give these workers more freedom to see and contact with other people after working hours to avoid forced labour. For men working in fishing boards, the two Governments shall apply strong measures to stop abuse and forced labour. Human trafficking through labour migration and cross-border marriages is also a matter of concern. Marriage migration phenomena reflect the broader complications of the gender issue, in which its causes and effects are rooted. The current integration policies, however, lack in gender equality policies and measures. Thus, the policies in all two countries need a ‘gendermainstream’ perspective. There is very close relationship between labour migration and marriage migration as immigration policies in the East Asian countries have been very restrictive for foreign workers, i.e., those with low skills. Thus, marriage migration is by far the easiest and cheapest means, and often the only means, available for women who wish to 157 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 migrate to these countries. Some of Taiwan men use weakness of Vietnamese law and use old divorced certificate to get married to Vietnamese women, while they have already remarried in Taiwan. Ridiculously, few Vietnamese women support them and agree to be a concubine. In many cases, these men use “their wives” like a goods by selling them to other men or to the brothel for profits. Some of them force their wives to work like a slave after marriage. Not many, but few girls aged below 18 used fake birth certificates to trick local authorities. To be chosen by a Taiwan man, these girls have to overcome a competition with other ones such as showing their bodies in front of Taiwan men. If lucky they are chosen, if not they have to wait for next round, then their expenses will be more costly. This is the reason why many people blame these girls that getting married by this way they make Vietnamese women’ dignity decreased in the eyes of international friends. Many of the girls were informed by brokers that if they have Taiwan husbands they will have very good life. Their husbands will provide them everything they need and support their families in Vietnam because in Taiwan people are very rich. Therefore, quite a few women become disillusioned with their real lives in there. According to Vietnamese marriage law every woman above 18 and man above 20 have a right to get married to any one of the opposite sex who they feel suitable and their marriage is voluntary. Hence, Vietnamese and Taiwanese Authorities cannot stop these marriages, though all we know that a lot of social problems are included in this movement. However, the policy-makers and people in charge should make effort to cushion negative impacts of this trend on the woman herself and on the society. The marriage law to foreigners has to be changed to avoid weakness and young girls at the communities have to be equipped with an understanding of choosing appropriate partners. If they decide to have cross-border husbands they should have preparation for this. Learning language, studying culture of the destination and understanding family and marriage knowledge are very necessary to these women. And Vietnamese consultancy at the community level is the most effective place providing this basic necessity to them. References Dang Nguyen Anh (2007), Labor export from Vietnam: Issues of policy and practices, Paper for presentation at the 8th International Conference of Asia Pacific Migration Research Network, Fuzouh, China Ho Thi Thanh Nga (2012), Gender and transnational migration: Vietnamese women workers and negotiation of self-identity in multicultural Taiwan, European Research Center on Contemporary Taiwan 158 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 AIT (2013). “2013 Trafficking in Persons Report Taiwan” available at: http://www.ait.org.tw/en/officialtext-ot1306.html CEDAW, Taiwan NGO CEDAW Report on Violence against Women “Migrant Workers,” by Hope Workers’ Center, Regina Fuchs. Nguyen Minh Thao. “Migration, remittances, and economic development: Case of Vietnam” K. Kaneko (2009). Foreign Migrants in Taiwan and Japan: A Comparative Analysis. Asia Journal of Global Studies. Volume 3, No 1 Kannika Angsuthanasombat. Situation and Trends of Vietnamese Labour Export Nguyen van Ngu (2012). Labour Export from Vietnam to Taiwan MA thesis, The University of Economy, Vietnam. VietNamNet Bridge. Taiwan may limit entry to Vietnamese workers Taiwan’s Trafficking Problem. Available at www.goh.org.tw UNIAP (2008). Country information, Ha Noi, Vietnam MOLISA (2012). Labour Export 2013 where is the best place Hugo, G and Nguyen, X, Marriages Migration between Vietnam and Taiwan-A view from Vietnam, Paper for Conference Proceeding. Name of Conference “ Female Deficit in Asia” Held in Singapore, 5-7 December, 2005. Piper, N., 2003. ‘Wife or Worker? Worker or Wife? Marriage and Cross-Border Migration in Contemporary Japan. International Journal for Population Geography 9, pp. 457-469. 159 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Phụ nữ nông thôn đi lao động ở nước ngoài: những điều “được và mất” TS. Nguyễn Hữu Minh và Bà Nguyễn Thị Thanh Tâm Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới Astract The data used in this paper are drawing from the study about female labour migration conducted by the Institute of Family and Gender, VASS in 2010 at Dong tan, Dong Hung Thai Binh Province. By interviewing the husbands of female migrants, returned female migrants and some females coming home to visit family as well as local authorities, the information is analysed from gender perspective in order to understand the gain and the loss of this kind of labour migration in the surveyed area. The findings are as followed: - Female labour migration is inevitable phenomenon in the globalization process - Through this migration, these female migrants have sent a significant amount to their relative left behind. As a result the living standards of their families have been improving dramatically. - Female labour migration has changed the traditional labour structure in the area where in the past, males are the most likely to move. - Female labour migration has changed the perception of their husbands and the community people about the status of a woman. - Finally, the female labour migration brings about advantages for these women themselves. Apart from advantages as noted above, this paper also provides insight into problems occurred from this flow such as the risk of rape, harassment and violence. The fees applied by recruitment agencies are too high may put these females into a heavy debt. Vietnamese females are at a risk of becoming vulnerable because of limited ability of adaptation. Many women involuntarily become sex workers. While their husbands in Vietnam face difficulties of looking after their families, especially their children. A lack of formal agreement between two countries about legal protection of these females has put them at a great risk of abuse and violence. Based on the findings this paper also tries to provide some recommendation for policy makers. 160 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Mở đầu Với chủ trương mở rộng sự hợp tác lao động theo hướng đa phương, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra chính sách Đổi mới là "mở rộng việc đưa người lao động ra nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của chương trình lao động nói chung”38. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991, vấn đề XKLĐ đã được đưa vào "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”. Năm 1998, sau đường lối “đẩy mạnh XKLĐ” của Đại hội VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII cũng chỉ rõ: "Mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và trên thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu lao động và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước”. Nhiều nghị quyết, nghị định và thông tư được ban hành bởi Quốc hội và Chính phủ được ban hành có liên quan đến LĐXK và đặc biệt là sự ra đời Bộ Luật Lao động về người LĐVN làm việc ở nước ngoài năm 2002 (LNVNĐLVNN) cùng với nghị định số 81/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành bộ luật này đã cho thấy sự nhận thức rất rõ ràng về vai trò của LĐNN với những đóng góp của họ cho việc thúc đẩy kinh tế quốc gia tăng trưởng. Những hỗ trợ thiết thực của Chính phủ thông qua việc xây dựng “chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo” và nghị định 71 hỗ trợ các huyện nghèo do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trình Thủ tướng ban hành, cho phép các cá nhân gia đình hộ nghèo miễn lệ phí một số thủ tục và được vay tiền từ ngân hàng chính sách xã hội để trang trải kinh phí đóng góp ban đầu đã hỗ trợ khá nhiều con em trong các gia đình vùng nông thôn nghèo có cơ hội đi LĐ. Có thể nói, các chủ trương lớn về LĐXK và các chính sách hỗ trợ các gia đình vừa là các điều kiện khách quan, vừa là động lực thúc đẩy sự gia tăng của LĐVN, trong đó có lao động nữ ra nước ngoài làm việc. Lao động nữ Việt Nam ra nước ngoài thường biến động tùy thuộc vào nhu cầu thị trường, nhưng nếu tính chung thì chiếm khoảng 1/3 tổng số lao động ngoài nước. Chẳng hạn, tại Thái Bình, trong giai đoạn 2002 – 2005, tỷ lệ nữ LĐXK chiếm đến 81,5% tổng số người đi xuất khẩu lao động hàng năm của tỉnh (từ 2500-3000 người/ tỉnh). (Health Bridge Canada và Sở Y tế Thái Bình, 2006) Điều này phản ánh vai trò và vị thế mới của nhiều phụ nữ, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần quan tâm. Bài viết này, trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu gần đây và kết quả khảo sát của đề tài cấp Bộ tháng 4/201039, phân tích một số khía cạnh tích cực 38 Văn kiện Đại hội Đảng CSVN, đại hội VI, 1986 Đề tài: “Một số vấn đề xã hội của phụ nữ nông thôn Việt Nam lấy chồng và lao động ở nước ngoài” do Th.S Nguyễn Thị Thanh Tâm, Trưởng phòng Phòng Nghiên cứu Phụ nữ, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, làm chủ nhiệm, thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ 2009-2010 “Những vấn đề cơ bản về gia đình và giới ở 39 161 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 và tiêu cực của vấn đề lao động nữ di cư quốc tế xét từ góc độ giới. 1. “Được và mất” của di cư lao động ngoài nước từ một số nghiên cứu quốc tế Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra những tác động nhiều mặt của di cư lao động từ nhiều góc độ khác nhau, kinh tế, xã hội, văn hóa. Xu hướng chung vẫn là nhìn nhận di cư lao động quốc tế có nhiều tác động tích cực cho cả nơi đi và nơi đến, cho cả bản thân người di cư và gia đình của họ. a) Một số tác động tích cực Tác giả Keith Griffin cho biết có 9 lý do mà di cư LĐ quốc tế được các quốc gia phương Tây đón nhận: các i. Nâng cao kinh tế thu nhập cho nước chủ nhà. ii. Các nguồn lực được sử dụng có hiệu quả từ cả các nước giàu và nghèo. iii. Tăng cường trao đổi buôn bán giữa các quốc gia, phát triển kinh tế của quốc gia Tây Âu và duy trì sự tăng trưởng của Mỹ. iv. Kích thích phát triển kinh tế, buôn bán nhỏ. v. Tăng trưởng tiết kiệm, tăng trưởng đầu tư và vốn cho các nước giàu vi. Làm tăng khả năng sáng tạo. vii. Tăng lượng tiền gửi về các nước nghèo, và do đó, viii. Tăng trưởng nhanh chóng thu nhập bình quân đầu người. ix. Với những người đang ở tuổi già , di cư làm cho các hộ có người già có cuộc sống tốt hơn. Castles (2000) cho rằng di dân đã đóng góp vào việc giảm áp lực của nghèo đói và bất bình đẳng. Nó giúp xóa bỏ dần những ranh giới truyền thống giữa các ngôn ngữ, văn hóa, các nhóm dân tộc và các quốc gia. Các lập luận của Hugo (1993) cho rằng, xét về phương diện kinh tế, di cư làm tăng thu nhập của các gia đình có người di cư. Tiền gửi về của người di cư cho gia đình, nếu được đem đầu tư sẽ là một phương tiện rất tốt để thúc đẩy phát triển kinh tế trong các làng quê. Một nghiên cứu của FAO (1995) phát hiện rằng ở một vùng quê của Tanzania, những người đàn ông trẻ tuổi đã di cư tới các vùng đô thị ngay sau khi cưới để có tiền gửi về quê hương đầu tư vào các hoạt động nông nghiệp và mua bán đất đai phát triển nông nghiệp. Với nơi đến, theo Hugo (1993) làn sóng di cư tới các vùng đô thị, có thu nhập cao là một đóng góp cho phát triển vì giá nhân công lao động rẻ sẽ làm hạ giá thành sản xuất. Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020” do PGS.TS Nguyễn Hữu Minh làm Chủ nhiệm. Địa điểm khảo sát thực địa tại xã Đông Tân, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Thời gian khảo sát 4-2010. 162 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Những công việc nặng nhọc, thường bị các cư dân đô thị từ chối nay đã có người gánh vác. Đề cập đến ảnh hưởng tích cực khác của di cư, Allan M. Wiliams (2006) chỉ ra rằng, di cư quốc tế đã góp phần làm giàu kiến thức, hiểu biết cho người công nhân ở nhiều phương diện, kiến thức tại nơi làm việc, kiến thức về xã hội, kiến thức trong quan hệ cộng đồng. Những ảnh hưởng tích cực nêu trên không chỉ đối với người di cư nói chung mà trực tiếp cả đối với nữ di cư lao động. Ngoài ra, từ góc độ giới, di cư có ảnh hưởng đến địa vị của người phụ nữ trong các gia đình nông dân. Có các ý kiến khác nhau về vấn đề này. Nghiên cứu của Li Tana (1996) về những người phụ nữ di cư từ nông thôn đến Hà Nội làm nghề bốc vác thuê cho thấy di cư ít có tác động đến vai trò và vị trí của bản thân phụ nữ trong hộ gia đình vì theo giải thích của bà “các giá trị truyền thống, các giá trị nông thôn thường di cư theo phụ nữ” (dẫn theo Nguyễn Kim Hà 1999). Đây là một vấn đề không có gì khó hiểu khi mà trong giáo dục gia đình hay trên các phương tiện thông tin đại chúng, hay đâu đó trong các văn phòng tư vấn, các thông tin hướng dẫn luôn luôn khuyên nhủ những người phụ nữ cần nhường nhịn, giữ gìn sự yên thấm cho đời sống gia đình. Hugo có ý kiến khác, ông cho rằng ở các nước đang phát triển, di cư có một tác động khá rõ rệt đến vai trò của phụ nữ, tác động đến mối quan hệ quyền lực của họ trong gia đình và sự sinh đẻ của họ, đến tuổi hôn nhân và làm tăng tuổi kết hôn cũng như thay đổi cách nuôi dạy con cái (Hugo, 1993, dẫn theo FAO, 2005) Một nghiên cứu năm 1993 về di cư của LHQ cũng phát hiện ra rằng ở nhiều nước, di cư đã đem đến sự thay đổi trong phân công lao động theo giới trong địa hạt gia đình và làm tăng thêm quyền lực của phụ nữ, tăng thêm vai trò quyết định nhờ khoản tiền mà họ đóng góp cho kinh tế gia đình (UN, 1993). Một số các nhà nghiên cứu khác cho rằng di cư thúc đẩy sự tự chủ của phụ nữ (Chant, 1992; Davin. 1999:127) Bản thân Davin đã cho rằng trong xã hội nông thôn ở Trung Quốc, không một cá nhân nào có thể hoàn toàn tự chủ, tự quyết trong một xã hội nông thôn cấu tạo theo mô hình gia đình. Nhưng di cư làm tăng sự độc lập, tự chủ của phụ nữ là điều không còn phải nghi ngờ. Một nghiên cứu của Feng Xiao Shuang (2000) về phụ nữ di cư ở Bắc Kinh, Trung Quốc cho thấy, thu nhập kinh tế tăng lên là lợi ích lớn nhất của phụ nữ di cư. Thứ hai, phụ nữ di cư đã hấp thụ nhiều văn hóa đô thị dù rằng ở những mức độ khác nhau ví dụ ý thức về sự vệ sinh cá nhân, về vẻ đẹp thân thể, sự quen dần với lối làm việc hiện đại, những quan tâm về đời sống chính trị xã hội của đất nước và quan trọng là sự tiến bộ trong nhận thức về vai trò của người phụ nữ. b) Một số tác động tiêu cực 163 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Liên quan đến các tác động tiêu cực của di cư, một vài nghiên cứu ở Malaysia đã chỉ ra rằng sự ra đi của tầng lớp thanh niên nông thôn trẻ khoẻ, có giáo dục tốt đã tạo nên sự thiếu hụt hoặc sự già hoá lực lượng lao động cho nông nghiệp. Không chỉ là thiếu hụt nhân lực trong lao động, sự di cư của những người trẻ tuổi cũng đã đặt mọi gánh nặng gia đình như chăm sóc trẻ em, công việc nội trợ lên vai những người già và những người trẻ hơn. Về lâu dài, sự di cư của những người trẻ tuổi đồng nghĩa với sự suy giảm về việc sản xuất nguồn thức ăn cũng như tình trạng sức khỏe của các gia đình nông thôn (Tey Nai Peng and Halimah Awang,1994; dẫn theo FAO, 1995) Jones (1985) nhận xét rằng những cộng đồng ở nơi đến có thể phải chịu một số tác động xấu của di cư như sự thiếu hụt các dịch vụ xã hội, sự tăng lương chậm vì nhân lực lao động tràn ngập thị thành, tệ nạn tội phạm và các vấn đề xã hội cũng tăng lên. Theo Jones, việc nhập cư đã làm gia tăng các vấn đề xã hội, và nhập cư hầu như không được các công dân thành thị đón chờ. Davin cũng cho rằng, mặc dù di cư có rất nhiều đóng góp vào sự phát triển của nhiều ngành nghề ở khu vực phi chính thức ở các đô thị nhưng cũng tạo ra nhiều các “vấn đề xã hội” về nhà cửa và giao thông và thiếu thốn các dịch vụ y tế, giáo dục. Thêm vào đó, ở nhiều vùng của Trung quốc, nông nghiệp bị thống trị bởi phụ nữ do có quá nhiều nam giới di cư, và người ta lo lắng tình trạng di cư lâu dài của nam giới sẽ làm sụt giảm sản lượng nông nghiệp của Trung quốc trong tương lai (Davin,1999). Nghiên cứu của Feng Xiao Shuang (2000) dẫn ra ở trên cũng chỉ ra những khía cạnh tiêu cực trong cuộc sống của phụ nữ di cư ỏ Bắc kinh như sự khủng hoảng trong cuộc sống, sự chia cắt về tình cảm gia đình. 2. Một số đặc điểm của phụ nữ Việt Nam lao động ngoài nước cần quan tâm a) Đa số phụ nữ LĐ di cư đến từ các vùng nông thôn, cần cù lao động, nhưng phần lớn có học vấn không cao, không được đào tạo cơ bản trước khi đi lao động. Trừ thành phố HCM, trong 10 tỉnh thành có nhiều người đi LĐXK trong cả nước, có thể thấy đa phần lao động nữ đến từ các vùng thôn quê. Thực tiễn trong 10 năm qua cho thấy, lao động Việt Nam nói chung và lao động nữ nói riêng thường được nhìn nhận là cần cù, chịu khó khéo tay, tiếp thu nhanh và không ngại ngần khi phải làm thêm việc. Tuy nhiên, số người có chuyên môn, kỹ thuật chỉ chiếm 1/3. Lao động Việt Nam còn bộc lộ những nhược điểm như thể lực yếu, kỷ luật lao động yếu, ngoại ngữ kém, tính cộng đồng không cao, chưa có tác phong công nghiệp trong làm việc và lối sống. Hầu hết phụ nữ còn dang dở cấp trung học cơ sở hoặc mới tốt nghiệp tiểu học. Vì thế, lao động của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là lao động thủ công, tay nghề chưa cao. Về trình độ tay nghề, phần lớn lao động Việt Nam không qua đào tạo chuyên môn kỹ 164 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 thuật, trung bình chiếm khoảng ¾ tổng số lao động xuất khẩu. (Kannika 2008) Ví dụ, trước khi đi làm nghề giúp việc hay các công việc khác, họ chỉ bắt buộc phải tham dự một số khóa đào tạo ngắn để làm quen với công việc và có chút kiến thức tối thiểu. Với 100 USD lệ phí cho các khóa đào tạo ngắn hạn, các công ty tuyển dụng và môi giới lao động thường mở các khóa đào tạo cấp tốc trong vòng 1-2 tuần cho người lao động, bao gồm cả các câu trao đổi đơn giản bằng ngoại ngữ. b) Nhiều lao động nữ làm việc ở nước ngoài có con nhỏ. Kết quả nghiên cứu tại Thái Bình của Viện NC Gia đình và giới (2010) cho thấy, có một tỷ lệ khá lớn phụ nữ di cư đã có gia đình (93,6% số phụ nữ di cư trong mẫu). Về con cái, 164/170 đã hoặc đang kết hôn đã có con và đa số chị em (67,7%) trước khi đi lao động đều có con nhỏ dưới 6 tuổi. Việc có nhiều phụ nữ có con nhỏ dưới 6 tuổi vẫn tham gia lao động ngoài nước dự báo những khó khăn trở ngại của phụ nữ và cả người chồng của họ trong vấn đề chăm sóc, giáo dục con cái, đồng thời báo hiệu những nguy cơ mới do cuộc sống gia đình và tình cảm vợ chồng, cha mẹ bị chia cắt, do môi trường lao động mới với nhiều bất ổn, đảo lộn, thay đổi nhanh chóng. 3. Tác động tích cực của việc đưa phụ nữ nông thôn đi lao động ngoài nước a) Đóng góp một nguồn ngoại tệ đáng kể cho ngân sách quốc gia và địa phương hàng năm Nếu chỉ tính tiền gửi của nhóm những người đi lao động XK, các LĐNN nói chung và phụ nữ nói riêng thông qua tiền gửi, ở cấp độ quốc gia, đã đem về cho Việt Nam một khoản ngoại tệ khá lớn, bình quân đạt khoảng 1,7 tỷ USD (Lê Ngọc Hùng, 2010). Cán bộ lãnh đạo tỉnh Thái Bình (phỏng vấn của đề tài 2010) xác nhận rằng, các lao động ngoài nước, trong đó chủ yếu là LĐ nữ đã đem về khoảng 45 triệu đô la cho tỉnh trong ba năm và đây là nguồn thu khá lớn của một tỉnh thuần nông như Thái Bình. Tại Bắc Giang, tính đến cuối 2009 có khoảng 34.000 lao động ở nước ngoài ở các thị trường Đài Loan, Malaysia và Trung đông, chiếm 9,86% số dân số nông thôn. Lượng ngoại tệ chuyển về trong năm 2009 là 57 triệu USD và 3 triệu EUR, tương đương 1.135 tỷ đồng. (Phạm Thanh 2010) Lao động ngoài nước (LĐNN) với tiền gửi về và các hoạt động xung quanh cho dịch vụ LĐNN đã tạo nhiều cơ hội về công ăn việc làm, cơ hội vươn lên thoát nghèo. Ở xã Đông Tân (Thái Bình), với gần 300 lao động ngoài nước hàng năm, trong đó 81% là phụ nữ và đa số làm công việc giúp việc gia đình, đã gửi về một khoản tiền lớn, tương đương 18 tỷ đồng, bằng 1,5 lần thu nhập của ngành trồng trọt của xã. Sau 10 năm thực hiện LĐXK, tỷ lệ hộ nghèo ở Đông Tân đã giảm xuống dưới 10%. Trong số gần 300 hộ đang đi LĐNN, không còn hộ nào 165 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 nghèo. (PVS cán bộ lãnh đạo xã Đông Tân) Trong một thảo luận nhóm, một nam giới cho biết, “nếu công việc tiến triển tốt thì làm hai năm ở Đài Loan bằng thu nhập 10 năm ở nhà.”(Health brigde và cơ quan khác, 2008). Nhìn chung, xuất khẩu LĐ hàng năm giải quyết được khoảng 70.000 công ăn việc làm cho người dân. XKLĐ cũng góp phần giảm số hộ nghèo của các địa phương có người đi lao động ngoài nước. Trong điều kiện kinh tế đất nước đang trong giai đoạn khó khăn, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm cao thì con số trên cho thấy xuất khẩu lao động thực sự có ý nghĩa trong việc góp phần cải thiện kinh tế gia đình và xã hội và giảm thiểu tình trạng thất nghiệp. Ở cấp độ hộ gia đình, xuất khẩu lao động nữ góp phần nâng cao thu nhập và tích lũy, và tiết kiệm cho hộ gia đình. Khảo sát của nhóm nghiên cứu ở Đông Tân (Thái Bình) cho thấy, có hơn 1/3 số người trong 171 phỏng vấn đã khẳng định rằng hàng năm đã gửi về nhà khoản tiền từ 41-60 triệu đồng. Và hơn ¼ số nữ đã gửi từ 61-132 triệu đồng. Đây là những khoản tiền rất lớn nếu so sánh với thu nhập trung bình của một hộ gia đình nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Thu nhập của một LĐ nữ ngoài nước có thể cao gấp 3-5 lần thu nhập của cả một hộ trung bình làm nông nghiệp trong xã, nếu chúng ta biết rằng trước khi có người nhà đi lao động, thu nhập của 55,6% hộ dân trong mẫu khảo sát được hỏi chỉ đạt dưới 10 triệu đồng/ năm, 34,5% có thu nhập trung bình 11-12 triệu/ năm và chỉ có 9,9% có thu nhập từ 20-70 triệu đồng/năm. Và thu nhập trung bình của một hộ dân vào loại trung bình ở vùng đồng bằng Sông Hồng khoảng 24-30 triệu/ năm (gia đình có 4 khẩu)40. Chính vì vậy, có 88% số người được hỏi ở Đông Tân đều cho biết tiền gửi về của người lao động thực sự đã đóng góp phần rất lớn vào thu nhập của các hộ gia đình; Có 7% cho biết thu nhập từ LĐXK chiếm đến 50% tổng thu nhập của gia đình họ. Tiền gửi về của phụ nữ di cư lao động, ngoài việc xây nhà, trả nợ, chi tiêu và trang trải những khoản cần thiết, còn được các hộ dân tích lũy qua nguồn tiền gửi tiết kiệm, mua vàng bạc hoặc đầu tư sản xuất. Các tài sản có giá trị phục vụ cuộc sống như xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, điều hoà, điện thoại cũng được đầu tư mua sắm hoặc nâng cấp. Nhiều gia đình đã tăng mức đầu tư cho chăn nuôi, mở rộng diện tích trồng cấy hay đầu tư cho dịch vụ kinh doanh nhỏ như trang thiết bị cho dịch vụ đám cưới, đám ma. (Đặng Nguyên Anh và cộng sự 2010; Khảo sát của nhóm nghiên cứu 2010). 40 Số liệu khảo sát của đề tài và tham khảo số liệu thống kê về mức thu nhập của các hộ dân nông thôn vùng ĐB Sông Hồng, dự án cấp nước NT vùng ĐBSH (Tài liệu báo cáo lưu trữ, Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường NT TW), 166 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 b) Góp phần tăng cơ hội học hành cho con cái, thúc đẩy trách nhiệm tự lập cho trẻ em và nâng đỡ các giá trị tinh thần khác Số liệu khảo sát ở Đông Tân cho thấy có đến 66,5% người trả lời cho rằng họ đã dùng số tiền gửi về từ XKLĐ để đầu tư cho con ăn học. Nhiều gia đình mua máy vi tính để việc học tập của con em mình được thuận lợi hơn. Nhờ có tiền gửi về, các gia đình có điều kiện cho con đi học thêm nhiều hơn, các khoản đóng học phí cũng không bị trì hoãn. Một số người được hỏi cho rằng, sự xa cách lại khiến vợ chồng thương yêu nhau hơn và con cái ngoan, tự lập hơn. Như vậy, khoảng thời gian xa cách do xuất khẩu lao động mang lại cũng là một thử thách cho sự bền vững trong tình cảm vợ chồng, là thời gian để cả hai chiêm nghiệm, suy nghĩ và cảm thông cho nhau. Theo như ý kiến một người chồng có vợ đang đi xuất khẩu lao động cho biết thì “đó cũng là thời gian để lửa thử vàng, nếu ai vượt qua được cửa ải đó thì tình cảm vợ chồng sẽ càng sâu sắc thêm”. Một giá trị tinh thần, nhưng cũng là một tâm lý khá thông thường mà những người cha, mẹ thường hay đề cập đến trong các câu chuyện trao đổi đó là sự tự hào, sự hãnh diện của họ với làng xóm láng giềng, khi con cái gửi tiền về giúp đỡ cha mẹ. c) Góp phần thay đổi sự phân công lao động theo giới truyền thống trong hộ gia đình theo hướng tiến bộ hơn Sự di cư của phụ nữ đã làm đảo lộn sự phân công lao động truyền thống trong các gia đình và đưa phụ nữ, từ chỗ chỉ là người phụ thêm vào kinh tế, trở thành người làm chính. Trong nhiều gia đình có vợ đi lao động ở nước ngoài, sinh hoạt gia đình vẫn được duy trì nhờ bàn tay khéo léo của người nam giới. Những điều mà người đàn ông trước đây thường khoán trắng cho vợ như công việc chăm con, nuôi dưỡng con, giúp con học, cơm nước giờ đã trở thành nhiệm vụ bắt buộc, rồi tự nguyện và họ vẫn rất tự hào. Nhiều nam giới cảm thấy đã có những lúc họ thấy bi quan, tâm trạng không thoải mái vì những công việc tưởng là đơn giản nhưng lại cực kỳ khó với họ như cho con ăn khi chúng còn đang ở tuổi phải chăm sóc, khi chúng đi học, thi chuyển cấp. Nhưng sau một thời gian nhất định, nam giới đã trở nên thành thạo, và điều quan trọng hơn mà họ nhận thấy là phải có đầu óc khoa học khi sắp xếp quản lý việc gia đình, đồng thời “phải làm gương cho con trẻ”. Sự tham gia lao động ngoài nước của chị em cũng đã tác động đến sự thay đổi trong nhận thức của người chồng và cộng đồng dân cư về vị thế của phụ nữ. Trước hết là thay đổi suy nghĩ về những công việc thầm lặng trước đây của người vợ mà nhiều người chồng vốn cho là không quan trọng: “Nếu vợ ở nhà thì không nghĩ đến chuyện đấy vì chuyện đấy có khi là chuyện râu ria, nhưng khi vợ đi làm rồi, mình ở nhà, ví dụ như giặt quần áo rồi thổi cơm các thứ, thì mình mới biết được tầm quan trọng của vợ.” (Nam giới có vợ đi XKLĐ). 167 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Và sự tôn trọng lớn nhất mà một số những phụ nữ đi lao động di cư có được chính là những người chồng ở nhà biết vượt qua khó khăn, làm tròn các công việc gia đình để người vợ yên tâm làm ăn: “Chúng em chỉ động viên nhau thôi, bây giờ vợ đã đi vào con đường theo hướng kinh tế rồi, thì mình ở nhà phải động viên nhau vượt qua những khó khăn, khó khăn về tình cảm; rồi người ta không thông cảm với mình thì đội hình của mình phải thông cảm với nhau thôi. Để vượt qua cái đó để vợ bên đó yên tâm làm ăn.” (phỏng vấn sâu nam giới, có vợ đi ĐL) Đồng thời, nhiều người chồng nhận xét rằng, sau khi đi lao động xuất khẩu trở về, người phụ nữ có tiếng nói hơn trong họ hàng và cộng đồng của họ. Theo kết quả khảo sát ở Đông Tân (Thái Bình), có 76% người trả lời cho rằng lao động xuất khẩu làm cho phụ nữ có tầm quan trọng hơn. Suy rộng ra, có thể hiểu là vai trò và vị thế của phụ nữ được cải thiện thông qua những đóng góp tích cực của họ cho gia đình, qua những trải nghiệm, hiểu biết của họ khi “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Tầm quan trọng của người phụ nữ trong việc tạo lập kinh tế không chỉ được những người chồng ghi nhận mà còn được các cán bộ địa phương đánh giá. Những cán bộ lãnh đạo cao nhất của xã Đông Tân khẳng định nếu không nhờ chị em đi lao động, làng xóm ngày nay không thể đổi mới được; và người phụ nữ bây giờ trở nên quan trọng hơn trong mỗi gia đình khi họ tham gia vào XKLĐ. Họ được mọi người trong cộng đồng đánh giá cao hơn, kể cả người chồng của họ vì họ giữ vai trò chính trong việc tạo lập kinh tế cho gia đình. d) Góp phần làm thay đổi về quan hệ xã hội, cách ứng xử của chính những người phụ nữ Có nhiều ví dụ từ các phỏng vấn sâu cho thấy rằng sự hòa nhập trong môi trường lao động mới với những hoạt động mới, những cơ hội kinh tế mới, những quan hệ xã hội mới được mở rộng về cả không gian và thời gian đã phần nào làm biến đổi nhận thức, thái độ của phụ nữ di cư LĐNN về hoàn cảnh của chính họ, về cơ may, những khó khăn, những lợi thế “giới” và khả năng vượt qua thách thức với tổn thương hay thiệt hại ít nhất. Về thực tế, trong những người phụ nữ nông thôn Việt Nam đi lao động với thời gian 3 năm hay 6 năm, thậm chí lên tới 9 năm thì việc hấp thu các kiến thức xã hội như là một quá trình tự nhiên của họ. Không kể đến quá trình tiếp thu về ngoại ngữ thì qua những câu chuyện mà chị em kể lại, đơn giản nhất vẫn là thuần thục về cách thức nấu ăn và kỹ năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị tiện nghi trong gia đình. Kế tiếp đó là những cách ứng xử để làm vừa lòng các chủ nhà khó tính, hay kỹ năng đối phó với những chủ nhà có ý định muốn lợi dụng chị em. Và đã có những phụ nữ thể hiện khả năng thương thuyết về hợp đồng lao động với các công ty tuyển dụng hay các gia đình thuê mướn khi họ đi đến lần thứ ba. 168 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Những người nam giới ở nhà đã cảm nhận rất rõ những đổi thay tiến bộ của những người vợ cả về hình thức lẫn cách ứng xử trong quan hệ tình cảm. Như có thể thấy qua số liệu ở Bảng 1, gần 50% số người trả lời khẳng định người phụ nữ đã biết tính toán làm ăn tốt hơn, ngoài ra khoảng ¼ số người đánh giá người vợ biết cư xử tốt hơn với chồng con, sống có trách nhiệm hơn hay biết cách ăn mặc hiện đại hơn. Một nam giới cho biết: “Về ứng xử của nhà em thì hay hơn trước rất nhiều. Nhà em cũng thông minh nhưng cái hơn nhất của nhà em là tình cảm vợ chồng, tình cảm mẹ con...” (nam nông dân, 46 tuổi). Hay “Gần như tất cả những người sang XKLĐ bên Đài Loan thì đều có cuộc sống khá hơn ở nhà... Mình thấy họ sống nhận thức hơn, lịch sự hơn.” (nam nông dân, 40 tuổi, có vợ đi XK). Bảng 1. Những thay đổi tích cực của phụ nữ trong quá trình đi LĐXK qua đánh giá của người chồng TT Những thay đổi tích cực qua N LĐXK (=171) % 1 Ăn mặc hiện đại hơn 38 22,2 2 Tính toán làm ăn tốt hơn 77 45,0 3 Cư xử với chồng con tốt hơn 44 25,7 4 Sống có trách nhiệm hơn 38 22,2 Nguồn: khảo sát của đề tài, 2010 4. Những khía cạnh tiêu cực khi lao động nữ di cư ngoài nước a. Nhóm vấn đề liên quan đến công tác tuyển dụng người đi LĐXK nữ Nguy cơ bị lừa đảo cao khi lao động nữ bị thiếu thông tin, phụ thuộc vào các công ty tuyển dụng Khi ra đi, lao động nữ thường có ít các thông tin về nước đến lao động, không nắm được các điều kiện lao động, phụ thuộc hoàn toàn vào người môi giới hay các công ty tuyển dụng. Đặc điểm chung của nhiều doanh nghiệp là việc làm chưa chuyên nghiệp. Một số doanh nghiệp được cấp phép không chịu khó tìm tòi thị trường, tìm kiếm hợp đồng mà khoán trắng cho các chi nhánh trực thuộc tìm mọi cách, kể cả lừa đảo để có thể lôi kéo người lao động. Công tác cung cấp thông tin đến người lao động còn chưa tốt. Tình trạng cung cấp thông tin và các khoản chi phí mập mờ, không minh bạch, nhất quán diễn ra ở nhiều địa phương trong khi các cơ quan liên quan thiếu các cơ chế giám sát công tác tuyển dụng và xử lý có hiệu quả những công ty, tổ chức môi giới vi phạm pháp luật trong việc đưa người đi lao động ra nước ngoài. 169 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Phí tuyển dụng lao động bị đẩy quá cao khiến cho nhiều lao động nữ và gia đình phải lâm vào tình trạng vay nợ, nguy cơ rủi ro cao. Để di cư tìm việc làm ở nước ngoài, nhiều lao động nói chung và phụ nữ nói riêng thường phải trả một khoản tiền khá lớn cho các công ty môi giới việc làm trong và ngoài nước, cao gấp nhiều lần so với quy định tuyển dụng. Các phụ nữ nghèo không đủ tiền đóng quỹ, thường phải vay nợ với lãi suất cao từ những người cho vay chuyên nghiệp, hoặc vay mượn từ họ hàng bạn bè. Hàn Quốc và Đài Loan là hai quốc gia có thu nhập khá hấp dẫn với các lao động nam và nữ (500-1000 USD/ tháng ở Hàn Quốc và 400-600 USD (phỏng vấn các lao động ở xã Đông Tân 2010) nhưng nhu cầu tuyển dụng bị hạn chế. Và vì hấp dẫn, nên phí tuyển dụng đã bị nhiều công ty môi giới đẩy giá lên quá mức, đặc biệt là đi Hàn Quốc. Một số đại biểu Quốc hội trong đoàn giám sát của Quốc hội về công tác xuất khẩu lao động và sự tuân thủ luật đưa người Việt Nam đi LĐ NN, trong buổi họp ngày 3/9/ 2010 đã bày tỏ thái độ hoàn toàn không đồng tình về sự kiếm lời trắng trợn của một số các công ty tuyển dụng lao động khi nhận được thông tin cho biết có khá nhiều địa phương người lao động đã phải vay mượn đến 60 triệu đồng để đóng tiền đi lao động Hàn quốc trong khi phí tuyển dụng quy định chỉ có 699 đô la Mỹ. Vay nợ để đóng phí môi giới đang tạo ra các nguy cơ bất ổn cho phụ nữ và gia đình. Con số các gia đình có thể huy động một phần “nội lực” của gia đình để trang trải các khoản chi ban đầu cho việc đi XKLĐ chiếm tỷ lệ không cao (29,8%). Phần lớn các hộ gia đình phải đi vay thế chấp ở ngân hàng (50,3%) và vay lãi từ những người quen biết để lao động nữ có thể đi XKLĐ (48%). (Số liệu khảo sát của đề tài tại Đông Tân 2010) Và trong trường hợp vay mà không đi được, hoặc đi sang vài tuần, vài tháng rồi phải quay về thì nợ nần sẽ là gánh nặng vì cũng không có phương tiện nào đảm bảo người lao động sẽ có cơ hội được đi làm. Rõ ràng là sự không minh bạch của các công ty tuyển dụng, công ty môi giới và số tiền người lao động phải đóng phí tuyển dụng quá cao là nguy cơ rủi ro lớn trong trường hợp người LĐ không được chấp nhận, hay công ty nhận người LĐ bị phá sản vì phần lớn họ phải đi vay nợ từ nhiều nguồn. Một số gia đình kinh tế lâm vào bước đường cùng quẫn vì vay nợ và hiện đang không biết làm gì ra tiền để trả nợ. Hộ nghèo đã không thoát nghèo mà vì thế, lại càng nghèo hơn. Hoặc là có những nữ lao động đã đến được quốc gia thu nhận, nhưng lại bị lừa đảo, hoặc công ty mà công ty tuyển dụng gửi đến đã vỡ nợ và phải về nước trước, không kịp trả nợ nên trở thành con nợ. 170 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 b) Nhóm vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động nữ trong thời gian đi lao động ở nước ngoài. Nhìn chung, lao động nữ Việt Nam dễ bị thương tổn do yếu trong năng lực đối phó và hòa nhập. Nhiều lao động nữ đã gặp muôn vàn bất trắc khó khăn khi phải một mình đương đầu với nhiều trở ngại nơi đất khách quê người. Trình độ học vấn hạn chế, lao động di cư nữ ở Việt Nam chủ yếu làm các công việc lao động giản đơn như giúp việc gia đình. Một số nữ công nhân đi lao động nông nghiệp ở các vùng nông thôn xa xôi, hẻo lánh. Do đó, họ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong công việc và trong cuộc sống ở nơi điểm đến. Những trở ngại mà các lao động nữ phải đối phó có thể được phân loại theo các nhóm sau đây: i) Lương quá thấp, lại bị cắt xén tùy tiện; ii) điều kiện lao động nặng nhọc, dễ gặp nguy cơ bị lạm dụng; iii) gặp khó khăn trong việc tìm kiếm hỗ trợ pháp lý; iv) bị lôi kéo tham gia hoặc ép buộc tham gia vào công nghệ tình dục; v) Gia tăng tình trạng căng thẳng, nảy sinh tâm lý cô đơn, sợ hãi. Mức lương thấp, lại bị chủ cắt xén tùy tiện Dẫu biết rằng thu nhập không cao nhưng người lao động nữ Việt Nam vẫn chấp nhận khi ra đi vì cũng vẫn còn hơn ở nhà. Nhưng điều mà nữ lao động VN không ngờ tới là những người chủ của họ luồn tìm mọi cách để phạt lao động và trừ tiền lương của họ. “Họ chiết 50 sen một ngày bằng 75 ngàn tiền Việt Nam mình. Sang bên đó lương cơ bản họ trừ lung tung, em sang bên đó đòi hỏi rất nhiều, đấu tranh rất nhiều, rồi biểu tình nhưng mà họ cầm đằng chuôi rồi không ăn thua.” (Nữ công nhân XKLĐ). Điều kiện lao động và điều kiện sống tồi tàn, lại dễ gặp nguy cơ bị lạm dụng. Đi xuất khẩu lao động, người phụ nữ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm rình rập, với những nguy cơ bị ngược đãi, bị lạm dụng, hoặc phải sống trong những điều kiện lao động tồi tàn, bị lạm dụng sức lao động và thân thể... Ngày 17-5, năm 2006, cảnh sát Đài Loan đã bắt giam hai cha con tên Hồng Kính Trương, giám đốc công ty môi giới lao động Trung Hữu và cáo buộc tội hãm hiếp hơn 20 lao động từ Việt Nam sang. Một số cô gái đã khai với cảnh sát về sự hãm hiếp và đánh đập tàn bạo của hai cha con: “ Nó cưỡng ép tôi nhiều lần nhưng tôi đã chống cự quyết liệt. Hôm sau nó liên tục đánh đập tôi. Nó là con thú chứ không phải con người” (Những nữ lao động Việt Nam bị hãm hại ở Đài Loan- Tuổi trẻ.com.vn) Nghiên cứu về XKLĐ ở một số nước Đông Nam Á của tác giả Nguyễn Thị Hồng Bích đã đưa ra một kết luận rằng lao động nhập cư nữ là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất ở khắp các nước, vì đa số họ làm việc ở nhà (giúp việc nhà), không được tổ chức vào nghiệp đoàn, không có văn bản để xác định các quyền lợi của họ đối với phúc lợi xã hội. Các phụ nữ làm công 171 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 việc này phải đối mặt với các vấn đề như phải làm việc nhiều giờ với mức lương thấp và thường là đối tượng bị hành hạ và bóc lột, bị xâm hại tình dục, có nguy cơ lây nhiễm các bệnh xã hội cao, nhất là lây nhiễm HIV/AIDS” (Nguyễn Thị Hồng Bích, 2007). Một số lao động giúp việc khi làm công ăn ở trong gia đình người chủ đã không tránh khỏi tình trạng bị các “ông chủ” đụng chạm, gạ gẫm: “Ông ấy bảo... về bỏ chồng đi, chồng mày xấu lắm, rồi quay sang đây ở với ông ấy. Có đêm, ông ấy tìm cách vào sờ soạng...”(nữ giúp việc XKLĐ) Gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Khó khăn lớn nhất mà phụ nữ lao động ở những ngành nghề thu nhập thấp gặp phải, là không có các dịch vụ bảo trợ pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho họ khi lao động ở nước ngoài. Những lao động nữ Đông Tân trở về cho biết trong thời gian họ ở nước ngoài, họ hầu như không thấy, hoặc không được sự trợ giúp của các công ty tuyển dụng khi có các vấn đề tranh chấp xảy ra giữa người lao động và các ông chủ. Hệ thống luật pháp của các nước sở tại trong khu vực thường không có các hỗ trợ pháp lý cho người lao động Việt Nam vì chưa có những thỏa thuận về thủ tục hỗ trợ pháp lý giữa Chính phủ Việt Nam và các quốc gia này (IOM, 2008). Chính vì thế, phụ nữ di cư LĐXK trở thành đối tượng dễ bị lạm dụng, bị bóc lột mà trong hầu hết các trường hợp, họ không biết cậy nhờ ai bảo vệ quyền lợi cho họ và cũng không có cả tiền để trả nếu như có luật sư cãi hộ41. Hơn thế nữa, một số bộ phận công dân của các nước thường mặc nhiên coi thường người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng và không nghĩ họ có quyền bình đẳng với bản thân họ. Việc chậm đàm phán các hoạt động và chính sách hỗ trợ về mặt pháp lý giữa Việt Nam và các quốc gia liên quan đã khiến cho các hoạt động bảo vệ quyền lợi của người lao động VN ở nước ngoài bị hạn chế. Trong khi đó, “nhập gia phải tùy tục” nhưng nhiều lao động Việt Nam bị hạn chế về thông tin và ngôn ngữ, nên hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Cộng thêm những điều khoản bất lợi cho người lao động mà họ không hề biết tới nên các xung đột, khi xảy ra thường đem bất lợi cho người lao động Việt Nam. Người lao động cũng không có tiền để trả cho luật sư nếu muốn thuê mướn người bảo vệ quyền lợi cho họ. Một bộ phận phụ nữ đã bị lôi kéo tham gia hoặc bị ép buộc tham gia vào lĩnh vực của “công nghệ tình dục”. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà một bộ phận của lao động nữ đã bị lừa gạt, lôi kéo tham gia hoặc bị ép buộc tham gia vào lĩnh vực của “công nghệ tình dục”. Báo cáo của một số nhà nghiên cứu làm việc cho các tổ chức ILO và IOM và một số nhà nghiên 41 Phát biểu của cán bộ Sứ Quán VN tại Hàn Quốc tại hội thảo tại Hà Nội ngày 12/8-2009 do UB các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức. 172 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 cứu độc lập đã chỉ ra rằng một bộ phận của lao động di cư nữ ở Việt Nam, cũng như ở một số các quốc gia Đông Nam Á, do thiếu thông tin, lại dễ bị lôi kéo, lừa gạt nên đã tham gia hoặc là chủ động, hoặc là ép buộc vào lĩnh vực của “công nghệ tình dục”, hoặc là nạn nhân của hoạt động buôn bán người. Theo thống kê 5 năm ( 2004-2009) thực hiện chương trình phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, cảnh sát Việt Nam đã tham gia phá án 1.586 vụ, bắt 2.888 đối tượng, lừa bán 4008 nạn nhân, trong đó có 1218 vụ mua bán phụ nữ với 2310 đối tượng, 3019 nạn nhân; 191 vụ mua bán trẻ em với 268 đối tượng, 491 nạn nhân; 177 vụ mua bán cả PN và trẻ em với 310 đối tượng, 498 nạn nhân. Nhiều thiếu nữ bị rơi vào bẫy bọn buôn người vì tin vào lời hứa có việc làm có thu nhập tốt ở nước ngoài. Gia tăng gánh nặng tâm lý và áp lực công việc. Lao động xuất khẩu nữ gặp phải vô số những khó khăn về tâm sinh lý như cảm giác cô đơn, căng thẳng, bất an…do áp lực phải thích nghi với công việc mới, cuộc sống mới, do sức ép của việc kiếm tiền trong môi trường hoàn toàn xa lạ, lao động vất vả, khó khăn về ngôn ngữ…Số liệu khảo sát ở Đông Tân cho thấy, khó khăn mà người trả lời đề cập đến nhiều nhất là nỗi cô đơn, nhớ nhà (chiếm 67,3%); Kế tiếp là vấn đề lương thấp, không đúng với hợp đồng (29,2%) và lao động tăng ca, bị kéo dài (25,7%). c) Nhóm vấn đề: hậu lao động xuất khẩu và sự hòa nhập của phụ nữ sau khi đi lao động trở về. Phần lớn người lao động nam hay nữ về nước phải tự tìm việc làm, tự bươn chải. Các kiến thức thu thập thông qua lao động của họ tại xứ người ít khi được sử dụng vì phần đông không lao động trong các nhà máy. Trong một khảo sát nhỏ người lao động trở về ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, chỉ có 20% là có việc làm nhưng là tự mở cơ sở sản xuất kinh doanh theo kiểu gia đình. Còn 80% lao động trở về chỉ có việc làm bấp bênh hoặc thất nghiệp. Trong khi đó, chính trong thời gian người phụ nữ đi lao động cũng có nhiều vấn đề đặt ra, cả đối với hộ gia đình và bản thân họ. Thiếu nhân lực lao động nông nghiệp Hầu hết các gia đình vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp ở các mức độ khác nhau. Điều đó tất yếu dẫn đến gánh nặng công việc sẽ dồn lên vai người ở lại và việc thu hẹp diện tích sản xuất là điều khó tránh khỏi đối với nhiều gia đình có vợ đi XKLĐ. Ngoài ra, một bộ phận người lao động trở về chán nản, không muốn tiếp tục làm việc ruộng đồng: “Bây giờ chỉ có điều như thế này tất cả những người đi nước ngoài về là không ai muốn ở lại nhà vì sang đó thu nhập rất cao và hai nữa ở nhà vất vả. Làm việc ở nông thôn vất vả quá. Bây giờ các chị em đi sang nước ngoài một là tiền nhiều lại không chân lấm tay bùn gì, bây giờ về nhà nhìn 173 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 đồng ruộng rất là mệt. Có người sang đấy đến 8,9 năm vẫn không có nhu cầu về nhà.” (thảo luận nhóm Cán bộ xã Đông Tân). Người chồng gặp nhiều khó khăn trong chăm sóc, giáo dục con cái và quản lý gia đình. Kết quả khảo sát tại Đông Tân tháng 4/2010 cho thấy, có 70,7% số người trả lời họ gặp khó khăn vì khó chăm sóc trẻ em; 37,4% cho rằng con khó bảo hơn, nghịch ngợm hơn; 18,7% cho rằng họ thực sự gặp phải khó khăn trong việc giáo dục, đôn đốc con học hành và 16,4% người được hỏi nói rằng con cái họ học kém hơn khi mẹ đi XKLĐ. Cũng có hơn 40% gặp khó khăn về công việc nhà nói chung. Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam thì gánh nặng chăm sóc gia đình con cái là do người vợ đảm nhiệm, tuy nhiên trong trường hợp này, khi người vợ vắng nhà (đi XKLĐ) thì những vai trò này chuyển sang người nam giới, người chồng. Do nhiều người chồng không quen với công việc này nên các gia đình và con cái gặp nhiều khó khăn. Nhiều gia đình lựa chọn cách gửi con cho ông bà chăm sóc hay nhờ ông bà đến nhà chăm sóc con trong thời gian vợ đi XKLĐ. Việc thiếu người mẹ trong việc chăm sóc trẻ nhỏ thực sự là một khó khăn không nhỏ đối với các ông bố. Phải sống thiếu sự chăm sóc của người mẹ trong một thời gian trung bình từ 2-3 năm thì những đứa trẻ không thể tránh khỏi những hụt hẫng, khủng hoảng. Khoảng 84% người chồng nói là gặp khó khăn khi trẻ buồn nhớ mẹ. Một nam giới có vợ đi XKLĐ tâm sự: “Nói chung là các cháu buồn. Nó không tâm sự bằng lời nhưng nó bằng hành động, cụ thể như nhà em có cháu nhỏ mới 3 tuổi, mà thường khi mẹ ở nhà thì nằm ngủ nó ôm mẹ, mẹ đi thì nó ôm bố nhưng nó cảm thấy buồn, tự nhiên nó chảy nước mắt thì mình cũng chảy nước mắt theo. Cái đấy là thực tế mà mình không thể khắc phục.” (trích Thảo luận nhóm nam có vợ đi XKLĐ tại Đông Tân 4-2010). Sự đứt đoạn trong quan hệ vợ chồng tạo ra nguy cơ gia đình “không bền vững”. Thời gian sống xa cách có thể là nguyên nhân dẫn đến vợ chồng không hiểu nhau gây rạn nứt trong hôn nhân. Qua kết quả nghiên cứu, có đến gần 70% những người chồng có vợ đi XKLĐ luôn có cảm giác buồn nhớ xen lẫn những lo lắng, những lo lắng này có nhiều nguyên nhân khác nhau và chung quy lại là do khoảng cách sống xa nhau. “Trên sân bay Nội Bài, khi vợ đi vào trong rồi, qua cửa soát vé rồi giơ tay vẫy chào, khi lên xe ngồi thì toàn đàn ông, chả ông nào nói chuyện với ông nào, đến một quán nào đó tự nhiên tất cả đàn ông chúc tụng nhau mấy cốc bia là lủi thủi về mỗi anh đi một hướng. Đấy là kỷ niệm buồn nhất.” (Trích thảo luận nhóm nam giới ở xã Đông Tân). Đó cũng có thể là tâm trạng bất an của những người trong gia đình khi có người lao động đi làm việc ở xa nhà: lo lắng cho sức khỏe và sự an toàn của người 174 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 thân... Số người trả lời có cảm giác nghi ngờ, lo sợ vợ không chung thủy chiếm tỷ lệ nhỏ (5,3%). Bởi trên thực tế, người dân ở đây có quan niệm rằng, trường hợp có quan hệ ngoài hôn nhân chủ yếu rơi vào những ông chồng cho dù ở nhà hay đi xuất khẩu lao động, số phụ nữ có những quan Gia đình chị Nguyễn Thị B, Quận H.A, HP đã xảy ra kịch chiến giữa hai vợ chồng. Chị B bức xúc: hàng ngày tôi phải nai lưng làm việc kiếm tiền gửi về nuôi cả GĐ 4-5 miệng ăn. Vậy mà chồng không thương, phụ bạc để đi với người khác, thử hỏi làm sao mà không uất ức. Chúng tôi quyết định sống ly thân rồi (dẫn theo Lê Ngọc Hùng, : LĐVN đi làm việc ở nước ngoài: tác động KT-XH và một số vấn đề đặt ra. Hội thảo chuyên gia, UB các vấn đề xã hội của quốc hội, 25/8/2010) hệ “ngoài luồng” không phải không có nhưng chiếm tỷ lệ không cao. Tuy nhiên, có gần 50% các hộ gia đình được phỏng vấn cho rằng khi đi di cư một mình không cùng gia đình, quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo hơn. Một lãnh đạo xã ở Hưng Yên, không khỏi ngậm ngùi khi nói đến một số khía cạnh trái chiều của xuất khẩu lao động: “Một số cặp vợ chồng sau khi đi XKLĐ về thì hạnh phúc gia đình bị chia rẽ. Có bà bỏ con đi lúc 8 tháng, đi 5-6 năm về thì ruồng rẫy chồng con. Chúng tôi đã can gián nhiều vụ nhưng không thể giải quyết nổi, họ vẫn ly hôn…”42. Mâu thuẫn gia đình gia tăng trong việc quản lý và chi tiêu tiền gửi. Mâu thuẫn gia đình gia tăng cũng là một hiện tượng đã từng nảy sinh trong một số gia đình. Kết quả đánh giá của Health brigde (2010) cho thấy có 42,7% số người được hỏi đã nói về mâu thuẫn gia đình khi gủi tiền về. Ở Đông Tân, ở một số gia đình cũng đã nảy sinh các mâu thuẫn do việc sử dụng tiền gửi. Tiền gửi về, ở một số hộ, đã bị người chồng nướng vào cờ bạc, ăn chơi mà không được dùng vào chi tiêu cho gia đình và chăn nuôi sản xuất. “Có ông chồng chi tiêu quá, ở nhà máu đánh bạc, vợ về, có bà vợ vẫn chấp nhận, không gây sự nhưng chỉ chi cho ông ăn, còn tất cả mọi cái ông tự lo hết. Không quyết toán được cho vợ.” (ý kiến thảo luận nhóm cán bộ xã Đông Tân). Cũng có những phụ nữ, do lo sợ chồng tiêu pha bài bạc, nên chỉ gửi tiền về bên ngoại cất giữ và điều này đã gây nên mâu thuẫn trong gia đình. Một số phụ nữ lại mất quyền kiểm soát tiền nong của họ vì người chồng quản lý và quyết định mọi chi tiêu. Nguy cơ cao về các bệnh lây truyền qua đường tình dục Người di cư quay về quê hương cũng có thể là nguồn lây truyền bệnh tật cho những người ở nhà. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng, tình trạng xa gia đình và cô đơn do di cư 42 Xuất khẩu lao động- Hạnh phúc mong manh. Web http://vocnews.vn, cập nhật 4/8/2010 175 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 thường khiến người di cư tìm đến dịch vụ mại dâm hay các mối quan hệ tình dục ngoài hôn nhân (Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008. tr.132). 5. Một số vấn đề cần quan tâm Những khía cạnh tích cực và tiêu cực gắn liền với việc phụ nữ Việt Nam đi lao động ở nước ngoài được phân tích ở trên đã xác nhận những phát hiện từ các nghiên cứu quốc tế. Do nhiều lý do khác nhau ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia lao động ở nước ngoài, vượt qua những khuôn mẫu truyền thống về di cư. Sự tham gia ngày càng tăng của phụ nữ trong lực lượng lao động ở nước ngoài đã góp phần đáng kể làm tăng nguồn lực quốc gia và các địa phương, và trực tiếp là tăng thu nhập cho hộ gia đình của chính họ, từ đó tạo điều kiện cho cuộc sống vật chất và tinh thần của họ và gia đình tốt đẹp hơn. Hơn thế nữa, cùng với những đóng góp tăng lên của phụ nữ, vị thế của phụ nữ trong đời sống gia đình và xã hội được nâng cao. Tuy nhiên, một số kết quả nghiên cứu bước đầu cũng cho thấy còn nhiều khía cạnh tiêu cực có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động nữ. Những khía cạnh này biểu hiện cả trong giai đoạn trước khi đi xuất khẩu lao động, trong quá trình lao động ở nước ngoài, cũng như sau khi đi lao động xuất khẩu về. Điều đó có những ảnh hưởng không tốt đến đời sống gia đình của những người lao động nữ, khiến cho những kỳ vọng tốt đẹp về xuất khẩu lao động đối với lao động nữ không trọn vẹn. Để góp phần phát huy giá trị tích cực của xuất khẩu lao động nữ và hạn chế những tác động tiêu cực của nó, có một số vấn đề sau cần quan tâm: 1. Có những hoạt động truyền thông nâng cao hiểu biết cho người dân về luật pháp, trước hết là các thủ tục pháp lý liên quan đến quá trình đi xuất khẩu lao động. 2. Các cơ quan quản lý nhà nước về lao động cần kiểm soát chặt chẽ các công ty LĐXK khi cấp phép tuyển dụng và sau khi cấp phép. Cần thông báo rộng rãi cho các địa phương về tư cách pháp nhân của các công ty về địa phương tuyển dụng. Thông tin trên báo chí, truyền hình, website tên các công ty lừa đảo hoặc đã bị tước giấy phép, các thủ đoạn lừa đảo. Xử lý nghiêm các công ty vi phạm hợp đồng với người lao động. Cần có sự ràng buộc liên đới trách nhiệm cả ba bên như bên cấp phép, công ty tuyển dụng và người lao động khi các doanh nghiệp được cấp phép không hoàn thành hợp đồng với người lao động. 3. Cơ quan quản lý nhà nước về lao động cần hỗ trợ NLĐXK bằng cách: Có chính sách phù hợp để có thể đào tạo tay nghề một cách thật sự, ngoại ngữ cho lao động, đặc biệt là lao động nữ trước khi sang nước ngoài; Có các chương trình, dịch vụ cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác cho lao động nói chung và lao động nữ nói riêng có nhu cầu đi xuất khẩu lao 176 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 động về phong tục tập quán, về cuộc sống , về đất nước và về chính các công việc mà lao động sẽ làm trong thời gian đi LĐNN. 4. Hỗ trợ kinh phí cho đối tượng người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo đi xuất khẩu lao động để cải thiện đời sống, giúp xóa đói, giảm nghèo hiệu quả. Các cơ quan nhà nước cần có các biện pháp giám sát hữu hiệu để loại bỏ những hiện tượng lợi dụng sự cả tin của người nghèo để lừa đảo lấy tiền của nhà nước, tùy tiện nâng mức thu và đẩy người nghèo trở thành nạn nhân và là người phải trả giá cho mình khi các hành vi sai trái bị phát hiện. 5. Có chính sách bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam ở nước ngoài nói chung và lao động nữ nói riêng một cách nhanh chóng, kịp thời. Tăng cường các hệ thống hỗ trợ pháp lý chính thức, hỗ trợ về văn bản hợp đồng, xem xét sự tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ để bảo vệ và hỗ trợ người di cư trước khi đi, trong khi đi một cách có hiệu quả nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của di cư quốc tế trong giai đoạn hiện nay.Vì hầu hết phụ nữ nông thôn đi lao động ngoài nước là làm giúp việc gia đình, nhà nước cần: Xây dựng hành lang pháp lý, đảm bảo cơ hội tiếp cận bình đẳng, có tiêu chuẩn lao động quốc tế và đảm bảo quyền lợi cho người LĐ giúp việc gia đình cả về lương bổng, lao động an toàn. Buộc các công ty khi đàm phán với bên sử dụng LĐ Việt Nam phải tuân theo các tiêu chuẩn quy định, để đảm bảo quyền của người LĐ nữ và lao động nói chung từ Việt Nam ra nước ngoài lao động. Thỏa thuận với chính phủ các nước nơi có người LĐ nữ đến làm việc giúp việc GĐ về những quy định hỗ trợ cho họ khi người sử dụng LĐ có hành vi xâm phạm thân thể, ngược đãi, lạm dụng. Nên có đường dây nóng của sứ quán VN hoặc địa chỉ hỗ trợ pháp lý cho họ ở nước sở tại- giống như chính phủ Hàn Quốc đã làm để giúp đỡ các cô dâu LCNN ở Hàn Quốc. Làm cho người LĐ nữ hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi họ khi đi XKLĐ qua việc nắm vững được các điều khoản trong hợp đồng LĐ. Cần có sự hỗ trợ tư vấn pháp luật cho Người LĐ nói chung và LĐ nữ nói riêng. 6. Đào tạo cả về ngôn ngữ, kỹ năng nghề nghiệp tối thiểu, kỹ năng sống/ tự vệ lẫn vấn đề đạo đức cho lao động nữ, đặc biệt là những người sẽ làm nghề giúp việc gia đình hay giúp việc cá nhân trước khi ra đi. Phối hợp với các công ty tuyển dụng LĐXK xây dựng các chương trình tư vấn về cả kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử trong quan hệ gia đình cho cả phụ nữ LĐXK. Điều này giúp cho phụ nữ có cách ứng xử tốt, không tạo ra tâm lý tự ti cho các ông chồng trong con mắt của người vợ và họ hàng. 177 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 7. Chính quyền địa phương và các đoàn thể, đặc biệt là Hội phụ nữ ở nơi có nhiều LĐXK nữ nên có các hoạt động “giúp đỡ nam giới” qua hoạt động cụ thể: Củng cố hệ thống nhà mẫu giáo, nhà trẻ để giảm nhẹ công việc chăm sóc trẻ em và giúp đỡ những người chồng có vợ đi XKLĐ. Tạo điều kiện để nam giới có vợ đi XKLĐ trao đổi các kinh nghiệm chăm sóc, nuôi dạy con, để họ có cơ hội giãi bày tâm tư về trách nhiệm của người cha với gia đình và với con cái. 8. Chính quyền/ đoàn thể ở địa phương cần nắm bắt, tháo gỡ các mâu thuẫn gia đình khi phát hiện những xung đột có thể bắt nguồn từ những vấn đề liên quan đến chi tiêu, quan điểm sống khi phụ nữ đi LĐXK trở về. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo của đoàn giám sát của Quốc Hội trình bày trước UBTV Quốc Hội ngày 3-9-2010 Caifang, 1998. Economic reasons for migration: the organization of the labor force and the selection of jobs. Magazine ” Social sciences in China”, No 1/1998. Castles, Stephen, 2000. International migration at the beginning of the twenty –first century: global trends and issues, UNESCO, 2000 Chant, S. and Radcliffe, S. 1992. Migration and development: the importance of gender/ in Chant (Ed) Gender and migration in developing countries. Belhaven Press. London and NewYork. Cục quản lý lao động ngoài nước, 2006. Vấn đề bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của lao động Việt Nam đang làm việc tại nước ngoài. Thực trạng và giải pháp, Bộ Lao động – Thưong binh và Xã hội. Đặng Nguyên Anh và cộng sự, 2010. Development on move. Vietnam country Report. Đặng Nguyên Anh, 2008. Labour Migration from Việt Nam: Issues of Policy and Practice, ILO. Danièle Bélanger, Lê Bạch Dương và cộng sự, 2009. Lao động di cư từ Việt Nam đến các nước châu Á 2000-2009: quá trình, trải nghiệm và tác động Davin, Delia 1999. Internal migration in contemporary China. St Martin’s Press, NewYork. FAO, 1995. Modules on gender, population and rural development with a focus on land tenure and farming. Feng Xiao Shuang, 2000. Costs and benefits of rural-uban migration. Report in workshop “Women in economies of transition: new directions and approaches in gender study”, Hanoi May, 2000. Health Bridge Canada, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Thái Bình, Trung ương Hội Phụ nữ, 2008. 178 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Nghiên cứu“Tác động của XKLĐ tới cuộc sống gia đình tại tỉnh Thái Bình”. Health Bridge Canada tại Việt Nam và Sở Y tế Thái Bình, 2006. Báo cáo khảo sát thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động tại Thái Bình. tháng 9 năm 2006 Hugo, Qraene J, 1993. Migran women in development countries. In exprert meeting on the feminization of internal migration, UN secretariat, New York. IMO và ESCAP, 2008. Báo cáo về thực trạng di cư quốc tế ở các nước Đông và Đông Nam Á, 2008 IOM, 2008. International migration Report 2008. Jones, Gavin W. 1985. Further research areas on migration and development in ASEAN countries. In” Urbanization and migration in Asian development”. Hause, P & Suit, D and Ogawa, N (ed), National institute for research advancement TOKYO. Kannika, 2008. Situation and Trends of Vietnamese Labor Export. Lê Bạch Dương, Khuất Thu Hồng, 2008. Di dân và Bảo trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường. Nxb Thế giới, Hà nội Lê Ngọc Hùng 2010 : LĐVN đi làm việc ở nước ngoài: tác động KT-XH và một số vấn đề đặt ra. Hội thảo chuyên gia, UB các vấn đề xã hội của quốc hội, 25/8/2010) Li Tana, 1996. Peasants on the move: Rural –Urban migration in the Hanoi Region, Institute of Southest Asian Stidies, 1996. Nguyễn Kim Hà, 1999. Rural women’s migration to Hanoi Vietnam. Graduate thesis of master program, AIT Thailand. Tài liệu lưu tại thư viện IFGS. Nguyễn Nguyên Như Trang. 1999. “Thực trạng công nhân Việt Nam lao động hợp tác tại Hàn Quốc”, Nhà xuất bản Trẻ, Care Việt Nam. Nguyễn thị Hồng Bích, 2007, “Xuất khẩu Lao động của một số nước Đông Nam Á, Kinh nghiệm và bài học”, nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội. Phạm Thanh 2010: Bắc Giang: gần 10% dân số đi XKLĐ, báo dân trí, 12/08/2010. Phan Lương Cừ, 2010. Luật về Người lao động VN đi LV ở nước ngoài và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện luật. Hội thảo tọa đàm chuyên gia, UB các vấn đề xã hội của Quốc Hội 8/2010. United Nations, 1993. Expert meeting on the feminization of internal migration, UN Secretariat, New York. Văn kiện Đại hội Đảng CSVN, đại hội VI 1986. 179 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Bất cân xứng thông tin trong xuất khẩu lao động ở Việt Nam thông qua cách tiếp cận giới Ths. Dương Hiền Hạnh – ĐH Thủ Dầu Một Trần Thị Hằng, HVCH - Chương trình Fullbright Abstract In international economic integration trends, labor exporting has been very necessary to developing nations and special in Vietnam. Governments have been distributed labor forces effectively by labor export policies. And it also develops economic and social situation. Recent years, the number of workers who have been working at oversea seem increasing, and female wokers accounted 30 percent. The contribution from women in labor exporting market is being encouraged and it impacted on the economic and social development of Vietnam. Both male and female Labors seem very difficulty in connect with the formal information of exporting market chanel. So they had made a decision with fully risks. Base on the qualitative research method and using “Asymmetric Information” theory company with gender approach, the finding presented that the “opposite choice” and “risks in virtuous section” are the “ Asymmetric Information” impact in the labor exporting section. Keywrods: labour export, Asymmetric information, labour export policy, gender 180 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc xuất khẩu lao động là việc rất cần thiết đối với các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Xuất khẩu lao động giúp nhà nước phân phối nguồn lao động một cách hiệu quả, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam là một trong những quốc gia quan tâm đến xuất khẩu lao động từ những thập niên 1980, và từ thập niên 2000 trở lại đây định hướng xuất khẩu lao động của Việt Nam đã và đang được đẩy mạnh hơn nữa. Tuy nhiên chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, trong đó hiện tượng bất cân xứng thông tin còn phổ biến dẫn đến hệ quả lựa chọn ngược và nhiều rủi ro cho người lao động, đặc biệt đối với phụ nữ, đối tượng dễ bị tổn thương. Vì những lý do trên nên nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu chủ đề “Bất cân xứng thông tin trong xuất khẩu lao động ở Việt Nam thông qua cách tiếp cận giới”. Trong bài nghiên cứu này chúng tôi sẽ tập trung tìm câu trả lời cho các câu hỏi sau: thực trạng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam hiện nay ra sao? những rủi ro lao động nữ có thể gặp khi đi làm việc ở nước ngoài là gì? bất cân xứng thông tin trên thị trường lao động ra sao và nhà nước cần có chính sách gì giúp giảm thiểu tình trạng bất cân xứng thông tin? Bất cân xứng thông tin và những hệ quả do bất cân xứng thông tin Ý tưởng về thông tin bất cân xứng được chuẩn hóa bởi 3 nhà kinh tế George Akerlof, Michael Spence, và Joseph Stigliz đoạt giải Nobel kinh tế năm 2000. Bất cân xứng thông tin(asymmetric information) hay thông tin không hoàn hảo,(imperfect information) là hiện tượng một hay nhiều người tham gia thị trường không có đầy đủ thông tin để ra quyết định khiến giao dịch diễn ra không ở trạng thái tối ưu và gây nên những tổn thất phúc lợi cho xã hội. Trong nhiều giao dịch kinh tế, có hiện tượng một số người có đầy đủ thông tin hơn những người khác. Và sự thuận lợi hay thiệt thòi về thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến lựa chọn của họ. Trong xuất khẩu lao động, bất cân xứng thông tin có thể xảy ra giữa người lao động và doanh nghiệp môi giới, hay đơn vị tuyển dụng. Bất cân xứng thông tin cũng có xảy ra giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý, hay các đơn vị triển khai, thực hiện chính sách. Thông tin bất cân xứng có thể dẫn đến 3 hệ quả sau: Lựa chọn ngược: vì thông tin về chất lượng sản phẩm hay những điều kiện đảm bảo an toàn không như nhau giữa các bên nên quyết định rủi ro được chọn thay vì quyết định an toàn, hàng hóa kém chất lượng được mua thay vì hàng chất lượng tốt...Trên thị trường xuất khẩu lao động, lựa chọn ngược được biểu hiện qua việc thay vì chọn làm việc trong nước, quen với môi trường văn hóa, không khác biệt về ngôn ngữ... một số người lao động chọn đi làm việc 181 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 trong điều kiện bất định khi không thành thạo về ngôn ngữ, không biết rõ về môi trường văn hóa và môi trường làm việc mới. Thông tin công ty môi giới cung cấp khiến người lao động hình dung ra trước mắt mình một viễn cảnh hứa hẹn nhiều triển vọng, nhưng thực tế có nhiều khác biệt. Tâm lý ỷ lại hay còn gọi là rủi ro đạo đức: do hành vi không quan sát được vì bất cân xứng thông tin, một bên có xu hướng gian dối, không trung thực hay biểu hiện những hành vi không như đã cam kết. Rủi ro đạo đức xảy ra khi một cá nhân hay một tập thể không chịu toàn bộ trách nhiệm hay hậu quả cho việc làm của mình, và làm cho người khác phải chịu một phần trách nhiệm hay hậu quả. Trên thị trường xuất khẩu lao động rủi ro đạo đức biểu hiện khi doanh nghiệp xuất khẩu lao động nhận tiền phí môi giới của người lao động, nhưng không cung cấp thông tin trung thực về công việc người lao động sẽ làm tại nước nhập cư. Công ty môi giới cũng không có trụ sở đại diện tại nước nhập cư theo luật định. Điều đó khiến người lao động tốn nhiều chi phí và không nhận được mức lương, công việc như kỳ vọng. Hiện tượng người ủy quyền và người thừa hành: một bên (người ủy quyền) tuyển dụng một bên khác (người thừa hành) để thực hiện những mục tiêu nhất định. Tuy nhiên người thừa hành theo đuổi mục tiêu khác với người ủy quyền nhưng do bất cân xứng thông tin nên làm cho người ủy quyền khó cưỡng chế thi hành, đánh giá hay khuyến khích công việc. Thực tế bất cân xứng thông tin là một dạng thất bại của thị trường và sự can thiệp của nhà nước là rất cần thiết. Nhà nước có khả năng hạn chế hay giảm bớt sự bất cân xứng thông tin trên thị trường thông qua việc tạo ra một thể chế pháp lý hiệu quả. Tuy nhiên, tín hiệu của nhà nước có hiệu quả không, hay sự sàng lọc của nhà nước có chính xác và minh bạch hay không có thể dẫn đến những hệ quả rất khác nhau. Thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Ở góc độ vĩ mô, lao động là một trong những yếu tố nguồn lực đặc biệt và quan trọng đối với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong xu hướng hội nhập, hợp tác phát triển kinh tế ngày nay lao động có thể chuyển dịch từ quốc gia này sang quốc gia khác dưới hình thức xuất khẩu lao động ngày càng nhiều. Lợi ích của việc xuất khẩu lao động là rất lớn. Xuất khẩu lao động không chỉ đem lại nguồn ngoại tệ chuyển về nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của chính người lao động. Xuất khẩu lao động góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của cả nước xuất khẩu lẫn nước nhập khẩu. Dưới góc độ vi mô, xuất khẩu lao động trước hết ảnh hưởng đến năng suất lao động, thu nhập, 182 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 và chất lượng cuộc sống của chính người lao động. Đồng thời cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp sử dụng lao động, và các doanh nghiệp tham gia làm cầu nối cho việc chuyển dịch lao động. Vì giá trị kinh tế - xã hội mà xuất khẩu lao động đem lại rất lớn ở cả tầm vĩ mô và vi mô cho nên từ những thập niên 1980, Việt Nam đã sớm quan tâm đến công tác xuất khẩu lao động. Việt Nam là một nước có dân số đông, cơ cấu dân số trẻ, cầu việc làm nhiều trong khi sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước không hấp thu hết cung lao động, cho nên xuất khẩu lao động được xem như một phương cách giúp tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài giai đoạn 1980-1990 80000 70000 60000 50000 Số lượng lao động 40000 30000 20000 10000 0 (Nguồn: Tổng kết 10 năm hợp tác quốc tế về lao động 1980-1990, Bộ LĐ, TB và XH) Năm 1987, một năm sau khi Việt Nam đổi mới mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tăng mạnh. Giai đoạn từ 1980-1990, Việt Nam đã đưa được 269.078 người đi làm việc tại nước ngoài, đa phần là tại các nước Xã hội chủ nghĩa. Trong đó chỉ riêng ba năm từ năm 1987-1989 Việt Nam đã đưa được khoảng 180.565 người đi làm việc ở nước ngoài. Trong những năm từ 1990-1992 do các nước Xã hội chủ nghĩa không còn các chính sách hỗ trợ lao động Việt Nam đi tu nghiệp như trước đây nên số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài giảm mạnh do chính sách thay đổi. Số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài giai đoạn 1993-2010 183 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 100000 90000 80000 70000 60000 50000 40000 30000 20000 10000 2010 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1992 1993 0 (Sourse: International labor migration in Vietnam and the impact of receiving country’s policies, Futaba ISHIZUKA, 2013) Chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế đã giúp kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển đồng thời số người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cũng tăng dần lên từ năm 1993 cho đến năm 2010. Trong đó lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng cao nhất vào năm 2008. Trung bình giai đoạn 2001-2010 mỗi năm Việt Nam có khoảng 70.377 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Lao động xuất khẩu phân theo giới tính qua các năm 90000 80000 70000 60000 50000 40000 30000 20000 10000 0 Nữ Nam (Sourse: Situation and Trends of Vietnamese Labor Export, Kannika Angsuthanasombat) Ở Việt Nam số lượng lao động nữ đi xuất khẩu lao động có xu hướng tăng trong tổng số lao động đi xuất khẩu. Năm 1995 tỷ lệ lao động nữ đi xuất khẩu lao động của Việt Nam còn rất ít, 184 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 chỉ chiếm khoảng 5% tổng lao động đi làm việc ở nước ngoài, nhưng đến năm 2000 tỷ lệ lao động nữ đi xuất khẩu tăng lên 29%, và đến năm 2006 tỷ lệ này là 34%. Qua đó cho thấy Việt Nam càng phát triển, đóng góp của lao động nữ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng nhiều hơn. Thành tựu về mặt kinh tế Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), hiện có khoảng 500.000 người lao động (NLĐ) Việt Nam đang làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó tập trung tại một số thị trường lớn như: Malayxia (khoảng 90.000 người), Đài Loan (trên 80.000 người), Hàn Quốc (khoảng 45.000 người). Tính từ năm 2001 đến nay, bình quân mỗi năm Việt Nam đưa được khoảng trên 70.000 người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Riêng 5 năm trở lại đây, Việt Nam đưa được gần 80.000 người lao động đi mỗi năm.43 Theo Lê Hồng Huyên (2011), giai đoạn từ năm 1991- 2008, thu nhập bình quân của người lao động khoảng 300 - 350 USD/tháng, cao nhất là làm việc ở Nhật Bản, thấp nhất là làm việc tại Ma-lai-xi-a. Hàng năm lao động chuyển về nước khoảng trên 2 tỷ USD.44 Theo Phùng Quang Huy (2008) đóng góp của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chiếm khoảng 3,3% GDP.45 Rủi ro đối với lao động nữ Xuất khẩu lao động mang lại khá nhiều lợi ích cho người lao động, gia đình họ và xã hội, tuy nhiên những khó khăn, rủi ro và thách thức họ gặp phải cũng rất nhiều. Các rủi ro người lao động thường gặp như bệnh tật, bị lừa đảo, trở thành lao động bất hợp pháp, hợp đồng dở dang, mắc nợ... Khoảng giữa năm 2013, tại xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong vòng 6 tháng, cả 5 người dân trong xã đi xuất khẩu lao động tại Angola phải trở về cả 5 trong tình trạng bệnh tật và nợ ngân hàng.46 Đặc biệt đối với lao động nữ. Phụ nữ đi xuất khẩu lao động phải đối diện với rất nhiều rủi ro rình rập: ngoài phải đóng phí cao, lao động nữ còn bị ngược đãi sống trong điều kiện lao động không đảm bảo, bị lạm dụng sức khỏe và thân thể... Theo Nguyễn Thị Thanh Tâm (2011) 47 tại một số địa phương nhiều lao động nữ đã phải chi trả 60 triệu đồng khi đi lao động tại Hàn Quốc trong khi đó mức phí quy định là 699USD (14 triệu đồng). Mức phí cao không những tạo ra nhiều khó khăn cho phụ nữ và gia đình họ, mà còn tạo ra rất nhiều rủi ro. Với những 43 http://www.vietnamplus.vn/Home/Bao-dam-quan-ly-tot-lao-dong-Viet-Nam-tai-nuocngoai/20136/202082.vnplus 44 Quản lý nhà nước về di chuyển lao động Việt Nam ra nước ngoài, luận án tiến sĩ của Lê Hồng Huyên 45 Exported labour – Practice and policy issues VietNam case, Mr. Phùng Quang Huy, 2008 46 http://congannghean.vn/NewsDetails.aspx?NewsID=29252 47 http://www.tinmoi.vn/lao-dong-nu-di-xuat-khau-doi-mat-nhieu-rui-ro-01702162.html 185 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 trường hợp vay nợ nhưng không đi được hoặc phải về nước trước thời hạn thì họ sẽ trở thành các “con nợ”, và khả năng tiếp cận các nguồn lực để tạo việc làm và thu nhập ổn định giúp họ thoát nghèo trở nên khó khăn hơn. Nguy hiểm hơn nữa, lao động nữ có thể bị bán vào nhà chứa. Điển hình như trường hợp của chị NTL ở Ba Vì-Hà Nội48, chị được đưa đi để giúp việc tại Ả rập Xê út nhưng bị bán vào nhà chứa, do đã quá tuổi nên chị thường xuyên bị đánh đập, rất may chị được một cán bộ ngoại giao cứu khỏi nơi giam cầm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những rủi ro đáng tiếc cho người lao động Việt Nam nói chung và lao động nữ nói riêng khi đi xuất khẩu lao động, song một nguyên nhân phổ biến trong rất nhiều trường hợp đó là do bất cân xứng thông tin dẫn đến rủi ro đạo đức và lựa chọn ngược. Vì thiếu thông tin hay thông tin không chính xác nên nhiều lao động nữ phải trả chi phí rất cao để đi xuất khẩu lao động, họ thường không biết rõ về các quy định của pháp luật, không biết rõ các cam kết của bên môi giới và công ty tuyển dụng dẫn đến lựa chọn ngược. Hiện nay bất cân xứng thông tin vẫn xảy ra trong nhiều mối tương quan trong giao dịch trực tiếp và trong công tác quản lý xuất khẩu lao động như: Bất cân xứng thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước (người ủy quyền) với những người thừa hành, giữa cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp đưa người đi xuất khẩu lao động, giữa người lao động và công ty môi giới, giữa công ty tiếp nhận với người lao động. Bất cân xứng thông tin trong việc thực thi chính sách của Nhà nước Chính vì những lợi ích kinh tế - xã hội mà việc xuất khẩu lao động đem lại khá rõ ràng nên những năm gần đây nhà nước đã có những chính sách nhằm tạo điều kiện và khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Cách riêng đối với những huyện nghèo, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/04/2009 về Quyết định phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020. Đây được xem là một trong những phương cách góp phần xóa đói giảm nghèo cho 62 huyện nghèo trong cả nước. Thực tế 4 năm qua mà số lao động đưa đi chỉ đạt 20% , trong đó tỉ lệ bỏ đào tạo và bỏ xuất cảnh lên tới gần 40%.49 Thực tế tại nhiều địa phương, người dân không mặn mà với chính sách trên do truyền đạt thông tin về chính sách còn hạn chế. Thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước đến người dân còn ít, chủ yếu người dân phải tự kiểm định thông tin nên rủi ro đặt ra đối với người dân còn rất cao. Vì bản thân người nghèo là người giới hạn về khả năng tiếp cận thông tin và http://vieclamdaklak.net/detail_xkld.php?id=2367 http://laodong.com.vn/Viec-lam/XKLD-theo-Quyet-dinh-71-Nhieu-lao-dong-bo-cuoc-giuachung/109820.bld 48 49 186 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 nguồn lực. Tại tỉnh Quảng Bình, toàn tỉnh có 6 huyện và thành phố Đồng Hới nhưng chỉ có huyện Bố Trạch và thành phố Đồng Hới có số người nghèo đi xuất khẩu lao động đạt chỉ tiêu đã đặt ra, còn 5 huyện khác người dân không mặn mà, huyện Minh Hóa trong năm 2012 chỉ có 5 người thuộc hộ nghèo đi xuất khẩu lao động.50 Tồn tại hiện trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân người dân thiếu thông tin, có hiện tượng bất cân xứng thông tin giữa người ủy quyền và người thừa hành. Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài theo quyết định 470/QĐ-LĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, quyết định 71/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ chưa được các cấp các ngành quan tâm đúng mức. Một số địa phương báo cáo số liệu chưa chặt chẽ, còn thiếu chính xác dẫn đến công tác tổng hợp, phân tích và hoạch định chính sách của cấp trên chưa sát thực và thiếu hiệu quả. Chính vì việc hoạch định, phổ biến thông tin về chính sách còn hạn chế nên cơ quan nhà nước chưa là nơi cung cấp thông tin đầy đủ cho người lao động. Theo Nguyễn Tiến Dũng (2010), nhà nước rất muốn mở rộng thị trường, nhất là những thị trường thu nhập cao và ổn định nhưng nhà nước lại thiếu thông tin thị trường đáng tin cậy để có những định hướng cụ thể, chính sách hợp lý. Cách riêng đối với lao động nữ, mặc dù lượng nữ lao động đi làm việc ở nước ngoài khá nhiều, chiếm trên 30% tổng lao động nhưng chính sách của nhà nước chưa giúp bảo vệ lao động nữ một cách tốt nhất. Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chưa có quy định về trách nhiệm của công đoàn. Rất nhiều lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài khi gặp trục trặc không biết tìm đến ai bảo vệ cho mình. Bất cân xứng thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp đưa người đi làm việc ở nước ngoài. Luật pháp Việt Nam cho phép thành lập các doanh nghiệp đưa người đi lao động ở nước ngoài với điều kiện các doanh nghiệp này đáp ứng các yêu cầu luật định, được cấp phép. Theo Cục quản lý lao động nước ngoài đến nay Việt Nam có 170 doanh nghiệp đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài được cấp phép. Tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp yếu kém, không chấp hành đúng các quy định của nhà nước. Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân quan trọng liên quan đến vai trò của cơ quan quản lý nhà nước. Theo ông Phạm Đỗ Nhật, Phó chủ tịch hiệp hội 50 http://www.baoquangbinh.vn/xa-hoi-doi-song/201305/Xuat-khau-lao-dong-va-giaiphap-thao-go-kho-khan-2106763/ 187 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 xuất khẩu lao động Việt Nam, những bất cập trong công tác quản lý, bảo vệ người lao động làm việc ở nước ngoài một phần do cơ quan quản lý xử lý các sai phạm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chưa nghiêm, dẫn đến “vàng thau lẫn lộn”, có “đất” để các tổ chức trục lợi, lừa đảo người lao động.51 Như vậy chính cơ quan quản lý nhà nước nắm thông tin chưa chuẩn về các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nên dẫn đến hiện tượng “vàng thau lẫn lộn”, hậu quả là đẩy rủi ro về phía người lao động. Các phát hiện của Đoàn giám sát của Quốc hội cũng cho thấy có doanh nghiệp tuyển dụng của Nhà nước cũng thu của người lao động tiền vé máy bay cao hơn 5 triệu đồng/người so với quy định (Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2011). Mới đây để tăng cường tính minh bạch thông tin giúp giảm thiểu rủi ro cho người lao động, ngày 24/07/2013 Cục Quản lý lao động ngoài nước đã ra mắt cổng thông tin điện tử tại địa chỉ www.dolab.gov.vn. Tại đó những thông tin về tình trạng doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực bị xử phạt, bị đình chỉ hoạt động, bị rút giấy phép sẽ được cập nhật thường xuyên nhằm giúp nâng cao trách nhiệm doanh nghiệp. Như vậy đây là một động thái rất tích cực của cơ quan nhà nước nhằm giảm thiểu bất cân xứng thông tin giữa cơ quan quản lý với doanh nghiệp, giữa người lao động với doanh nghiệp. Qua đó nhằm giúp giảm thiểu rủi ro đạo đức có thể xảy ra trong lĩnh vực này. Bất cân xứng thông tin giữa người lao động và công ty môi giới Bất cân xứng thông tin giữa người lao động và công ty môi giới là hiện tượng phổ biến ở rất nhiều trường hợp và là bất cân xứng thông tin đáng lo ngại nhất. Do chất lượng lao động thấp, ngoại ngữ kém, tiếp cận thông tin thiếu chính thức nên nhiều lao động nữ ở các vùng nông thôn Việt Nam thường không biết rõ thông tin về công ty môi giới, càng không biết về môi trường làm việc mới. Như trên chúng ta đã phân tích, về nguyên tắc kênh thông tin chính về công ty môi giới, công ty tuyển dụng lao động cần đến từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên do kênh này cũng thiếu thông tin, công tác quản lý lại chưa được chặt chẽ nên các doanh nghiệp môi giới đưa người đi lao động nước ngoài chi phối toàn bộ thông tin trên thị trường. Khảo sát mới đây về “Thực trạng và nhu cầu của nạn nhân bị buôn bán, bóc lột sức lao động trở về nước” tại ba tỉnh Hưng Yên, Hà Nam và Thái Bình gần đây của Trung tâm nghiên cứu - Ứng dụng khoa học về giới, gia đình, phụ nữ và vị thành niên (CSAGA) cho thấy: phần lớn người làm thủ tục đi xuất khẩu lao động qua “cò” và môi giới, không giao dịch trực tiếp với công ty được cấp phép. Có tới 23,5% người lao động không nhận được thông tin đầy đủ về công việc sẽ làm tại nước đến, 24,14% người lao động không biết chi phí thực tế của chuyến đi cũng 51 http://hoidoanhnhan.vn/news_detail_hdn.php?id=6932 188 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 như chi phí bồi thường, 93,56% người lao động bị lừa gạt ít nhất một lần trong quá trình làm việc ở nước ngoài. Đáng lo ngại là giấy tờ, tiền thực nộp không minh bạch. 52 Do nhiều nữ lao động không nắm rõ luật, cộng với bất cân xứng thông tin nên họ đã lựa chọn ngược. Họ phải trả mức phí cao hơn nhiều lần so với quy định nhưng thông tin họ nhận được từ các công ty môi giới về công việc, điều kiện làm việc, mức lương thường rất mập mờ và thiếu chính xác. Theo Nguyễn Thị Thanh Tâm (2011) nhiều lao động nữ khi sang nước ngoài làm việc mới biết mức lương thực tế mình được nhận bao nhiêu, người môi giới nhận bao nhiêu. Các công ty môi giới vì chạy theo lợi nhuận nên họ sử dụng mọi thủ đoạn để lôi kéo người lao động như: gian lận về chi phí đào tạo, chi phí khám sức khỏe, chi phí làm hộ chiếu và visa, vé máy bay. Thiếu thông tin về công ty môi giới hay doanh nghiệp tuyển dụng, đồng thời nữ lao động cũng thiếu thông tin về luật pháp và quyền lợi cũng như trách nhiệm của mình khi quyết định đi làm việc ở nước ngoài. Theo Thanh Vân - Phúc Hằng (TTXVN, 2013), một cán bộ của Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao từng cho biết ở A-rập-Xê-ut, lao động nữ nước ta bị chủ quỵt lương thời gian làm thêm, bị ngược đãi, đánh đập và bị đuổi khỏi nhà53. Do hạn chế ngôn ngữ họ không biết gọi cảnh sát can thiệp hoặc khi gọi cho Đại sứ quán kêu cứu nhưng lại không biết rõ địa chỉ mình đang ở đâu. Như vậy để giảm thiểu rủi ro có thể đến đối với lao động nói chung, lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài nói riêng, cần tối thiểu hiện tượng bất cân xứng thông tin đang tồn tại. Để qua đó nữ lao động biết sàng lọc thông tin và có những lựa chọn ít rủi ro, biết tự bảo vệ mình khi gặp bất trắc. Bất cân xứng thông tin giữa đơn vị tiếp nhận lao động với người lao động Bất cân xứng thông tin có thể ở phía người lao động nhưng cũng có thể ở phía đơn vị tuyển dụng lao động. Bất cân xứng thông tin ở phía nào trong giao dịch cũng đều gây ra những tổn thất phúc lợi vô ích. Khi những người lao động Việt Nam được tuyển nhưng không đáp ứng được nhu cầu công việc, về nước trước thời hạn sẽ gây ra những tổn thất cho đơn vị tuyển dụng lao động ở nước ngoài. Theo Thanh Vân - Phúc Hằng (TTXVN, 2013), nhiều chủ lao động ở Malaysia phàn nàn về ý thức kỷ luật của người lao động ở vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Kết luận 52 http://vieclamdaklak.net/detail_xkld.php?id=2367 http://www.vietnamplus.vn/Home/Bao-dam-quan-ly-tot-lao-dong-Viet-Nam-tai-nuocngoai/20136/202082.vnplus 53 189 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Từ những phân tích trên chúng ta nhận thấy số lượng nữ lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ngày càng nhiều, đóng góp của họ đối với sự phát triển của xã hội cũng ngày càng lớn. Tuy nhiên rất nhiều rủi ro, bất trắc có thể xảy đến với họ do họ tiếp cận thông tin không đầy đủ hay không tin không chính xác. Hệ quả là lựa chọn ngược, nhiều người muốn đi xuất khẩu lao động để thoát nghèo nhưng kết cục lại trở nên nghèo hơn, mắc nợ, trở thành lao động bất hợp pháp, mang thương tật...Bên cạnh đó, do nhà nước chưa làm tốt chức năng truyền thông cho người dân và chưa quản lý nghiêm minh các doanh nghiệp môi giới đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài nên rủi ro đạo đức do bất cân xứng thông tin còn phổ biến. Khuyến nghị chính sách Từ thực tế trên cho thấy việc giảm thiểu bất cân xứng thông tin là rất cần thiết để không gây ra các tổn thất cho xã hội, không gây tổn thất cho lao động nữ và gia đình họ. Để làm được điều đó thiết nghĩ cần: Thứ nhất, chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài theo quyết định 470/QĐ-LĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, quyết định 71/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cần sát với thực tế hơn. Trước khi đưa lao động nghèo đi làm việc ở nước ngoài cơ quan chức năng cần có thông tin đa chiều, chính xác về nhu cầu của người lao động, nhu cầu thị trường. Cơ quan hữu quan cũng nên giúp người lao động có sự chuẩn bị tốt nhất, nhằm giảm thiểu tình trạng không thích ứng giữa cung và cầu lao động do bất cân xứng thông tin gây ra. Thứ hai, nhà nước nên làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, hỗ trợ thủ tục pháp lý liên quan đến xuất khẩu lao động để người dân dễ dàng tiếp cận nguồn thông tin chính thống, đáng tin cậy. Bên cạnh đó cơ quan chức trách cần kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động môi giới, tuyển dụng đưa người đi xuất khẩu lao động. Có biện pháp chế tài đủ mạnh đối với các doanh nghiệp không tuân thủ đúng quy định của nhà nước. Việc ra mắt cổng thông tin điện tử tại địa chỉ www.dolab.gov.vn mới đây của Cục Quản lý lao động ngoài nước là động thái rất tích cực, song cần phổ biến thông tin này ở các địa phương, nhất là tại những huyện nghèo để người dân tự nhận biết công ty nào hoạt động tốt, đáng tin cậy, công ty nào bị tước giấy phép, lừa đảo. Thứ ba, chính người lao động cần chủ động nên lựa chọn các kênh thông tin chính thức khi quyết định đi làm việc ở nước ngoài, chủ động tìm hiểu về doanh nghiệp xuất khẩu lao động và những quyền lợi hợp pháp của mình khi đi làm việc ở nước ngoài, chủ động chuẩn bị cho mình ngoại ngữ và những kiến thức, kỹ năng cần thiết để thích ứng tốt hơn. Thứ tư, để bảo vệ lao động Việt Nam nói chung, lao động nữ nói riêng Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo Hợp đồng phải có quy định quyền và trách nhiệm 190 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 của Công đoàn. Tài liệu tham khảo International labor migration in Vietnam and the impact of receiving country’s policies, Futaba ISHIZUKA, 2013 Export labour – practice and policy issues Vietnamese case, Mr. Phùng Quang Huy, 20072008 Situation and Trends of Vietnamese Labor Export, Kannika Angsuthanasombat, 2007 Kinh tế học vi mô, Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubinfeld Ghi chú bài giảng 5 Thông tin bất cân xứng, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Chính sách quản lý lao động nước ngoài của Singapore và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Bùi Thanh Tùng, 2012. Tác động của di chuyển lao động quốc tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Lê Hồng Huyên. Quản lý nhà nước về di chuyển lao động Việt nam ra làm việc ở nước ngoài, luận án tiến dĩ của Lê Hồng Huyên. Phát triển xuất khẩu lao động Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, luận án tiến sĩ của Nguyễn Tiến Dũng. Quyết định 71/2009/QĐ-TTg Phê duyệt đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Một số bài viết về chủ đề trên một số website. 191 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Tiêu chuẩn lao động quốc tế về bảo vệ người lao động di cư Bà Nguyễn Thị Mai Thủy Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) Abstract Migration, especially migration for the purpose of employment across the countries is increasing over the past decade. It is estimated that in the year 2010, there were 214 million people living in the other countries than their countries of birth and migrant workers account for 105 million. This number is double the number of the year 2001.There were 30 million migrant workers in the Asia-Pacific region, largely comprises of “low skill” temporary labour migration. Labour migration is an established feature of several economies in the region, and will continue to grow in the future due to demographic evolution, labour shortages, economic disparities.While labour migration generates substantial benefits, abuses during recruitment and employment are quite common in low skill occupations and have been well documented. Irregular migration is high. International standards are essential to provide a framework for cooperation between States at either end of the migration process, and for national legislation, policy and practice. Standards provide principles and guidelines for the governance of migration, protect migrant workers and safeguard States’ interests.The United Nationsand the International Labour Organization have adopted several standards specifically aimed at protecting international migrant workers’ rights.The two specific ILO Conventions on labour migration that together provide a basic framework for national legislation andpractice on managing labour migration. Together with the UN International Convention on theProtection of the Rights of All Migrant Workers and Members of Their Families (1990), the above-mentioned ILO Conventions provide a comprehensive “values-based” definition and legal basis for national policy andpractice regarding migrant workers and their family members.In addition to the conventions specifically on labour migration, there are eight core ILO conventions that are regarded as basic human rights and other conventions. The presentation provides an update on the rights of migrant workers as laid down in international labour standards for use by policymakers and migration practitioners with a view to facilitate the design and implementation of appropriate policies and practical measures for matching labour market needs with the internationally agreed rights of migrant workers. 192 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 1. Di cư lao động tại Châu Á Trên thế giới có khoảng 214 triệu lao động di cư (UNDESA), chiếm 3% dân số toàn câu; tại Châu Á, phần lớn lao động di cư là lao động “tay nghề thấp”, các nước Ả rập vùng Vịnh và Malaysia là nước tiếp nhận chính lao động di cư từ Nam Á, đối với Đông Nam Á, ngoài 2 nước trên còn có Thái Lan, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc). Ấn Độ và Philippine cũng là những nước cung ứng lao động tay nghề cao./ Dữ liệu về di cư lao động EU - Ấn Độ chỉ ra rẳng có 103.000 trong số 563.000 lao động di cư là lao động tay nghề cao. Lao động nữ giúp việc gia đình chủ yếu là các quốc gia: Sri Lanka, Philippines, Indonesia. Lao động di cư tạo nên đặc điểm nổi bật trong cơ cấu lao động tại một số nền kinh tế Châu Á - Lao động di cư chiếm 90% công việc thuộc lĩnh vực tư nhân ở các nước vùng vịnh - Lao động di cư chiếm 32% tổng số lao động trong lĩnh vực sản xuất chế tạo, xây dựng và nông nghiệp ở Malaysia . - Trên 60% lao động làm việc trong lĩnh vực thương mại thủy sản ở Thái Lan là người lao động di cư Lao động di cư trong khu vực được cho là sẽ tiếp tục xu hướng phát triển, tương đối thiếu lao động, chênh lệch về kinh tế. Trong khi lao động di cư tạo ra một khối lượng lớn lợi nhuận, những vấn đề về lạm dụng trong quá trình tuyển dụng và làm việc vẫn thường xuyên diễn ra và đã được ghi nhận (ILO, International Migration Paper 108, 2011). 2. Hệ thống luật pháp quốc tế liên quan đến lao động di cư Hệ thống luật pháp quốc tế về nhân quyền; Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan đến lao động di cư; Công ước của Liên hiệp quốc về lao động di cư và gia đình của họ (1990). 2.1 Luật Nhân quyền quốc tế UDHR (Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền) ;ICPR (Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị); ICESCR (Công ước quốc tế về quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa) ; ICERD (Công ước về xoa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc); CEDAW (Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phần biệt với phụ nữ); CAT; CRC, Những công ước này, thường là được phê chuẩn rộng rãi, bảo vệ tất cả mọi người không phân biệt về quốc tịch và tình trạng hợp pháp. Một số quyền cơ bản thường bị vi phạm đối với người lao động di cư. Những quyền này được thấy ngay trong các văn kiện về quyền con người và cũng được hầu hết hiến pháp của các nước bảo vệ: xóa bỏ hình thức lao động nô lệ, xóa bỏ lao động cưỡng bức, xóa bỏ hình phạt hoặc đối xử vô nhân đạo . ILO đã lưu ý trong năm 1999, tốc độ phát triển của buôn bán lao động và “nếu không kiểm soát được sẽ trở thành một trong những hình thức chủ đạo về lạm dụng lao động di cư” trong những năm tới. 193 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Đại Hội đồng liên hợp quốc trong năm 2012 đã thông qua hai Nghị định thư về: - Buôn bán người, bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền Điều 13: Mọi người đều có quyền tự do di chuyển và cư trú trong phạm vi các biên giới một quốc gia. Mọi người đều có quyền rời khỏi một quốc gia bất kỳ, bao gồm quốc gia của người đó và có quyền quay trở lại. Điều 14: Mọi người đều có quyền tìm kiếm nơi lánh nạn khủng bố và sống ở các quốc gia khác. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền Điều 23: Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, hưởng sự bảo vệ tránh thất nghiệp. Mọi người, không phân biệt đối xử, đều có quyền được trả lương bình đẳng với công việc như nhau. Mọi người làm việc đều có quyền hưởng thù lao công bằng và thuận lợi, đảm bảo sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm con người, và được hỗ trợ, khi cần thiết, bởi các chế tài bảo trợ xã hội khác. Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia các công đoàn để bảo vệ các lợi ích của mình. 2.2 Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan đến lao động di cư Các công ước cơ bản của ILO: 8 công ước Các công ước và khuyến nghị riêng về lao động di cư của ILO: 2 công ước và 5 khuyến nghị. Các công ước và khuyến nghị có các điều khoản liên quan đến lao động di cư của ILO: 29 công ước và 9 khuyến nghị 2.2.1 Các công ước cơ bản của ILO: Tuyên bố của ILO về Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc năm 1998, 8 công ước cơ bản đề cập đến 4 vấn đề: Quyền được tự do hiệp hội và thương lượng tập thể Xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức Xóa bỏ lao động trẻ em Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp 194 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Phải được thực hiện cho dù chưa phê chuẩn công ước Kêu gọi sự chú trọng đặc biệt đến các đối tượng cần sự hỗ trợ đặc biệt trong đó có người thất nghiệp và lao động di cư 2.2.2 Các công ước cơ bản của ILO: 8 công ước (Tuyên bố của ILO về Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc, 1998) Công ước Tự do Hiệp hội và Bảo vệ quyền được tổ chức năm 1948 (số 87) Công ước về Quyền được tổ chức và Thương lượng tập thể năm 1949 (Số 98) Công ước về Lao động cưỡng bức năm 1930 (số 29) Công ước về Xóa bỏ Lao động cưỡng bức năm 1957 (Số 105) Công ước về Độ tuổi tối thiểu năm 1973 (SỐ 138) Công ước về Xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999 (Số 182) Công ước về Trả lương bình đẳng năm 1951 (Số 100) Công ước về Chống phân biệt đối xử (trong việc làm và nghề nghiệp) năm 1958 (Số 111) 2.2.3 Công ước riêng của ILO về lao động di cư: công ước 97 và 143 2 công ước và khuyến nghị Công ước di cư về việc làm (sửa đổi) năm 1949 (số 97) = 49 nước phê chuẩn Khuyến nghị về Di cư vì việc làm (Sửa đổi) năm 1949 (số 86); Công ước về Lao động di cư (điều khoản bổ sung) năm 1975 (số 143): có 23 nước phê chuẩn Khuyến nghị về lao động di cư năm 1975 (số 151) Công ước 97 và 143, là những công cụ quốc tế đầu tiên đưa ra những giải pháp tương đối toàn diện để giải quyết vấn đề mà người lao động di cư phải đối mặt. Đối xử công bằng giữa lao động di cư hợp pháp với người lao động bản địa về việc làm và điều kiện làm việc. Các biện pháp để hạn chế di cư tự do không giấy tờ cũng như đảm bảo quyền của nhóm lao động di cư này Đối tượng Là lao động nước ngoài, không phải lao động trong nước. Không bao gồm công dân nước ngoài là lao động tự doanh Đối xử bình đẳng (Công ước 97, Công ước 143); Cơ hội bình đẳng (Công ước 143) Tôn trọng các quyền con người cơ bản (Công ước số 143) Tự do hiệp hội (97) Quyền và nghĩa vụ của quốc gia Quyền chủ quyền quyết định cho phép ai nhập cảnh qua biên giới Tôn trọng quyền con người của tất cả mọi người 195 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Tôn trọng các hiệp ước quốc tế Thông qua các chính sách di cư phù hợp và bình đẳng Người lao động di cư có quyền cơ bản không phụ thuộc vào tình trạng di cư của người đó Công ước ILO số 97 Đưa ra khái niệm về người lao động di cư Đối xử bình đẳng đối với người lao động di cư hợp pháp Tiền lương (chuyển lương và tiết kiệm) Điều kiện làm việc (Thời giờ làm việc, làm thêm, ngày nghỉ) Bảo hiểm xã hội Bảo đảm tuân thủ luật pháp Quyền tham gia công đoàn Lợi ích của thương lượng tập thể Công ước ILO số 97 Các điều khoản khác: Trao đổi thông tin Dịch vụ miễn phí hỗ trợ lao động di cư vì việc làm (các tổ chức) Tiếp cận dịch vụ y tế phù hợp Chống lại việc thông tin sai lệch về di cư Không trục xuất vì thiếu việc làm Cấm quy định bắt buộc thử HIV/AIDS hoặc những bệnh truyền nhiễm khác. Hợp đồng bằng văn bản trong đó có sự mô tả về công việc Công ước ILO số 143 Áp dụng cho tất cả lao động di cư (lao động có giấy tờ và không có giấy tờ); Cơ hội bình đẳng, xóa bỏ sự phân biệt trên thực tế; Lao động di cư cần được tạo điều kiện chuyển chủ sử dụng lao động; Đoàn tụ gia đình; Hợp pháp hóa cho lao động di cư (không cụ thể nhưng là lựa chọn về chính sách) Công ước ILO số 143 Điều 1 đến điều 7 Quyền của lao động di cư có giấy tờ hợp pháp hoặc không có giấy tờ hợp pháp Xử lý các tổ chức tuyển dụng và người sử dụng lao động (không phải xử lý người lao động) Truy tố các hoạt động buôn người Tham vấn ba bên và quyền đề xuất chống lại các điều kiện làm việc mang tính chất lạm dụng Điều 8 Mất việc làm không dẫn tới trục xuất người lao động 196 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Điều 9 Bình đẳng cơ hội trong tuyển dụng, dịch chuyển việc làm, đào tạo Điều 10 Áp dụng bảo hiểm xã hội, công đoàn và quyền tham gia các hoạt động văn hóa Điều 13 Thúc đẩy sự đoàn tụ gia đình của lao động di cư 2.2.3 Các Công ước khác có liên quan của ILO Công ước về An toàn và Sức khỏe trong ngành Nông nghiệp năm 2001 (số 184) Công ước về Các tổ chức Việc làm tư nhân năm 1997 (số 181) Công ước về Bảo đảm tiền lương năm 1949 (số 95) Công ước về Điều kiện làm việc (trong ngành Khách sạn và Nhà hàng) năm 1991 (số 172) Công ước về Thanh tra lao động năm 1947 (số 81) Công ước về lao động đồn điền năm 1958 (số 110) Công ước về Bình đẳng trong đối xử (Bảo hiểm xã hội) năm 1962 (số 118) Công ước về việc Duy trì quyền bảo hiểm xã hội năm 1982 (số 157) Công ước về Chính sách việc làm năm 1964 (số 122) Công ước về việc xác định mức lương tối thiểu năm 1970 (số 131) Công ước về An toàn và Sức khỏe nghề nghiệp năm 1981 (số 155) Công ước về Dịch vụ sức khỏe nghề nghiệp năm 1985 (số 161) Công ước về An toàn và Sức khỏe trong ngành Xây dựng năm 1988 (số 167) Các công ước khác 2.3 Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền của Lao động di cư Bảo vệ quyền của tất cả lao động di cư và gia đình họ Một phần dựa trên các Công ước của ILO (Nếu phê chuẩn) Công ước: Bảo vệ lao động di cư khỏi nạn bóc lột bảo đảm quyền của người lao động được đại diện tại tổ chức công đoàn Bảo đảm tự do trong diễn đạt ý kiến và tham gia chính trị Phê chuẩn các văn kiện quốc tế tại Đông Nam Á 197 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Phê chuẩn các văn kiện quốc tế tại Đông Nam Á BRUN CAMB. LAOS INDO. MALAY. MYAN. PHIL. C97 2009 C143 2006 SING. THAI. VIET. C181 UN MWC 2004(s) 2004(s) Palermo 2007 2009 C29 1969 1950 C87 1999 1998 C98 1999 1957 C100 1999 1958 C105 1999 1999 C111 1999 1999 2008 C138 1999 1999 2005 1997 1998 2005 2004 2003 2006 2000 2005 2000 2000 2001 2001 2000 C182 2008 1995(a) 2003(a) 2009(a) 2004(a) 1964 2008 198 1957 2002 1955 2005 1955 1953 2001(s) 1965 1969 2007 1997 1961 1953 1965 1997 1953 2002 1999 1958(d) 1960 1965(d) 1969 1960 1997 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Tăng cường pháp luật và chính sách ở Việt Nam về đi lao động nước ngoài Ông Vũ Ngọc Bình Cố vấn cấp cao Viện Dân số, Gia đình và Trẻ em Abstract This paper outlines the socio-economic context of labour migration and it examines the past and current national laws, policies and practice related to overseas labour migration commenting on the implications for women and gender equality and comparing the legal framework with evidence from implementation and women migrants’ experiences. The analysis of the national legislation and policies related to Vietnamese international women migrant workers draws upon the framework of human rights provided by international standards and treaties, including the Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination Against Women (CEDAW), the CEDAW committee general recommendation on women migrants, and international labour standards. The paper sets out recommendations proposed by the author for empowerment and better protection of the human rights of Vietnamese women migrant workers who are toiling in other countries for their families and their country. Lastly, an overview of the current technical assistance programmes of international agencies in the field of labour migration is provided, identifying a number of opportunities for collaboration between Viet Nam and various donors, including UN agencies. 199 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 1. Pháp luật và chính sách Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách đưa người đi lao động nước ngoài từ năm 1980. Trong thời kỳ từ 1980-1990, hợp tác lao động và chuyên gia chủ yếu thông qua các hiệp định chính phủ với các nước thuộc Liên Xô (cũ), một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu theo hình thức cung cấp lao động vào làm việc ở các nhà máy, công trường, nông trường ở các nước này và một số nước ở châu Phi, Trung Đông trong các lĩnh vực khoán xây dựng công trình, y tế, giáo dục....Trong giai đoạn này, hợp tác lao động được thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước do các cơ quan Nhà nước tổ chức thực hiện. Tuy nhiên trong năm 1989, có nhiều biến động chính trị lớn xảy ra tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và khủng hoảng kinh tế, chính trị tại nhiều nước châu Phi, đã dẫn đến việc phần lớn các nước này không còn nhu cầu nhận lao động từ Việt Nam. Sau khi nước Đức tái thống nhất vào năm 1990, những công nhân chưa hết hợp đồng được đền bù để trở về nước. Trong giai đoạn này đã có những quyết định, nghị quyết, nghị định, chỉ thị như Quyết định số 46/QĐ-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 11-12-1980, Nghị quyết số 362/NQ-CP ngày 29-11-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc hợp tác sử dụng lao động với các nước xã hội chủ nghĩa…Chính phủ đã ban hành ngày 9-11-1991 Nghị định 370-HĐBT về quy chế đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, cho phép các tổ chức kinh tế được thành lập và cấp giấy hoạt động xuất khẩu lao động. Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế thị trường có định hướng của Nhà nước. Nhà nước chủ yếu làm chức năng quản lý, mở thị trường các doanh nghiệp ký kết hợp đồng cung ứng lao động cho phía nước ngoài, trực tiếp đưa và quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài, thông qua việc ban hành Bộ luật Lao động năm 1994 (Điều 134, Điều 134a, Điều 135, Điều 135a, Điều 135b, Điều 135c, Điều 166 và Điều 184). Hoạt động đưa người lao động đi lao động nước ngoài được đẩy mạnh, đặc biệt với Chỉ thị số 41-CT/ TW ngày 22-09-1998 của Bộ Chính trị đã khẳng định “cùng với giải quyết việc làm trong nước là chính thì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài”. Ngay trong phần mở đầu của Chỉ thị, xuất khẩu lao động đã được coi là “một hoạt động kinh tế-xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước”. Do xuất khẩu lao động có tầm quan trọng 200 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 như vậy nên chủ trương của Đảng là xuất khẩu lao động phải được “mở rộng và đa dạng hoá hình thức, thị trường xuất khẩu lao động, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”, đồng thời phải “phát triển và khuyến khích đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục ý thức pháp luật”... cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành bốn nghị định về đi lao động nước ngoài gồm: Nghị định số 07/1995/NĐ-CP ngày 20-01-1995 quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20-09-1999 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; Nghị định số 141/2005/NĐ-CP ngày 11-11-2005 về việc quản lý người đi làm việc ở nước ngoài; Nghị định số 08/2003/NĐ-CP ngày 10-02-2003 về hoạt động của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế. Từ vài thập kỷ qua, việc đưa người đi lao động nước ngoài đã tỏ ra là phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế-xã hội, mở rộng và phát triển thị trường lao động. Đây cũng là sự tất yếu phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng của Việt Nam, tự do hóa kinh tế, trong đó có sự tự do di chuyển của lao động trên phạm vi toàn cầu, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ năm 2007. Đưa người đi lao động nước ngoài trở thành hoạt động vừa mang tính kinh tế lại vừa mang tính xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm cho người lao động và xây dựng thương hiệu lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 500.000 lao động đang làm việc ở 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, hàng năm số lượng ngoại tệ lao động gửi về nước khoảng xấp xỉ 2 tỷ đô la Mỹ. Hàng năm có từ 70.000–80.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, chiếm khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm với nữ chiếm tỷ lệ từ 25-30%. Lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài thường làm các ngành nghề trong nhà máy, nông nghiệp, dịch vụ và giúp việc gia đình. Trong giai đoạn 2013–2015, đưa người đi lao động nước ngoài sẽ được đẩy mạnh với mục tiêu mỗi năm đưa 100.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đây là một chiến lược xóa đói 201 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 giảm nghèo cho gia đình, nâng cao thu nhập đối với nhiều cá nhân và gia đình nghèo tại Việt Nam. Thống kê cho thấy hàng năm, người lao động Việt Nam làm việc ngoài nước gửi về khoảng 1,8 đến 2 tỷ đô la Mỹ. Cùng với hoạt động đưa người đi lao động nước ngoài được đẩy mạnh, khung pháp luật và chính sách được hình thành và phát triển từ đó (xem Phụ lục 1). Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số 72/2006/QH11 do Quốc hội thông qua ngày 29-11-2006 là văn bản pháp luật chính và là văn bản pháp lý cao nhất trong hơn ba mươi năm qua điều chỉnh vấn đề người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Luật được ban hành cùng với các văn bản hướng dẫn thực hiện, trong đó quy định cụ thể quy trình cấp phép cho các công ty xuất khẩu lao động, hoạt động của các công ty xuất khẩu lao động, quyền và nghĩa vụ của công ty xuất khẩu lao động, xử lý vi phạm của các công ty này trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Văn bản này định nghĩa về người đi làm việc ở nước ngoài hay người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng “là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của Luật này.” Các loại hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài được Luật quy định (Điều 6) như sau: Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề; Hợp đồng cá nhân. Luật (Điều 7) quy định các hành vi bị nghiêm cấm gồm: 202 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài (sau đây gọi là giấy phép) cho doanh nghiệp không đủ điều kiện theo quy định của Luật này. Sử dụng giấy phép của doanh nghiệp khác hoặc cho người khác sử dụng giấy phép của mình để hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Giao nhiệm vụ điều hành hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho người đã quản lý doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép hoặc người đang trong thời gian bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên do vi phạm quy định của pháp luật về người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đi làm việc hoặc đưa người lao động đi làm việc ở khu vực, ngành, nghề và công việc bị cấm theo quy định của Chính phủ hoặc không được nước tiếp nhận người lao động cho phép. Lợi dụng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để tổ chức đưa công dân Việt Nam ra nước ngoài. Lợi dụng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để tổ chức tuyển chọn, đào tạo, thu tiền của người lao động. Tổ chức đưa người lao động ra nước ngoài làm việc khi chưa đăng ký hợp đồng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật này. Sau khi nhập cảnh không đến nơi làm việc hoặc bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng. Ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn hợp đồng lao động. Lôi kéo, dụ dỗ, lừa gạt người lao động Việt Nam ở lại nước ngoài trái quy định của pháp luật. Gây phiền hà, cản trở, sách nhiễu người lao động hoặc doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì đi nước ngoài lao động là một quá trình phức tạp nên người đi lao động dễ bị bóc lột theo nhiều cách. Cần thiết phải bảo vệ người lao động nam cũng như nữ để không bị lạm dụng. Pháp luật cần tính đến việc nghiêm cấm rõ ràng những hành vi khác mà có thể lạm dụng hay dẫn tới việc làm dụng hoặc làm tổn thương người đi lao động nước ngoài như: Thay thế hoặc thay đổi hợp đồng: Trong nhiều trường hợp, kể cả khi có hợp đồng đã có hiệu lực thì vẫn bị thay thế hay thay đổi gây bất lợi cho người đi lao động. Cần phải triệt để nghiêm cấm việc này vì trong nhiều trường hợp khi đã có hợp đồng hoặc đến nơi làm 203 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 việc thì hợp đồng đã bị thay đổi với những điều khoản thấp hơn tiêu chuẩn đã thỏa thuận hay với các điều khoản không hay gây bất lợi cho người lao động. Giữ giấy tờ đi lại của người lao động đi làm việc ở nước ngoài: phải cấm đại diện doanh nghiệp hay người sử dụng lao động giữ giấy tờ đi lại của người lao động. Có nhiều trường hợp người lao động bị buộc phải ở lại trái phép ở nước đến lao động và bị người sử dụng lao động dọa dẫm và kiểm soát, không chế vì giấy tờ của người lao động đã bị thu giữ. Cung cấp hoặc công bố bất kỳ thông tin hoặc tài liệu giả mạo nào về việc thuê hoặc tuyển dụng lao động. Không bồi hoàn ngay lập tức cho việc đăng ký đi làm việc ở nước ngoài trong trường hợp không bố trí được việc làm. Tuyển dụng hoặc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc mà không có giấy phép. Ép buộc hoặc dọa dẫm người đi làm việc ở nước ngoài ở lại nước ngoài (ngoài các hành vi lôi kéo, dụ dỗ, lừa gạt được quy định tại Điều 7.10 cúa Luật. Đưa người chưa thành niên ra nước ngoài làm việc. Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (các điều từ 8 đến 15) quy định thủ tục cấp giấy phép cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đưa ngoài lao động đi làm việc ở nước ngoài (doanh nghiệp cung ứng dịch vụ). Cần đảm bảo rằng những doanh nghiệp cung ứng này được phép thực hiện loại hình dịch vụ như vậy và giấy phép hoạt động phải được niêm yết thường trực tại trụ sở của doanh nghiệp. Tất cả các văn bản do doanh nghiệp cung ứng phát hành, phổ biến hoặc công bố phải trích dẫn số giấy phép hoạt động của doanh nghiệp. Bộ Lao động, thương binh và xã hội với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về đưa người đi lao động ở nước ngoài phải lưu giữ tất cả các danh sách những cơ quan được cấp phép và phải công bố công khai danh sách đó khi có yêu cầu thích đáng để công chúng có thể kiểm tra tư cách của những doanh nghiệp cung ứng. Các vi phạm, gia hạn, mất giấy phép…của những doanh nghiệp cung ứng phải được cập nhận vào danh sách nêu trên. Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Điều 22) quy định rằng tiền ký quỹ của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Cần có quy định về việc sử dụng khoản tiền ký quỹ này để đáp ứng những yêu cầu phát sinh do doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ. Điều này có nghĩa rằng các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phải có lựa chọn tốt về người sử dụng lao động và phải chịu rủi ro thay cho 204 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 người lao động. Phương án quy định như vậy sẽ tốt hơn bởi vì nó buộc doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phải đưa ra những yêu cầu đòi hỏi việc tuân thủ từ phía người sử dụng lao động. Để tự bảo vệ mình, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ có thể yêu cầu bên sử dụng lao động nộp một khoản ký quỹ để đảm bảo tuân thủ các hợp đồng lao động. Theo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Điều 66), Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước được hình thành nhằm phát triển và mở rộng thị trường lao động ngoài nước, nâng cao chất lượng nguồn lao động, hỗ trợ giải quyết rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp. Đề nghị quy định việc sử dụng quỹ này ưu tiên vào đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong việc giải quyết rủi ro, cấp bảo hiểm y tế cho người lao động và những người sống phụ thuộc vào họ, chế độ thai sản, bảo hiểm đi lại và các hỗ trợ phúc lợi khác. Ngoài ra, quỹ này cũng phục vụ cho việc đưa người lao động ở nước ngoài quay trở về nước trong các trường hợp khẩn cấp (thí dụ như chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai…) rồi sau đó sẽ yêu cầu doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đưa người lao động ra nước ngoài hoàn trả khoản chi phí này. Trong trường hợp người lao động làm việc ở nước ngoài bị lạm dụng, quỹ này cũng được dùng để chi trả cho việc thực hiện các biện pháp tư vấn và chữa trị phù hợp. Quỹ như vậy phải xây dựng các chương trình cho người lao động ở nước ngoài trở về nước, bao gồm các khóa đào tạo về kỹ năng và sinh kế, định hướng cho người lao động ở nước ngoài trở về nước. Phải đảm bảo rằng người lao động nam và nữ đều được hưởng lợi ích từ các khóa đào tạo về kỹ năng và sinh kế một cách bình đẳng. Liên quan đến hoạt động báo cáo, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (các điều 26, 29, 32, 36 và 41) quy định việc lập báo cáo về đưa người lao động ra nước ngoài. Báo cáo này cũng phải gửi cho cơ quan lãnh sự và phái đoàn ngoại giao của Việt Nam đặt tại nước ngoài theo quy định tại những điều 27, 30, 33, 38 và 41 của Luật. Tất cả các báo cáo phải có số liệu tách riêng theo giới tính. Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (các điều 9, 27, 28, 33, 38 và 41) cũng có những quy định về việc trang bị kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đưa họ ra nước ngoài. Để cụ thể hóa các điều trên, Điều 44 quy định rằng người lao động đi làm việc ở nước ngoài có quyền yêu cầu doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài cung cấp những thông tin về: 205 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Chính sách, pháp luật của Việt Nam về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Chính sách, pháp luật có liên quan và phong tục, tập quán của nước tiếp nhận người lao động; Quyền và nghĩa vụ của các bên khi đi làm việc ở nước ngoài. Chúng tôi kiến nghị là quy định nêu trên trong Điều 44 phải là quy định có tính bắt buộc, hay nói cách khác là người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải có quyền nhận được thông tin hơn là đơn thuần chỉ có quyền yêu cầu được cung cấp thông tin. Điều 65 của Luật quy định các loại thông tin được coi là “kiến thức cần thiết” cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thông tin được cung cấp trên cơ sở quan hệ giới tại nước tiếp nhận, các vấn đề/thách thức thường gặp có ảnh hưởng tới giới tính và những hỗ trợ sẵn có trong trường hợp vi phạm hợp đồng hoặc bị lạm dụng (bao gồm cả thông tin từ phía cơ quan lãnh sự và phái đoàn ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài). Cùng với Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là các nghị định hướng dẫn thực hiện và xử lý vi phạm hành chính. Ngoài ra còn một số quyết định về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước, ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài, quy định về tổ chức bộ máy chuyên trách xuất khẩu và bồi dưỡng kiến thức lao động sang nước ngoài và ban hành chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Ở cấp độ thấp hơn là các thông tư hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các nghị định, các thông tư liên tịch quy định cụ thể về tiền môi giới và tiền dịch vụ, quy định việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp và tiền ký quỹ của người lao động xuất khẩu, hướng dẫn chi tiết một số vấn đề về nội dung hợp đồng bảo lãnh và việc thanh lý hợp đồng bảo lãnh, và hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi vi phạm pháp luật liên quan. 2. Quản lý nhà nước về lao động ngoài nước Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này ở trung ương có Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp có các bộ: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Y tế, Công an, Ngoại giao, Tài chính và Ngân hàng nhà nước. Ở địa phương, các tỉnh đều thành lập Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động, ngoài ra còn có sự phối hợp của Hội phụ nữ và Đoàn thanh niên cơ sở. 206 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNG VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI Chính phủ Bộ Công an Cấp hộ chiếu cho người đi lao động ngoài nước. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan để phòng, chống và xử lý việc đi lao động ngoài nước trái phép. Bộ Lao động, thương binh và xã hội Thiết lập chính sách về lao động ngoài nước. Bảo đảm sự hỗ trợ về quản lý, hành chính cho người lao động ngoài nước. Tìm kiếm các khả năng, cơ hội việc làm ngoài nước. Quản lý lao động ngoài nước. Bộ Ngoại giao Thiết lập quan hệ cới các nước nhận lao động. Bảo vệ người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Bộ Tài chính Xây dựng các quy định tài chính về lao động ngoài nước. Bộ Y tế Chỉ thị các bệnh viện tổ chức khám sức khỏe cho người đi lao động ngoài nước và quy định chi phí. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Ngân hàng Nhà nước Phối hợp với Bộ Lao động, thương binh và xã hội chuẩn bị kế hoạch hàng năm và 5 năm về lao động ngoài nước. Quyết định chính sách thuận lợi cho người lao động và doanh nghiệp để được vay, xóa nợ, đầu tư và vận chuyển tài liệu cùng thiết bị cho công việc của họ, và trình Chính phủ để ban hành. Vai trò quản lý nhà nước và trách nhiệm của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội được xác định trong các văn bản pháp lý sau: Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01-08-2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20-12-2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đặc biệt về lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: 207 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Phát triển thị trường lao động ngoài nước; Xây dựng và hướng dẫn thực hiện kế hoạch đào tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài; quy định nội dung, chương trình và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; Quy định về Giấy phép; quyết định việc cấp, đổi, thu hồi Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; đ) Tổ chức, hướng dẫn việc đăng ký hợp đồng của doanh nghiệp và người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân; giám sát việc thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp; Phối hợp với Bộ Ngoại giao tổ chức và chỉ đạo công tác quản lý, xử lý những vấn đề liên quan đến người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước. Chính phủ Việt Nam cũng đã tăng cường nỗ lực bảo vệ người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài thông qua các biên bản ghi nhớ và thỏa thuận với nước tiếp nhận để đưa ra các biện pháp bảo vệ lao động Việt Nam (xem Phụ lục 2). Các hiệp định này bao gồm các điều khoản về việc cung ứng và tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc tại nước đến, các điều khoản cụ thể về thời gian làm việc, quyền và trách nhiệm của lao động, người sử dụng lao động. Với các nước không ký kết hiệp định/thoả thuận, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ hợp tác trên thực tế với các cơ quan thẩm quyền có liên quan của nước nhận lao động để hợp tác quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam. Cục Quản lý lao động ngoài nước là đơn vị thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo quy định của pháp luật (Quyết định số 1012/QĐ-LĐTBXH ngày 08-07-2013 của Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội hướng về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý lao động ngoài nước). 208 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Bộ Lao động, Thương binh và xã hội Cục Quản lý lao động ngoài nước Văn phòng Phòng Tổ chức cán bộ Phòng Thông tinTruyên thông Phòng Pháp chế-Tổng hợp Phòng Thanh tra Phòng Kế hoạch-Tài chính Hàn QuốcTây Á-châu Phi Nhật Bảnchâu ÂuĐông Nam Á Đài Loanchâu Mỹ Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Ở các nước tiếp nhận có số lượng lớn lao động, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thành lập các ban quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài. Hiện có 11 ban quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài bao gồm: Malaixia, Hàn Quốc, Đài Loan, Nga, Libia, Ăngôla, Séc, Tiểu các vương quốc Ả rập, Ả rập Xêút, Nhật Bản và Cata. Ở những nước tiếp nhận không có ban quản lý lao động thì đại sứ quán Việt Nam tại nước đó có nhiệm vụ hỗ trợ và giúp đỡ người lao động khi cần thiết. Ở một số nước không cấp thị thực nhập cảnh cho cán bộ đại diện doanh nghiệp xuất khẩu lao động để sang quản lý lao động, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phải hỗ trợ để cán bộ doanh nghiệp có thể xin thị thực nhập cảnh để sang quản lý lao động. Hiện có 178 doanh nghiệp hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động, trong đó phần đông là những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoặc cổ phần có vốn Nhà nước chi phối. Các công ty này làm nhiệm vụ giới thiệu, đào tạo, thủ tục đi nước ngoài, lo nơi định cư, giấy tờ, hợp đồng lao động... cho người lao động. Đổi lại, lao động chi trả cho công ty khoản phí gọi là phí môi giới. Các vấn đề khác như lao động phải làm việc trong những điều kiện dưới chuẩn, được trả lương ít...là những vấn đề rất ít xảy ra đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các công ty xuất khẩu lao động. Khi phát hiện ra các vấn đề này xảy ra với lao động, Cục Quản lý lao động ngoài nước đều chỉ đạo các công ty phải tìm biện pháp giải quyết, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động, trường hợp công ty vi phạm pháp luật sẽ bị xử phạt theo quy định. 209 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Theo quy định của pháp luật, người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài đều phải tham gia khoá học ngoại ngữ, nâng cao tay nghề (nếu cần) và bồi dưỡng kiến thức cần thiết trước khi đi. Đối với lao động nữ ngoài khoá học quy định chung còn được trang bị những kiến thức cần thiết cho giới nữ nói riêng. Cục Quản lý lao động ngoài nước đã xuất bản các giáo trình cho từng thị trường cụ thể và cấp phát miễn phí cho người lao động. Trong nội dung phổ biến kiến thức cần thiết, có phổ biến chi tiết và đầy đủ quyền của người lao động, địa chỉ và số điện thoại liên lạc của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và của nước đến để người lao động có thể liên lạc yêu cầu trợ giúp khi cần thiết. Các giáo trình cần luôn được thường xuyên bổ sung, hoàn thiện theo tình hình thực tế. Hiện tại, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hiện nay phần lớn không được tổ chức công đoàn bảo vệ do thiếu cơ chế và nguồn lực thực hiện. Đây là một vấn đề đang tồn tại, cần sớm được giải quyết trong thời gian tới. Công đoàn có thể đóng vai trò lớn hơn trong việc giúp đỡ người lao động làm việc ở nước ngoài vượt qua những khó khăn cơ bản trước khi xuất cảnh, trong quá trình làm việc ở nước ngoài cũng như sau khi trở về nước. Như vậy có sự cấp thiết sửa đổi lại luật pháp và vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ người lao động làm việc ở nước ngoài cần được luật hóa. Hợp tác giữa công đoàn Việt Nam và công đoàn các nước cũng cần phải được đẩy mạnh. 210 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Phụ lục 1 DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số 72/2006/QH11 ngày 29-11-2006 Nghị định của Chính phủ Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01-08-2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Nghị định số 144/2007/NĐ–CP ngày 10-09-2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20-12-2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Quyết định 119/2007/QĐ-TTg ngày 25-07-2007 thành lập Quỹ bảo hộ công dân và Pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg ngày 31-08-2007 về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29-04-2009 về phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020 Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày 23-02-2009 về việc hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế Quyết định số 295/2010/QĐ-TTg ngày 26-02-2010 về Phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015" Quyết định số 56/2011/QĐ-TTg ngày 14-10-2011 về việc ban hành bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia Thông tư liên tịch Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT–BLĐTBXH–BTP ngày 11-07-2007 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết một số vấn đề về nội dung hợp đồng bảo lãnh và việc thanh lý hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Thông tư liên tịch số 16/2007/TTLT–BLĐTBXH–BTC ngày 04-09-2007 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính quy định cụ thể về tiền môi giới và tiền dịch vụ trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT–BLĐTBXH–NHNN ngày 04-09-2007 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc quản lý và sử dụng tiền kỹ quỹ của 211 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 doanh nghiệp và tiền ký quỹ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Thông tư liên tịch số 11/2008/TTLT–BLĐTBXH–BTC ngày 21-07-2008 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính về việc hướng dẫn quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước Thông tư liên tịch số 31/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 09-09-2009 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số nội dung Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020 Thông tư liên tịch số 06/2009/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 27-02-2009 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày 23-02-2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT–TANDTC–BLDTBXH-VKSNDTC ngày 18-05-2010 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại Toà án nhân dân Quyết định của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Quyết định số 18/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18-07-2007 ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài Quyết định số 19/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18-07-2007 ban hành “Quy định về tổ chức bộ máy hoạt động đi làm việc ở nước ngoài và Bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài” Quyết định số 20/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 02-08-2007 về việc ban hành Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài Quyết định số 61/2008/QĐ–BLĐTBXH ngày 12-08-2008 về mức phí môi giới người lao động hoàn trả lại doanh nghiệp Thông tư số 21/2007/TT–BLĐTBXH ngày 08-10-2007 hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 0108-2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Quyết định số 1012/QĐ-LĐTBXH ngày 08-07-2013 hướng về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý lao động ngoài nước Quyết định của bộ, ngành khác Thông tư số 92/2013/TT-BTC ngày 08-07-2013 của Bộ Tài chính quy định chế độ quản lý tài chính Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài 212 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Phụ lục 3 DANH MỤC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ SONG PHƯƠNG STT 1 2 3 Tên văn bản Hiệp định về việc cử và tiếp nhận công dân Việt Nam sang làm việc tại các xí nghiệp tiếp nhận tại Liên bang Nga Bản thoả thuận giữa Việt Nam và Lào về việc cử và tiếp nhận chuyên gia Việt Nam đi làm việc tại Lào Hiệp định giữa Việt Nam và Séc về sự làm việc hỗ tương của công dân Việt Nam và công dân Séc Ngày ký 29-9-1992 7-4-1994 4-6-1994 4 Hiệp định hợp tác lao động giữa Việt Nam và Lào 29-6-1995 5 Hiệp định hợp tác lao động với Cộng hòa Ucraina 6-1996 6 Nghị định thư sửa đổi bổ sung Hiệp định hợp tác lao động giữa Việt Nam và Lào 8-4-1999 Thoả thuận giữa Văn phòng kinh tế văn hoá Đài bắc tại Hà Nội và Văn phòng 7 Kinh tế Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc về việc gửi và tiếp nhận lao động Việt Nam 6-5-1999 làm việc theo hợp đồng 8 Bản ghi nhớ về việc tuyển dụng lao động Việt Nam giữa Việt Nam và Malaysia 1-12-2003 Bản ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Tổ chức 9 Công nghệ công nghiệp Hàn Quốc về việc đưa kỹ sư Việt Nam sang làm việc tại 25-5-2004 Hàn Quốc 10 11 12 13 14 Bản ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Lao động Hàn Quốc về việc đưa lao động sang làm việc tại Hàn Quốc (hiệu lực 2 năm) Bản ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Lao động Hàn Quốc về việc đưa lao động sang làm việc tại Hàn Quốc (ký gia hạn) Bản ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Lao động Hàn Quốc về việc đưa lao động sang làm việc tại Hàn Quốc (ký gia hạn) Bản Ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Nguồn nhân lực Vương quốc Ô man hợp tác trong lĩnh vực nguồn nhân lực Hiệp định giữa Việt Nam và Cata về quy định tuyển dụng lao động Việt Nam đi làm việc tại Cata 2-6-2004 24-7-2006 8-2008 9-12-2007 11-1-2008 Bản Ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Lao 15 động và Chính sách xã hội Bungari về thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực lao động và 8-4-2008 Xã hội 16 17 Hiệp định giữa Việt Nam và Nga về việc công dân Việt Nam làm việc có thời hạn tại Nga và công dân Nga làm việc có thời hạn tại Việt Nam Bản Ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Lao 213 27-10-2008 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 động, các vấn đề xã hội và Gia đình Slovakia (về thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực 27-10-2008 lao động, việc làm và Xã hội) 18 19 Bản Ghi nhớ giữa Việt Nam và Các Tiểu vương quốc A rập thống nhất (UAE) trong lĩnh vực nhân lực 16-2-2009 Hiệp định giữa Việt Nam và Lào về việc cử và tiếp nhận chuyên gia Việt Nam đi làm việc tại Lào 24-3-2009 Hiệp định giữa Việt Nam và Cadắcxtan về việc công dân Việt Nam sang làm việc 20 có thời hạn tại Cadắcxtan và công dân Cadắcxtan làm việc có thời hạn tại Việt 15-9-2009 Nam Bản Ghi nhớ giữa Bộ Phát triển, Giáo dục và Việc làm Bang Saskatchewan 21 (Canada) và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam về việc hợp tác trong 15-1-2010 lĩnh vực lao động, việc làm và nguồn nhân lực (ký ngày 15/1/2010) 22 Bản ghi nhớ giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Bộ Lao động Hàn Quốc về việc đưa lao động sang làm việc tại Hàn Quốc (ký gia hạn) 8-2010 Phụ lục 3 VIỆT NAM THAM GIA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CƠ BẢN LIÊN QUAN Các công ước Liên Hợp Quốc Ngày Liên Hợp Ngày Việt Nam phê Quốc thông qua chuẩn hay gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) 16-12-1966 24-09-1982 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 16-12-1966 24-09-1982 18-12-1979 17-02-1982 Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CEDAW (OP-CEDAW) 06-10-1999 - Công ước về quyền trẻ em (CRC) 20-11-1989 28-2-1990 Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả lao động di cư và 18-12-1990 - 15-11-2000 08-06-2012 Tên điều ước (ICESCR) Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) thành viên gia đình họ (ICRMW) Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị tội buôn bán người, đặc biệt phụ nữ và trẻ em bổ sung Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (TIPP) 214 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) Ngày ILO thông Ngày Việt Nam qua phê chuẩn Công ước số 29 về lao động cưỡng bức 28-06-1930 05-03-2007 Công ước số 81 về thanh tra lao động trong công nghiệp và thương 11-07-1947 03-10-1994 Công ước số 100 về trả công bình đẳng 29-06-1951 07-10-1997 Công ước số 111 về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp 25-06-1958 07-10-1997 Công ước số 138 về tuổi tối thiểu được đi làm việc 26-06-1973 24-06-2003 Công ước số 182 về những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất 17-06-1999 19-12-2000 Công ước lao động hàng hải 23-02-2006 08-05-3013 Công ước số 87 về quyền tự do liên kết và về bảo vệ quyền tổ chức 09-07-1948 - Công ước số 97 về di cư để lao động 01-07-1949 - Công ước số 98 về áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và 01-07-1949 - Công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức 25-06-1957 - Công ước số 143 về lao động di cư (những điều khoản bổ sung) 24-06-1975 - Công ước số 181 về các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân 19-06-1997 - Công ước số 189 về công việc đàng hoàng cho người lao động giúp 16-06-2011 - Các công ước mại thương lượng tập thể việc gia đình Tài liệu tham khảo Bộ Ngoại giao. 2011. Báo cáo tổng quan về tình hình di cư, Hà Nội Bộ Lao động, thương binh và xã hội. 2010. Hệ thống văn bản về người Việt Nam đi lao động nước ngoài, Nhà xuất bản Lao động-xã hội, Hà Nội ILO. 2004. Một số công ước và khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế. Nhà xuất bản Lao động-xã hội, Hà Nội UNDP. 2006. Globalisation, Gender and Work in the Context of Economic Transition - the Case of Viet Nam. Ha Noi ILO. 2006. ILO Multilateral Framework on Labour Migration. Non-binding principles and guidelines for a rights-based approach to labour migration. Geneva World Bank. 2011. Vietnam Country Gender Assessment. Hà Nội Vũ Ngọc Bình. 2012. Phụ nữ đi lao động ngoài nước trên thế giới, ASEAN và từ Việt Nam - pháp luật, chính sách và thực tiễn nhìn từ góc độ quyền và giới (bài trình bày tại Hội thảo quốc tế “Giới và Di dân –Tầm nhìn châu Á” do Trường Đại học Khoa học và Xã hội nhân văn thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 24-25 tháng 5 năm 2012 tại thành phố Hồ Chí Minh) Vũ Ngọc Bình. 2012. Thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người của phụ nữ Việt Nam đi lao động nước ngoài (bài trình bày tại Hội thảo quốc tế lần thứ hai về quyền con người và Hòa bình & Xung đột ở Đông Nam Á tổ chức ngày 17-18 tháng 10 năm 2012 tại thành phố Giacácta, Inđônê sia). 215 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Lưu Văn Hưng. 2011. Xuất khẩu lao động Việt Nam thời đổi mới và hội nhập (sách chuyên khảo). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội Nguyễn Bình Giang (chủ biên). 2011. Di chuyển lao động quốc tế. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài dưới góc độ bình đẳng giới – Kết quả một số nghiên cứu trường hợp TS. Nguyễn Thị Lan Hương Viện Khoa học Lao động và Xã hội Bộ Lao động-TBXH Astract This paper examines labor migration in Vietnam from gender and right approach based on all studies’ data conducted by the Institute of Labour Science and Social Affairs, MOLISA in recent years. The paper will conclude the findings and analyse policy implications. Sending Vietnamese labourers to work overseas has been an important policy of Vietnam for more than 30 years with the aim of reducing unemployment and poverty rates in the country. At present time, there are about 500,000 Vietnamese labourers working in 40 countries all over the world, of which 30 percent are female labourers. It is clear that labour migration brings about better opportunities for disadvantaged people such as improving their living standards, however; female workers are more likely to face greater difficulties rather than male workers in terms of approaching labour market and taking advantages from labour migration. Gendered gap still exists in (i), policies and regulations issued by the Government (ii), male and female proportion in labour market (iii), Desicion making process (iv), approaching information (v), employment atracttion (vi), limited right for female workers (vii), risk of rape and harrassment (viii), adaptation at the destination and (ix), problems for relatives left behind. 216 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 I. Một số vấn đề giới trong lĩnh vực lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Trong thời gian gần đây, Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã thực hiện một số nghiên cứu trong lĩnh vực di cư lao động nói chung và lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động nói riêng. Kết quả các nghiên cứu cho thấy, vẫn tồn tại những “vấn đề giới” trong nhiều lĩnh vực khác nhau. 1. Vấn đề giới trong pháp luật, chính sách XKLĐ Rà soát Luật54 và các chính sách về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cho thấy, có sự thiếu nhạy cảm về giới trong một số quy định. Quy định về bồi dưỡng kiến thức cần thiết trước khi XKLĐ còn chưa nhạy cảm giới. Một số kiến thức, kỹ năng cần bổ sung bồi dưỡng cho phụ nữ như lựa chọn ngành nghề; bảo vệ sức khỏe nói chung và sức khoẻ sinh sản nói riêng; ứng xử trong trường hợp bị quấy rối hay tấn công tình dục; bị hành hung, ngược đãi tại nơi làm việc, nơi sinh sống, nơi vui chơi, giải trí;… Quy định cấm lao động Việt Nam làm việc trong một số lĩnh vực, ngành nghề55 như vũ công, ca sĩ, mát-xa tại nhà hàng, khách sạn hoặc trung tâm giải trí,… Đây lại là những lĩnh vực, ngành nghề mang lại nhiều cơ hội việc làm cho phụ nữ. Mặc dù mục đích nhằm bảo vệ lao động khỏi những nguy cơ về xâm hại tình dục hay tệ nạn mại dâm, buôn bán người,… tuy nhiên theo Khuyến nghị số 26 của Công ước CEDAW, quy định này cũng có thể được xem là phân biệt đối xử trên cơ sở giới (gián tiếp). 2. Xu hướng phụ nữ tham gia XKLĐ Tính đến 2011, có 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ 56. Thời kỳ 2005-2011, bình quân mỗi năm, có khoảng trên 90.8 ngìn người đi lao động làm việc tăng, tốc độ tăng 3,3%. Tỷ lệ nữ lao động đi làm việc ở nước ngoài có xu hướng tăng, từ 34,9% năm 2005 lên khoảng 36,2% năm 2011 (ILSSA, 2012). Thời kỳ 2005-2011, bình quân mỗi năm, có trên 27 ngìn lao động nữ, tốc độ tăng, 2,9%. Nguyên nhân: (i) Nhu cầu của các quốc gia tiếp nhận lao động về trong các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nữ tăng (nghề giúp việc gia đình, chăm sóc người bệnh, lắp ráp điện tử, dệt-may, dịch vụ giải trí,…); (ii) Nhu cầu của phụ nữ Việt Nam đi XKLĐ nhằm cải 54 Luật số 72/2006/QH11 ngày 29 /11/2006 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 “Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”. 55 Nghị định 126/2007/NĐ-CP năm 2007, bổ sung Luật, quy định các loại hình ngành nghề, công việc cấm đối với người lao động và quy định các loại hình doanh nghiệp có thể tuyển dụng và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài 56 Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động-TBXH 217 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 thiện kinh tế tăng; (iii) Quan niệm, định kiến về vấn đề phụ nữ tham gia XKLĐ đã có cải thiện. Biểu đồ 1. Lao động đi làm việc ở nước ngoài hàng năm theo giới tính, 2005 - 2011 100000 86990 90000 80000 78855 85546 88289 79942 73028 70594 70000 58464 60000 50000 51832 51783 27023 28159 56973 45989 40000 30000 56299 51008 24605 28526 28573 31990 22020 20000 10000 0 2005 2006 2007 Nam 2008 Nữ 2009 Tổng số 2010 2011 Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước, 2012 3. Vấn đề giới trong lĩnh vực ra quyết định đi XKLĐ Phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn nam giới khi ra quyết định đi XKLĐ Nguyên nhân: - Vai trò giới truyền thống trong gia đình, phụ nữ vẫn chịu trách nhiệm chính trong công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, chăm sóc con nhỏ, cha mẹ già, người ốm,… - Phụ nữ, đặc biệt phụ nữ nông thôn phải được sự cho phép của gia đình chồng, chồng,… trước khi quyết định đi XKLĐ. Hộp 1. Khó khăn của phụ nữ khi quyết định đi XKLĐ … Phụ nữ ở thành thị hay nông thôn vẫn đảm nhiệm hầu hết công việc nội trợ, chăm sóc gia các thành viên trong gia đình,… vì vậy khi phụ nữ muốn đi làm việc xa nhà sẽ gây xáo trộn lớn. Họ phải thuyết phục cha mẹ chồng, chồng, thậm chí cả các con; sắp xếp, phân công lại công việc gia đình,… Trong nhiều hoàn cảnh, không dễ dàng thuyết phục họ đành từ bỏ… … Kinh tế gia đình rất khó khăn, tìm được cơ hội được đi làm giúp việc gia đình ở Đài Loan nhưng chị T không thể thuyết phục chồng và cha mẹ chồng,… Họ cho rằng, đi làm ở nước ngoài, đặc biệt là giúp việc gia đình, phụ nữ dễ “sinh hư”,… Phỏng vấn sâu chị H 30 tuổi, chị T 29 tuổi tại Thanh Hoá 218 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 4. Vấn đề giới trong tiếp cận thông tin XKLĐ Phụ nữ hạn chế trong tiếp cận thông tin tuyển dụng XKLĐ chính thức Phụ nữ hay tiếp cận thông tin XKLĐ, tư vấn XKLĐ từ mạng lưới môi giới cá nhân bất hợp pháp (còn gọi là “cò XKLĐ”), vì vậy nguy cơ bị lừa đảo cao. Một số phụ nữ bị “cò XKLĐ” lừa mất tiền, phải trả chi phí cao gấp nhiều lần so với quy định, thậm chí bị lừa bán người qua biên giới, bị cưỡng bức lao động, bị giam giữ bất hợp pháp, bị cưỡng bức mại dâm,… Bảng 1. Các nguồn cung cấp thông tin về XKLĐ (%) Chung Tổng Mức quan trọng Mức quan trọng 1 2 17,3 11,7 5,7 25,0 16,0 9,0 0,3 0,0 0,3 XH 1,7 0,7 1,0 Thông tin đại chúng 5,7 2,3 3,3 Bạn bè/Người thân 49,0 37,3 11,7 Cán bộ xã/thôn 46,3 31,3 15,0 1,0 1,0 0,0 DN/Tổ chức dịch vụ Ban chỉ đạo XKLLD địa phương Cơ sở dạy nghề/TT GTVL Sở/Phòng/Cán bộ LĐ - TB – Khác Nguồn: Kết quả điều tra 300 lao động có ý định đi XKLĐ tại Thanh Hóa và Quảng Ngãi. ILSSA, tháng 4 năm 2011. So với nam giới, phụ nữ di cư lao động bất hợp pháp nhiều hơn ở một số ngành nghề, ví dụ lao động giúp việc gia đình ở Cộng hoà Síp, Hàn Quốc,… Nguyên nhân: - Do hạn chế thông tin về XKLĐ chính thức - Trình độ học vấn của phụ nữ thấp hơn; - Định kiến giới trong tham gia các hoạt động xã hội, cộng đồng: phụ nữ ít cơ hội tham gia hơn; - Phương pháp phổ biến thông tin, tư vấn về XKLĐ chưa nhạy cảm giới, chưa quan tâm đầy đủ đến những hạn chế, rào cản đối với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn, DTTS, vùng sâu, vùng xa ,… trong tiếp cận thông tin chính thức về XKLĐ. 219 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 5. Vấn đề giới trong lựa chọn ngành nghề Có sự phân biệt khá rõ ràng những ngành nghề/lĩnh vực có tỷ lệ nam giới hoặc phụ nữ vượt trội. Trong quá trình tuyển dụng lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hầu hết các công ty/doanh nghiệp XKLĐ đều ấn định các ngành nghề tuyển dụng theo giới tính. Hộp 2. Việc tuyển dụng lao động đi làm việc ở nước ngoài hầu hết đều ấn định về giới tính theo các ngành nghề … Có những nhóm nghề doanh nghiệp dịch vụ chỉ tuyển lao động nữ như nghề giúp việc gia đình, y tá, điều dưỡng,… … Một số nghề ưu tiên tuyển lao động nữ tới 80-90% như dệt, may; sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử,… … Một số nghề chỉ tuyển lao động nam như cơ khí, xây dựng,…57 Ruth Bowen và Đỗ Vân Hương, Báo cáo Phụ nữ Việt Nam trong di cư lao động quốc tế, 2012. Phụ nữ tập trung trong công việc có vị trí thấp kém, tiền lương ít ỏi và thường không được luật lao động của nước tiếp nhận bảo vệ. Cho đến nay chỉ có một số ít cơ hội cho phụ nữ đi làm việc ở nước ngoài trong các nghề nghiệp đòi hỏi kỹ năng cao. Nguyên nhân:Định kiến giới trong nghề nghiệp của người chủ sử dụng lao động, doanh nghiệp dịch vụ và bản thân người lao động. Định kiến này thường gắn với quan niệm về vai trò giới truyền thống. Theo đó, phụ nữ phù hợp với những ngành nghề yêu cầu cẩn thận, tỷ mỷ, kiên trì, …. nam giới phù hợp với những ngành nghề đòi hỏi sức mạnh cơ bắp, nặng nhọc, nguy hiểm, … 6. Vấn đề giới liên quan đến việc làm Thoả thuận về hạn chế quyền mang thai và sinh đẻ của phụ nữ trong thời gian làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong nội dung một số hợp đồng giữa doanh nghiệp dịch vụ và công ty sử dụng lao động nước ngoài có điều khoản chung đối với lao động nữ là họ không được mang thai và sinh con trong thời gian làm việc ở nước ngoài, trường hợp có thai sẽ bị đơn phương chấm dứt hợp đồng. Nguy cơ đối với nhóm phụ nữ làm công việc như giúp việc gia đình, chăm sóc người ốm, phụ nữ làm việc trong lĩnh vực dịch vụ giải trí,… Các nguy cơ gồm: bị hạn chế các quyền (bị giữ hộ chiếu, giấy tờ; bị hạn chế tiếp xúc với bên ngoài; bị hạn chế ra khỏi khu vực làm việc; bị hạn chế sử dụng điện thoại,…); bị ngược đãi (mắng chửi, đánh đập); bị xâm hại tình 57 Ruth Bowen và Đỗ Vân Hương, Báo cáo Phụ nữ Việt Nam trong di cư lao động quốc tế, tháng 3 năm 2012. 220 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 dục; ….. Nguyên nhân: - Luật pháp một số quốc gia không cấm việc hạn chế một số quyền của người lao động; - Thực thi pháp luật chưa nghiêm nên các doanh nghiệp/người sử dụng lao động cố tình vi phạm quyền của người lao động; - Các doanh nghiệp dịch vụ, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài chưa thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình làm việc ở nước ngoài; - Người lao động, đặc biệt là phụ nữ hạn chế nhận thức, hiểu biết nên không biết tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; lo sợ bị mất việc làm hay bị buộc quay về nước với gánh nặng nợ nần,… Hộp 3. Người lao động bị giữ hộ chiếu …Em không biết rõ quy định về việc giữ hộ chiếu,… sang đến nơi người quản lý doanh nghiệp thu hết hộ chiếu của người lao động, giải thích là sợ người lao động làm mất sẽ rất phức tạp,… họ giữ luôn đến khi về nước mới trả lại,… … thỉnh thoảng em đi ra ngoài chơi, lúc đầu chỉ dám đi gần thôi, sau cũng đi xa hơn nhưng đi cùng một nhóm anh em Việt Nam, … khi đi chơi cũng không mang theo hộ chiếu vì bị người quản lý thu mất,… đi đường có chuyện gì thì không biết làm thế nào, em rất lo lắng… PVS người LĐXK đã quay trở về. ILSSA, tháng 4 năm 2011. 7. Vấn đề giới trong đời sống, sinh hoạt ngoài nơi làm việc Nguy cơ bị phân biệt đối xử, không được bảo vệ an toàn tại nơi ở như bị cướp, trộm; bị đánh đập, mắng chửi; bị xâm hại tình dục, bị lừa đảo buôn bán người,…. Các hệ luỵ xã hội (ngoài giờ làm việc): quan hệ nam-nữ không với mục đích hôn nhân (sống thử, cặp bồ,…); các tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm,….) Nguyên nhân: - Đời sống văn hoá tinh thần nghèo nàn; - Hạn chế về ngôn ngữ, giao tiếp; hạn chế kiến thức, hiểu biết về văn hoá, truyền thống của nước ngoài,… hậu quả là phụ nữ ít có khả năng hoà nhập đời sống xã hội của người địa phương; - Các doanh nghiệp dịch vụ, các cơ quan, tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài không đủ điều kiện để chăm lo đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động trong quá trình làm việc ở nước ngoài. 221 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Hộp 3. Khó khăn của phụ nữ khi làm việc ở nước ngoài ... Khó khăn lớn nhất mà người lao động gặp phải trong quá trình đi lao động ở nước ngoài là ngoại ngữ kém – hơn 70% phụ nữ cho rằng ngoại ngữ là cản trở lớn đối với họ trong quá trình sống và làm việc tại nước ngoài... ... mặc dù đã tham gia khoá học định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài, tuy nhiên vẫn có hơn 15% phụ nữ gặp khó khăn khi hoà nhập văn hoá, lối sống .... ... Cuộc sống tinh thần rất nghèo nàn, 75% phụ nữ chưa bao giờ được tham gia các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, sự kiện,... khi làm việc ở nước ngoài ... Nguồn: ILSSA, Báo cáo “Thực trạng lao động xuất khẩu đã trở về”, 2011 8. Vấn đề giới khi quay trở về - Nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình, con cái bỏ học, mắc tệ nạn xã hội - Bị mất hết tài sản do chồng và gia đình - Khó tìm việc làm và tái hoà nhập thị trường lao động trong nước - Bị chồng, gia đình, làng xóm kỳ thị, định kiến đối với phụ nữ đi làm việc ở nước ngoài về. II. Nghiên cứu trường hợp về di cư bất hợp pháp qua biên giới Việt Nam – trung Quốc và những hệ lụy dưới góc độ giới Năm 2010, ILSSA thực hiện “Đánh giá nhanh về tình hình di cư lao động tự do qua biên giới Việt-Trung và những nguy cơ buôn bán người”. Mục tiêu nhằm đánh giá nhanh về các xu hướng di cư giữa Trung Quốc và Việt Nam và tìm hiểu những nguy cơ như buôn bán người, bóc lột, lạm dụng lao động nhằm góp phần xây dựng cơ sở thực tiễn cho quá trình xây dựng chính sách. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện tượng di cư tự do (bất hợp pháp) qua biên giới Việt nam-Trung Quốc là hình thức di cư đặc biệt, xuất hiện từ lâu đời và ngày càng diễn biến phức tạp. Người dân sinh sống hai bên đường biên của Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ rất gần gũi, có thể họ cùng chung tiếng nói, cùng chung đặc điểm văn hoá, thậm chí có quan hệ họ hàng thân tộc hoặc thường xuyên qua lại giao lưu, trao đổi hàng hoá, văn hoá với nhau. Bên cạnh các hình thức di cư với mục đích chính đáng, cũng có nhiều cá nhân/nhóm người di cư với mục đích xấu, phạm pháp như: buôn lậu hàng hóa, lừa đảo, buôn bán người, trộm cắp, hành nghề mại dâm. Số lượng người di cư tự do qua đường biên giới đã tăng hàng chục lần so với 6-7 năm trước đây. Các cơ quan chức năng của Việt Nam và Trung Quốc gặp nhiều khó khăn trong kiểm soát hiện tượng di cư trái phép này. Trong tổng số người di cư lao động, nữ chiếm khoảng 60%, nam chiếm 40%. Có sự khác biệt về nghề nghiệp/công việc giữa lao động nam và lao động nữ. Lao động nữ buôn 222 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 bán nhỏ, xách hàng thuê, làm giúp việc cho gia đình, cơ sở sản xuất, bán hàng thuê,.... Lao động nam đẩy hàng, bốc vác, làm xây dựng, làm việc ở đồn điền,… Lao động nữ làm việc ở các chợ, khu vực buôn bán lân cận đường biên giới; trong khi đó lao động nam làm việc ở các doanh nghiệp, xưởng sản xuất, trang trại, vườn rừng nằm sâu địa phận Trung Quốc. Cả nam giới và phụ nữ đều gặp nhiều nguy cơ/rủi ro trong quá trình di cư tư do qua biên giới Việt Nam-Trung Quốc, tuy nhiên có sự khác nhau về mức độ, loại nguy cơ,... Nguy cơ bị trả công rẻ mạt. Cả lao động nam và lao động nữ đều chịu rủi ro này. Nhóm lao động di cư có trình độ thấp, thiếu thông tin về địa bàn nơi đến, không nói được tiếng Trung quốc có nguy cơ bị lạm dụng, bóc lột sức lao động, trả công lao động rẻ mạt nhiều hơn. Mức tiền lương/tiền công mà họ nhận được chỉ bằng 50% so với mức tiền công bình quân chung trên địa bàn. Hộp 4. Tiền công rẻ mạt … Chính quyền địa phương, đặc biệt công an xã gặp khó khăn trong việc quản lý người dân di cư lao động tìm việc làm. Kẻ xấu có thể lợi dụng khe hở đó, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của họ để mua rẻ sức lao động, trả công rất rẻ mạt, … …Nhiều người di cư lao động thiếu hiểu biết, không biết sức lao động mình bỏ ra đáng giá là bao nhiêu. Đáng lẽ ra với công sức lao động bỏ ra thì phải nhận được tiền công là 200.000đồng/1 ngày nhưng có khi chủ sử dụng lao động chỉ trả 100.000đồng/1 ngày. Nguồn: Thảo luận nhóm lãnh đạo xã Thanh Bình, Mường Khương, Lào Cai Lao động nam có nguy cơ là nạn nhân của lao động cưỡng bức hơn lao động nữ. Lao động nam và nữ đều gặp rủi ro này, tuy nhiên nam thanh niên có nguy cơ nhiều hơn. Do đặc thù lao động nam thường làm việc ở sâu trong đất Trung Quốc, tại các công xưởng, đồn điền, nông trại,.. ở các khu vực xa xôi, hẻo lánh,.. Người lao động không hiểu ngôn ngữ, không biết đường đi, bị canh gác cẩn mật nên không thể trốn thoát, phải cam chịu làm việc nặng nhọc, không được trả lương, sống trong điều kiện tồi tàn, mất tự do. Nạn nhân là lao động di cư, cả nam và nữ, chủ yếu ở nhóm tuổi trẻ khỏe nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm, thiếu thông tin về địa bàn di cư đến, đặc biệt là những thông tin về các nguy cơ. Điều đáng chú ý là tỷ lệ nam giới và trẻ em trai là nạn nhân của bóc lột sức lao động tại các đồn điền, các nhà máy, mỏ vàng, lò gạch có xu hướng gia tăng. Nguy cơ là nạn nhân của nạn buôn bán người, nguy cơ cao hơn đối với nhóm phụ nữ và trẻ em gái Các hình thức thường gặp là: (i) Lừa phụ nữ, trẻ em gái bán cho đàn ông Trung Quốc làm vợ, có trường hợp làm nô lệ tình dục cho đàn ông của cả gia đình nhiều thế hệ (ông, bố, các con trai trong cùng một gia đình); (ii) Lừa phụ nữ, nam giới, trẻ em gái và trẻ em trai bán 223 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 cho các động mãi dâm; (iii) Lừa nam giới bán cho các chủ mỏ vàng, mỏ khai thác đá hay lò gạch để bóc lột lao động. Hộp 5. Nguy cơ bị lừa đảo, buôn bán người khi di cư tự do qua biên giới Việt-Trung …Phụ nữ DTTS hay bị lừa hơn,... thủ đoạn kinh tế là chính, ví dụ cho quà, tiền,... Tự nhiên có ai đó cho quà là thích lắm, nghe theo người đó ngay,... ... Phụ nữ ưa những câu nói ngọt, thiếu hiểu biết nên dễ bị lừa. Đặc biệt chị em phụ nữ dân tộc rất dễ tin người, thường chỉ vài lời nói ngọt là có thể đi theo người ta ngay… …Nam thì bị lừa vào các vùng xa xôi hẻo lánh, không biết đường mà chạy trốn được,... ví dụ, lừa tới các nông trường, lò sản xuất gạch, mỏ vàng… ở vùng núi sâu trong lãnh thổ Trung Quốc, họ chả nhốt thì cũng không biết trốn đi đâu,... Nguồn: Thảo luận nhóm lãnh đạo xã Thanh Bình, Mường Khương, Lào Cai Nguy cơ bị mắc các tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma tuý, rượu chè, mại dâm, trộm cướp,… Cuộc sống xa nhà, không có người thân quản lý, chăm sóc; lao động vất vả, cuộc sống tinh thần nghèo nàn là những con đường dẫn người di cư sa vào con đường tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, rượu chè,… Nhiều người đã tiêu hết số tiền lao động kiếm được vào các tệ nạn này, bên cạnh đó họ cũng có nguy cơ cao mắc các bệnh xã hội như lậu, giang mai,… nhiễm HIV/AIDS. Hậu quả tiền mất, tật mang, trắng tay về quê. Hộp 6. Mắc tệ nạn xã hội khi di cư tự do qua biên giới Việt-Trung …Nam giới và phụ nữ di cư về đều có thể bị mắc bệnh xã hội, lây lan cho người thân... …Ma tuý, mại dâm,.. là dễ mắc,… Ví dụ ở xã Lam Cường có trường hợp bị lừa sang Trung Quốc bán, mới đầu kháng cự, sau chấp nhận làm nghề mại dâm, khi hết “ đát » thì lại về Việt Nam lừa những người khác sang bán tại Trung Quốc để bán vài chục nghìn tệ. Nghiện ma tuý, những trường hợp cùng quẫn, có thể trở thành tội phạm buôn bán người, buôn bán ma tuý… Nguồn: Thảo luận nhóm lãnh đạo sở Lao động Thương Binh Xã hội và Chi cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội tỉnh Lào Cai III. Một số khuyến nghị XKLĐ là một chủ trương đúng đắn và đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Qua rà soát các kết quả nghiên cứu về lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, kể cả trường hợp di cư bất hợp pháp đã cho thấy một số vấn đề giới đang tồn tại. Để đảm bảo bình đẳng giới trong xuất khẩu lao động, cần thực hiện một số giải pháp chính như sau: 224 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 1. Xem xét sửa đổi quy định trong pháp luật, chính sách của Việt Nam theo hướng nhạy cảm giới Quy định về bồi dưỡng kiến thức cần thiết trước khi XKLĐ. Cần quy định đào tạo/phổ biến cho phụ nữ, đặc biệt là các nhóm phụ nữ yếu thế một số kiến thức, thông tin, kỹ năng cần thiết như: kỹ năng tìm kiếm thông tin XKLĐ chính thức, lựa chọn ngành nghề; kỹ năng bảo vệ sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng; các kỹ năng phòng ngừa và đối phó với các trường hợp bị xâm hại tình dục, bị hành hung, ngược đãi tại nơi làm việc, nơi sinh sống và nơi vui chơi, giải trí. 2. Chính phủ tiếp tục đàm phán ký kết các hiệp định song phương với các nước tiếp nhận lao động nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của lao động nữ: (i) giảm bớt các quy định mang tính phân biệt đối xử trên cơ sở giới (hạn chế quyền có thai, sinh đẻ,…); (ii) có biện pháp bảo vệ lao động di cư nói chung và lao động nữ di cư nói riêng khỏi các nguy cơ bị xâm hại, lạm dụng, ngược đãi,…; (iii) phối hợp chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động di cư, đặc biệt là lao động nữ. 3. Chính quyền trung ương và địa phương có giải pháp hỗ trợ các nhóm lao động nữ trong tiếp cận XKLĐ chính thức: Sửa đổi hệ thống thông tin, tuyên truyền về XKLĐ nhạy cảm giới để đảm bảo mọi nhóm phụ nữ đều có khả năng tiếp cận (phương pháp, công cụ phổ biến thông tin nhạy cảm giới,…) Cần xóa bỏ hiện tượng các doanh nghiệp tuyển dụng lao động xuất khẩu ấn định tuyển dụng ngành nghề/công việc theo giới tính. Trong một số ngành nghề, lĩnh vực có tỷ lệ nữ quá thấp, cần nghiên cứu quy định tỷ lệ giới tính trong chỉ tiêu tuyển dụng; Cần có biện pháp hỗ trợ một số nhóm phụ nữ nghèo, DTTS, trình độ học vấn thấp tham gia XKLĐ: hỗ trợ kinh phí bổ túc văn hóa, trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết,… 4. Chính quyền phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội-đoàn thể tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho người lao động và gia đình của họ nhằm hỗ trợ phụ nữ vượt qua các định kiến giới, các rào cản về vai trò giới truyền thống trong gia đình. 225 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 226 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Tác động của xuất khẩu lao động đến quan hệ gia đình nhìn từ sự khác biệt giới HVCH. Lê Thị Trang & PGS.TS Nguyễn Văn Tiệp Trường Đại học KHXH & NV, Đại học quốc gia TP. HCM Abstract Labour export is the inevitable trend of international labour mobility process which provides employment opportunities, increases income and improves family economic condition for employees. Mostly, researches on labour export concern about economic and political aspects albeit its social effects are not given enough attention. Our paper focuses more deeper on social impacts of labour export, especially negative consequences from the study conducted in early 2013 in Hung Tay commune, Hung Nguyen district, Nghe An province where there are a great number of male and female workers migrated to South Korea, Taiwan, Malaysia etc due to diversity of work demand of these countries and desire of seeking a good job of labourers. The biggest challenge for both worker working overseas and their family members is the lack of love and direct care, particularly those who married. Living far away from the family leads to changes in thinking and behavior of labourers that causes unexpectedly emotional and psychological damage to husband-wife relationship. In addition, this directly or indirectly affects their children’ behavior and psychological changes as well as their school performance and children might involve in many social evils. Research results also showed gender differences in educating and taking care of children. In general, in the family whose fathers are working overseas, children are taken care and educated better compared with those mothers earning abroad. Adultery happens more often with men even they are working overseas or stay at home. However, if women involve in adultery, the proportions of separation and divorce are higher than those of men do. Another aspect of gender difference is using remittance. The remittance sent to husbands in home country would be spent more and it might used for gambling, drinking and love affairs; while the same amount sent to wives would be saved more. With the mentioned issues, when planning and implementing policies related to labour export, especially when doing consultation, gender aspects mentioned above should be more considered. Keywrods: labour export, labour migration, gender 227 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Đặt vấn đề Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, sự di chuyển nguồn nhân lực mang tính xuyên quốc gia trở thành hiện tượng phổ biến. Việt Nam trong quá trỉnh hội nhập kinh tế thế giới không nằm ngoài bối cảnh đó. Những năm gần đây, xuất khẩu lao động ở nước ta được đẩy mạnh góp phần mang lại nguồn thu khá đáng kể cho bản thân người lao động và gia đình họ nói riêng, đất nước nói chung. Hiệu quả về mặt kinh tế của xuất khẩu lao động là điều không thể phủ nhận. Nhưng bên cạnh đó, xuất khẩu lao động cũng mang lại những hệ quả xã hội không mấy tốt đẹp. Những nghiên cứu trước đây về vấn đề này chủ yếu quan tâm đến khía cạnh kinh tế, chính trị, luật pháp của nó mà chưa quan tâm nhiều đến những hệ quả xã hội mà nó mang lại (Đoàn Minh Duệ, 2012; Lưu Văn Hùng, 2011; Đào Công Hải, 2010; Nguyễn Thị Mỹ Hương, 2009; Nguyễn Thị Phượng , 2009) . Trong báo cáo này chúng tôi đi sâu hơn tìm hiểu về những hệ quả xã hội mà xuất khẩu lao động mang lại, nhất là tác động của nó đối với quan hệ gia đình nhìn từ sự khác biệt giới. Báo cáo là kết quả nghiên cứu được tiến hành ở xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An năm 2013 - một xã thuần nông, chủ yếu sản xuất lúa hai vụ, thu nhập thấp, trong khi đó nguồn nhân lực lao động trẻ lại dồi dào. Vì vậy, chính quyền và nhân dân địa phương xem xuất khẩu lao động ra nước ngoài nhằm mục đích giải quyết công ăn việc làm và xoá đói giảm nghèo. Hàng năm xã Hưng tây có hơn 100 lao động xuất khẩu cả nam và nữ đến các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia… do nhu cầu việc làm đa dạng ở các nước này. Về lý thuyết, chúng tôi tiếp cận thuyết hành vi lựa chọn duy lý của George Homans, lý thuyết chức năng, lý thuyết giới trong phát triển nhằm giải thích các hành vi xã hội, mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân, sự thay đổi chức năng gia đình trong mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như người thân trong gia đình từ cái nhìn khác biệt giới. Về phương pháp, chúng tôi tiến hành thu thập và xử lý những thông tin từ tài liệu sẵn có của các cơ quan hữu quan; tiến hành quan sát không tham dự các hộ gia đình và cộng đồng và thiết kế bảng tiêu chí phỏng vấn sâu dành cho các đối tượng khác nhau, thực hiện phỏng vấn sâu bán cấu trúc với 20 người đi xuất khẩu lao động trở về, 7 trường hợp là người thân của người đi xuất khẩu lao động (có thể là cha mẹ hoặc vợ/chồng), 2 trường đại diện chính quyền địa phương và 2 trường hợp chuẩn đi xuất khẩu lao động. 1. Những thay đổi trong các mối quan hệ gia đình 1.1.Quan hệ vợ chồng Xuất khẩu lao động đã tác động đến mối quan hệ vợ chồng khi sống xa nhau dẫn đến thiếu thốn tình cảm. Hệ quả của nó dẫn đến hiện tượng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân và những nguyên nhân khác dẫn đến phát sinh những mâu thuẫn vợ chồng. Nó 228 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 cũng tác động đến sự thay đổi trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và cả sự thay đổi nhận thức và hành vi của người đi và người ở nhà trong đó có sự khác biệt mang yếu tố giới. Thiếu thốn tình cảm là khó khăn lớn nhất mà người đi xuất khẩu lao động phải vượt qua Trong đời sống hôn nhân gia đình, việc các cặp vợ chồng phải sống xa nhau trong một thời gian dài là một thách thức, trở ngại lớn. Khi tìm hiểu về tình cảm của vợ chồng dành cho nhau, chúng tôi xem xét trong ba giai đoạn, đó là giai đoạn trước khi đi xuất khẩu lao động, khi đang đi làm việc ở nước ngoài và sau khi đi lao động trở về. Hầu hết người đi xuất khẩu lao đều có chung nhận định rằng thiếu thốn tình cảm gia đình là một trong những khó khăn lớn nhất mà họ phải vượt qua, đặc biệt là trong năm đầu tiên xa nhà. Một người vợ xa chồng sau khi trở về tâm sự: “Nói thật thời gian đầu mới qua cũng gặp nhiều khó khăn thật. Ví dụ như là nhớ nhà, nhớ chồng, nhớ con lắm, công việc thì chưa quen” (PVS, Nữ, 41 tuổi, làm ruộng). Khi còn ở nhà, do bận rộn với kế sinh nhai hằng ngày nên hầu hết các cặp vợ chồng ít còn thời gian thể hiện tình cảm dành cho nhau. Khoảng cách về mặt địa lý về lâu ngày như là một chất keo dính gắn kết, hâm nóng tình cảm của các cặp vợ chồng. “Xa nhau thì thấy nhớ và thương anh lắm. Cứ thấy buồn cười vì hồi ở nhà không thấy nhớ gì hết. Hồi ở nhà, hai vợ chồng cứ bảo nhau túc tắc làm ăn chứ chẳng có thời gian mà nhớ. Còn đi xa mấy năm thì thấy nhớ thật” (PVS, Nữ, 43 tuổi, làm ruộng). Hầu hết họ đều cho rằng, việc vợ chồng xa nhau thiếu thốn tình cảm là một điều tất yếu mà họ phải đánh đổi. Cái gì cũng có cái được cái mất của nó, đi xuất khẩu lao động để cải thiện kinh tế thì vợ chồng phải chấp nhận xa nhau. “Thì phải chịu, thì cũng thấy chán nhưng phải động viên nhau thôi. Chịu khó đi vài năm rồi về bù đắp sau. Đã đi làm ăn thì phải chịu thôi. Được tiền thì mất tình thôi chứ khỏi mô được” (PVS, Nữ, 39 tuổi, làm ruộng). Khi đã quyết định ra đi để cải thiện kinh tế thì điều cốt yếu trong tình cảm vợ chồng là phải tin tưởng lẫn nhau hoặc sống với nhau lâu ngày thì biết tính cách của vợ/chồng mình nên giữa họ không có chỗ cho việc nghi ngờ lẫn nhau. Tin tưởng nhau dường như là giá trị thiết yếu cần phải có khi họ sống xa nhau. Đó là động lực để cả vợ và chồng cùng cố gắng để vượt qua những khó khăn thử thách. “Thì cũng phải tin tưởng nhau thôi. Đã xác định cho vợ đi làm kinh tế thì phải chấp nhận thôi. Chồng cũng phải chịu thiệt thòi là vợ chồng không được gần nhau rứa nà. Chứ không được như vợ chồng nhà khác, còn thì chuyện kia thì mình tin nhau là chính ” (PVS, Nữ, 43 tuổi, làm ruộng). Tuy nhiên bên cạnh những cặp vợ chồng tin tưởng nhau thì cũng những người cảm thấy hoang mang, lo lắng, nghi ngờ bạn đời khi họ ở cách nhau quá xa về mặt địa lý. Khi sự hoang mang, nghi ngờ 229 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 người bạn đời ngày càng lớn sẽ trở thành mầm mống của những bất hòa mâu thuẫn trong gia đình.“Cứ nghi ngờ chú ở nhà có người thứ ba, thế này thế khác. Gớm đời. Nói thật với con chứ muốn đi thế này thế khác cũng phải có máu mặt, phải có tiền mới đi được chứ” (PVS, Nam, 37 tuổi, làm ruộng). Trong khoảng thời gian xa nhau, điện thoại là phương tiện phổ biến nhất giữa người đi và người ở nhà. Những cuộc điện thoại, dù ngắn hay dài đã rút ngắn khoảng cách, bù đắp sự thiếu thốn tình cảm khi đi xa. Ở đây không chỉ có người đi liên lạc về cho gia đình mà người ở nhà khi nhớ nhung, lo lắng cho người đi cũng liên lạc sang. “Vì nhớ vợ nhưng không có tiền nên gọi sang chút a rứa. Cứ hỏi là em đi làm về chưa, ăn cơm chưa. Cứ vậy thôi rồi cúp máy” (PVS, Nữ, 40 tuổi, làm ruộng). Khi điện thoại chưa phổ biến, viết thư cũng là một hình thức để người ở nhà và người đi thể hiện tình cảm với nhau, động viên nhau vượt qua những khó khăn của cuộc sống, cùng hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn cho cả gia đình. Nội dung mà họ trao đổi thể hiện sự quan tâm lo lắng của người đi dành cho người ở nhà và ngược lại. Vấn đề được người đi quan tâm nhất là tình hình sức khỏe của con cái, vợ/chồng, công việc, ăn uống sinh hoạt ở nhà, học hành của con cái. Trong khi đó, người ở nhà thường quan tâm đến sức khỏe, công việc và những khó khăn khi bạn đời của mình phải ở xa xứ một mình. Đối với những người đi làm việc tại Đài Loan và Hàn Quốc vì cước phí điện thoại rẻ nên họ có điều kiện gọi điện thoại về nhà thường xuyên hơn, trao đổi được nhiều hơn so với những người đi làm việc ở thị trường khác. “Có chứ, hầu như là ngày một. Điện thoại bên nớ rẻ. Chỉ có không có chát như dừ thôi. Ngày xưa không có chát, nói chuyện bình thường ri nầy” (PVS, Nữ, 45 tuổi, công nhân). Còn đây là chia sẻ của một nữ lao động đi làm việc tại Malaysia: “Có, ngày nào cũng gọi nhưng mà nghe tiếng là được. Khổ nỏ có tiền mà gọi nà” (PVS, Nữ, 40 tuổi, làm ruộng). Có thể nói rằng việc phải ở xa nhau lâu ngày cũng có những tác động tích cực của nó. Khi trở về đoàn tụ với nhau, niềm vui lớn nhất là họ cảm thấy tình cảm vợ chồng gắn bó, và yêu thương nhau hơn trước. Nhiều người không ngần ngại chi sẻ rằng khi trở về tình cảm của vợ chồng họ như quay lại thời kỳ vợ chồng son. “…vợ chồng xa nhau lâu ngày có nhiều chuyện để nói lắm, cứ cả ngày như vợ chồng son. Nhưng sau lâu dần rồi thì cũng bình thường, nhưng mà biết quý trọng nhau hơn. Anh nhà chị còn khen chị biết nấu ăn hơn, gọn gàng sạch sẽ hơn, biết ăn nói hơn” (PVS, Nữ, 43 tuổi, làm ruộng). Tuy nhiên, số người cảm thấy tình cảm của vợ chồng họ đươc cải thiện hơn trước không nhiều. Đa phần người đã lập gia đình (có 11 trong số 15 người được phỏng vấn) cho biết khi trở về mối quan hệ giữa vợ chồng họ vẫn bình thường như trước khi đi, không có gì thay đổi. Điều này không có nghĩa là tình cảm vợ chồng của họ luôn êm đẹp khi họ vắng nhà, 230 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 mà do người phụ nữ đã bao dung, bỏ qua hết những chuyện đã xảy ra trong thời gian họ vắng nhà kể cả việc chồng mình không chung thủy. Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân và những mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng Trong báo cáo tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống gia đình tại Thái Bình của Tổ chức Health Bridge Canada đã cho thấy: mặc dù ý thức được nguy cơ tổn thương tình cảm gia đình, nhưng đa số các cặp vợ chồng xuất khẩu lao động có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, phổ biến hơn ở nam giới. Mối quan hệ này cả nam và nữ có thể là “bóc bánh trả tiền”, cũng có thể là cặp bồ ( Health Bridge Ca nada, 2008, tr.70). Khi tìm hiểu về vấn đề quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của các cặp vợ chồng trong thời gian đi xuất khẩu lao động ở Hưng Tây, chúng tôi cũng thu được những kết quả tương đồng với kết quả trên của nhóm nghiên cứu tại Thái Bình. Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả nhóm người đi lẫn người thân của họ đều thừa nhận rằng việc có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân trong thời gian xa nhau là có thật, điều này xảy ra cả với nam và nữ. Đặc biệt nó xảy ra khá phổ biến đối nam giới, kể cả khi họ là người đi xuất khẩu lao động hay là người ở nhà. Nhiều ý kiến cho rằng họ dù có “đi đâu, làm gì” thì cuối cùng vẫn trở về với gia đình. Một số người còn coi việc nam giới có tình dục ngoài hôn nhân trong thời gian vợ đi vắng là chuyện hiển nhiên, bình thường trong xã hội ngày nay. Phải chăng vì suy nghĩ khá thoáng này mà tỷ lệ nam giới tình dục ngoài hôn nhân nhiều hơn nữ giới? Việc kiểm soát tình cảm, nhu cầu sinh lý đối với nam giới trong thời gian xa vợ khá khó khăn và phần lớn trong số họ không thể vượt qua được. Chia sẻ của một phụ nữ đi lao động về việc ngoại tình của chồng trong thời gian chị ở nước ngoài: “Ở nhà khi đó cũng có nhiều chuyện xảy ra. O đi rồi dượng ở nhà đi “rông”, ông bà nói không được. Con cái gửi bên ông bà lo cho rồi là đi mất mặt luôn. Có lúc ông bà làm căng thế là bỏ lên trên đó ở với con đó (bồ) luôn. Hoảng quá nên ông bà bắt o về, ông nói không về mất chồng đừng trách. Vậy là o về. O về thì dượng lại bình thường. O cũng tức lắm nhưng nhắm phải mắt cho qua” (PVS, Nữ, 39 tuổi, làm ruộng). Chia sẻ của người vợ có chồng đi làm việc tại Hàn Quốc: “Bức xúc quá thì giải quyết nhanh (quan hệ với gái mại dâm) chứ chậm (cặp bồ lâu dài) thì không mô. Mấy anh đi về không nói chuyện với mình mô, thấy mấy anh ngồi nói chuyện với nhau, mình nghe rứa” (PVS, Nữ , 26 tuổi, làm ruộng). Đối với phụ nữ, mặc dù xã hội đã có cái nhìn cởi mở hơn nhưng do những định kiến về đạo đức, ràng buộc về mặt tôn giáo, gia đình nên tình trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân ít xảy ra hơn. Nhu cầu tình dục là một nhu cầu hết sức bình thường, nhưng những người phụ nữ vẫn tỏ ra dè dặt khi đề cập đến vấn đề này. Hầu hết những người được hỏi cho biết họ không có quan hệ ngoài hôn nhân mặc dù họ thừa nhận việc này có xảy ra với bạn bè, đồng 231 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 nghiệp, hàng xóm láng giềng của của họ. “Nhiều khi thì cũng có. Khi mình làm trong trại dưỡng lão thì cũng gặp nhiều ông già mà vợ họ mất hoặc bỏ vợ lâu rồi nà, họ cứ hay “gây sự” với mình. Nhiều khi họ cứ lừa mình là a rứa a tê (quan hệ với họ) rồi họ cho tiền nhưng mình nỏ a rứa, mình cho nghiêm thì thôi. Nói chung là đi mô cũng nỏ khỏi được. Họ cứ nghĩ mình đi xa chồng xa con ấy. Nhưng cũng có người thôi chứ mình không có cái tính (trăng hoa) nớ thì thôi. Nói thật ở nhà một đoàn con, phải lo cho con cho cái chứ nỏ nghĩ chi cái chuyện nớ (tình dục) cả” (PVS, Nữ, 46 tuổi, làm ruộng). Thế nhưng một khi người phụ nữ đi xa, không vượt qua được sự cám dỗ, sự thiếu thốn tình cảm thì nguy cơ hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ lại rất cao. Vấn đề này có hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, do ở xa gia đình lâu ngày người phụ nữ không tránh khỏi cảm giác cô đơn, cần có người ở bên để chia sẽ, dựa dẫm dẫn đến việc ngoại tình. Khi bị phát hiện, chồng của họ và gia đình không bao dung và tha thứ cho hành động đó của họ dẫn đến sự đỗ vỡ trong hôn nhân. Trường hợp thứ hai, với một số người phụ nữ, sau thời gian làm việc và sống trong môi trường xã hội văn minh, hiện đại hơn, họ bắt đầu có thái độ so sánh cuộc sống ở nhà và cuộc sống ở nước ngoài, bắt đầu so sánh chồng mình với những người đàn ông khác. Từ đó họ có thái độ không bằng lòng với cuộc sống, với chồng con. Bản thân không muốn trở về với cuộc sống vất vả trước đây, họ có người đàn ông khác mà họ cho là lý tưởng hơn chồng mình ở nhà nên dẫn đến những mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng và ly hôn. Một trường hợp chia sẻ về lý do ly hôn của vợ chồng họ: “Cái này nói một cách khách quan thì chắc chắn họ có một người nào đó xúi giục, hoặc có một người nào đó theo đuổi. Cái này thì không phải nói xấu đâu nhưng mà cái trường hợp như ri xảy ra nhiều rồi. Đó là khi người ta đi ra rồi có bồ bịch này khác, rồi bắt đầu suy nghĩ là cái anh đó, cái ông đó hơn hẳn chồng mình ở nhà. Ví dụ như về diện mạo thì đẹp hơn, biết cách cư xử, làm ra tiền này, mà ở nhà chồng mình thì cù lần, áo thì rách, khố thì ôm” (PVS, Nam, 37 tuổi, làm ruộng). Ngày nay trong xã hội hiện đại, người Việt đã bắt đầu có cái nhìn thoáng hơn về vấn đề tình dục ngoài hôn nhân. Vấn đề quan hệ tình dục ngoài hôn nhân dễ dàng được chấp nhận hơn so với trước đây rất nhiều, nhất là khi nó xảy ra với những người đàn ông. Còn đối với phụ nữ dường vấn đề này còn khá khắt khe bởi lẽ từ trước đến nay xã hội vẫn đề cao lòng chung thủy của người phụ nữ. Lý do để biện minh cho việc có quan hệ ngoài hôn nhân được là vì vợ chồng xa nhau lâu ngày nên thiếu thốn tình cảm, cần chỗ dựa về mặt tinh thần, bức xúc nhu cầu sinh lý. “Thì cũng có bồ bịch. Nhưng đàn bà người ta cần tiền, hết tiền rồi thì thôi chứ gì. Hồi chị về anh cũng xin lỗi chị rồi, chị thấy cũng tại ở nhà buồn, với lại đàn ông mà. Đi thì đi nhưng vẫn về với vợ con, chị cũng xác định đi vì kinh tế nên coi chuyện đó là chuyện xã hội, nên bỏ qua. Chứ dừ cha mẹ cắn nhau thì tội con. Chỉ tiếc là chị tin chồng quá 232 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 gửi tiền về hết không giữ lại nên khi về nỏ có đồng mô cả” (PVS, Nữ, 42 tuổi, làm ruộng). Bên cạnh những trường hợp không vượt qua được những bức xúc về tình dục, thì vẫn có những người vượt qua được trở ngại đó khi nghĩ về sự vất vả, tin tưởng của người ở nhà cũng như sợ bị bệnh lây qua đường tình dục. “Những lúc nhớ vợ thì gọi điện về, nói chuyện với vợ nọ kia thôi. Còn không thì tự lo. Chứ vợ nó cũng dặn đừng đi ra ngoài mà bị xi – đa đó. Sang vài năm rồi về với vợ cho an toàn. Bệnh thì ai cũng sợ, ai cũng lo, đen cái xi –đa là hết đời luôn. Mà ở nhà còn vợ với hai đứa con, cứ nghĩ đến kiếm tiền nuôi con rồi cũng qua. Vợ ở nhà cũng lam lũ vất vả. Vừa nuôi con nuôi bà, làm rọng (làm ruộng) nên mình cũng lo kiếm tiền thôi” (PVS, Nam, 38 tuổi, làm ruộng). Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, có con ngoài giá thú là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn giữ các cặp vợ chồng và kết quả của nó có thể dẫn tới ly thân, xa hơn nữa là ly hôn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi có tiếp cận được với bốn trường hợp bao gồm một trường hợp đã ly hôn và ba trường hợp ly thân chủ yếu là do vợ/chồng của họ ngoại tình. Còn lại các trường hợp khác hầu hết những người phụ nữ đều chấp nhận bỏ qua để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Xã hội ngày càng phát triển, vị thế của người phụ nữ đang ngày càng được nâng lên; nhưng ở các làng quê, tình trạng bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại phổ biến, đặc biệt là trong quan hệ vợ chồng. Mặc dù đã có những bước tiến đáng ghi nhận trong việc nâng cao vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình và cộng đồng nhưng qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy rằng phụ nữ vẫn là nhóm chịu nhiều thiệt thòi hơn. Dù họ biết việc chồng họ có quan hệ ngoài luồng nhưng vẫn bao dung, tha thứ. Chính nhờ sự bao dung, hi sinh đó nên họ vẫn giữ gìn được sự bình yên, vui vẻ trong gia đình. “Dượng cũng có vẻ ăn năn xấu hổ, với lại o nghĩ cho con cái. O cũng nghĩ như mự L đó tề, mự ấy đi, ông T ở nhà có con riêng đó. Vậy mà mự ấy còn tha thứ được. Mình thì chưa đến nỗi đó nên thôi…Đàn ông là vậy. Nhiều khi vì o đi xa nên dượng mới sinh ra cái tật đó chứ trước đó o ở nhà dượng có như rứa mô mồ. Vợ chồng với nhau bỏ qua được cái gì thì bỏ để cho gia đình nó êm ấm” (PVS, Nữ, 39 tuổi, làm ruộng). Những bất đồng trong việc sử dụng, chi tiêu tiền gửi về cũng là một trong những lý do dẫn đến tình trạng “Cơm chẳng lành canh chẳng ngọt” trong gia đình. Điều mà phần lớn người đi mong đợi là số tiền mình kiếm được sẽ giúp cho kinh tế gia đình được cải thiện, cuộc sống của vợ/chồng và con cái họ sẽ tốt hơn; cho nên dù vất vả, cực khổ ở xứ người nhưng họ vẫn cố gắng vượt qua. Đáp lại sự hi sinh vất vả đó người ở nhà cũng cố gắng tằn tiện, làm việc, chi tiêu đúng mục đích số tiền gửi về. Tuy nhiên cũng có một bộ phận người ở nhà có thái độ ỉ lại, trông chờ vào số tiền gửi về nên chây lười, không chịu vươn lên trong lao động, 233 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 sử dụng hoang phí không đúng mục đích, thậm chí là sa vào các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, đề đóm, từ đó làm xói mòn lòng tin của gia đình, của người đi và dẫn tới những mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng của họ. “Kinh tế thì cũng được. Nhưng vợ đi rồi chồng ở nhà cậy có tiền rồi nỏ làm chi. Suốt ngày ngồi trên xe máy, lượn tới lượn lui. Sáng nào cũng thấy uống cà phê với ăn phở. Có đi đâu nữa không thì không biết. Nhưng vợ về rồi thì vợ chồng cũng hục hặc, cãi nhau. Không đến mức bỏ nhau nhưng cũng mất tin tưởng. Vậy nên mới nói tốt hơn hết là vợ ở mô thì chồng đó” (PVS, Cha mẹ có con đi Đài Loan). Ngoài ra còn một nguyên nhân khác dẫn tới mâu thuẫn trong gia đình đó là sự thay đổi về nhận thức, hành vi, ứng xử của những người đi. Theo quan niệm từ trước đến nay thì người chồng, người đàn ông trong gia đình luôn đóng vai trò là trụ cột về kinh tế của cả nhà. Ở nghiên cứu này, khi vai trò đó thay đổi, người phụ nữ là người tạo ra thu nhập chính cho cả gia đình và trở thành trụ cột về kinh tế thì nhận thức của người phụ nữ về vị trí và vai trò của mình trong gia đình sẽ khác đi. Từ đó dẫn đến hành vi ứng xử của họ cũng thay đổi; đặc biệt là sau khi trải nghiệm những văn hóa của nước từng làm việc. Nhiều phụ nữ khi trở về họ bắt đầu có sự so sánh về cuộc sống khi ở nhà và khi còn ở nước ngoài. Thậm chí có những người tỏ thái độ coi thường chồng ở nhà không làm ra tiền, chỉ sống dựa vào đồng tiền họ kiếm được gửi về, có sự phân biệt trong tài chính “của tôi, của anh”, không thấy được vai trò của người ở nhà dẫn đến những bất hòa xung đột, bạo lực và ly hôn. “Ả về thì nỏ coi chồng ra chi. Ả về thì thấy mình có tiền có của, rồi có quyền. Mà bác nghĩ chắc chắn là có bồ bên nớ. Vì về khác hẳn, về coi chồng nỏ ra cái chi cứ coi trọng các thứ như tiền, của. Từ đó thì vợ chồng bắt đầu xích mích chắc. Ả đi về thì có tiền mà, còn chồng thì ở nhà đi cái xe cọc cạch vì lo làm nhà với nuôi con ăn học. Ả về cũng thấy nhờ đằng ngoại đi mua cho cái xe chứ cũng không nói chi với chồng con. Mua về dựng cái đó để đi thôi. Về đối đãi nỏ a răng rồi vợ chồng hục hặc” (PVS, Nam, 57 tuổi, xóm trưởng). Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu lao động đã có tác động rất lớn đến hạnh phúc gia đình của người lao động. Bên cạnh những tác động tích cực như làm cho các cặp chồng biết thông cảm, chia sẻ tôn trọng nhau hơn, hâm nóng tình cảm của họ dành cho nhau thì xuất khẩu lao động cũng đã mang lại những hệ quả không mấy tốt đẹp đối với hạnh phúc gia đình. Trên thực tế nghiên cứu tại địa bàn xã Hưng Tây đã cho thấy những tác động tiêu cực của xuất khẩu lao động đến hạnh phúc gia đình ngày càng rõ nét gây bức xúc trong cộng đồng dân cư ở đây. Biểu hiện cụ thể là tình trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân khá phổ biến, những bất hòa xung đột trong gia đình dẫn đến tình trạng ly thân, ly hôn diễn ra khá nhiều như nhận định của một cán bộ xã:“Tất nhiên cái chuyện này cũng có ảnh hưởng. Bởi vì một năm xã đây cũng giải quyết hơn mười vụ ly hôn. Trong đó có liên quan đến yếu tố xuất khẩu lao động như 234 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 khi đi về vợ chồng khúc mắc, bất đồng về kinh tế, bất đồng về hôn nhân chiếm 70% trong những đôi ly hôn” (PVS, Nam, 53 tuổi, cán bộ xã). Ngoài ra việc trông chờ vào số tiền gửi về của người lao động đã tạo ra ra tâm lý sống dựa vào người khác, không chịu vươn lên trong lao động, sản xuất của một bộ phận người ở nhà, từ đó gây ra những bất đồng trong quan hệ vợ chồng. 1.2. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái Khi tìm hiểu tác động của xuất khẩu lao động đến quan hệ của cha mẹ và con cái trong gia đình, chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ giữa cha mẹ có con cái đi xuất khẩu lao động và mối quan hệ giữa cha mẹ đi xuất khẩu lao động với con cái của họ ở nhà. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng quan hệ giữa cha mẹ với những người con đi xuất khẩu lao động bị ảnh hưởng không nhiều. Phần lớn việc đi xuất khẩu lao động của con cái đều có được sự ủng hộ, quan tâm giúp đỡ về mặt tài chính cũng như tình cảm của các bậc cha mẹ. Việc con cái đi xuất khẩu lao động còn thể hiện sự hi sinh, lo lắng cho con cái của các đấng sinh thành. Ngược lại khi đi làm việc ở nước ngoài con cái có điều kiện giúp đỡ, lo lắng cho cha mẹ nhiều hơn. “Ông bà ở nhà thì nỏ sắm sửa chi mô chị. Em về em mới sắm cho hết đó. Cũng muốn cho cha mẹ đầy đủ chút, coi như báo đáp cha mẹ” (PVS, Nam, 29 tuổi, công nhân). Trong những gia đình có cha/mẹ đi xuất khẩu lao động thì sự tác động của xuất khẩu lao động đến mối quan hệ của cha mẹ và con cái rõ rệt hơn. Hầu hết những người đã lập gia đình trong nghiên cứu này đều đi xuất khẩu lao động khi con cái còn nhỏ tuổi, độ tuổi cần sự quan tâm, che chở, bao bọc của cha mẹ. Sự thiếu vắng tình thương của cha/mẹ trong một thời gian dài đều gây cho trẻ những ảnh hưởng nhất định. “Tui thương hai đứa cháu thôi. Thương là thương nó không được như bạn bè, thiếu thốn tình cảm cha mẹ. Ở với ông bà làm răng mà bằng cha mẹ được. Thằng nhỏ thì nó mau khuây khỏa chứ con lớn nhiều khi thấy nó ngồi thừ ra là tui biết nó tủi thân rồi” (PVS, Nữ, 63 tuổi, có con đi Malaysia). Trong nghiên “Tác động của xuất khẩu lao động đến cuộc sống gia đình tại tỉnh Thái Bình”, nhóm tác giả đã chỉ ra rằng “xét cả góc độ hiệu quả kinh tế và tính ổn định, bền vững của gia đình nên giảm tỷ lệ phụ nữ đã có gia đình, đặc biệt là phụ nữ có con nhỏ, tham gia xuất khẩu lao động” (Health Bridge Canada, 5/2008,tr.71). Chúng tôi đồng ý với kết luận là “nên giảm tỷ lệ phụ nữ đã có gia đình đi xuất khẩu” mà nhóm nghiên cứu đưa ra. Tuy nhiên, trong nghiên cứu tại Hưng Tây lại cho thấy một điểm khác biệt đó là: từ ý kiến của chính người đi xuất khẩu lao động, người thân và cán bộ thôn xóm đều cho thấy khi con cái bắt đầu trưởng thành, bắt đầu có nhận thức rõ ràng thì cha mẹ nên ở nhà để giáo dục, quản lý con cái. Cha/mẹ nên đi xuất khẩu lao động khi con cái còn nhỏ sẽ ít dẫn tới những hệ quả tiêu cực hơn 235 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 so với khi trẻ lớn. Phần lớn người lao động cho rằng, ở tuổi còn nhỏ các con của họ chưa nhận thức được việc thiếu vắng cha mẹ và sự thiếu vắng này cũng không dẫn tới điều gì nghiêm trọng so với khi con cái ở độ tuổi lớn hơn (khoảng từ lớp 9 trở lên). Ở độ tuổi lớn hơn, con cái của họ cũng hiểu biết rõ hơn và bắt đầu có sự thay đổi về mặt tâm sinh lý nên họ cho rằng giai đoạn này sự quan tâm, chia sẻ thường xuyên của cha mẹ rất quan trọng, đặc biệt là bàn tay chăm sóc, chỉ bảo của người mẹ. Vì thế cho nên khi được hỏi “Nếu có điều kiện đi xuất khẩu lao động lần nữa anh/chị có muốn đi không?”, nhiều người trả lời là “không”. Lý do mà họ đưa ra là con cái đã lớn cần có sự chăm sóc của mình. “Không, chắc dừ thì chị nỏ đi nữa mô. Dừ con cái a ri nầy nên chị phải ở nhà để lo cho con cho cái. Vì con cái nó lớn rồi nà, mà nhất là con gái. Dừ có con gái cũng lo, con trai cũng lo nên ở nhà để mà đốc thúc nó học hành vì giai đoạn cuối (giai đoạn học cấp 3) ni nầy. Giai đoạn này cần mẹ ở bên để mà động viên nó” (PVS, Nữ, 43 tuổi, làm ruộng). Đồng tình với ý kiến của người lao động, người thân của họ và những người đại diện cho cộng đồng cũng cho rằng khi con cái lớn hơn, cha mẹ nên ở nhà, đặc biệt là mẹ. “Ở ta đây phải có cái nghề cầm tay chứ không thì phải đi xuất khẩu lao động. Nhưng mà đi con lớn phải về chứ không rồi con hư” (PVS, Nam, 54 tuổi, xóm trưởng). Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phụ nữ nên đi xuất khẩu lao động khi con cái còn nhỏ hay khi con cái bước vào độ tuổi lớn hơn (độ tuổi bắt đầu có những thay đổi về tâm sinh lý) để giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực đối với trẻ? Câu trả lời chung cho mọi đối tượng dường như vẫn chưa thể rõ ràng. Nhưng xét trong phạm vi nhỏ hơn thì việc nên đi xuất khẩu lao động khi con cái ở độ tuổi nào thì thích hợp nhất còn phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình. Việc ở xa con cái khi con cái còn quá nhỏ là điều không ai muốn, tuy nhiên vì miếng cơm manh áo của cả gia đình, vì tương lai của con cái nên đa số người đi xuất khẩu lao động đều nén lại tình cảm của mình. Sự nhớ nhung, lo lắng cho con cũng là một trong những động lực để họ cố gắng vượt qua những khó khăn nơi đất khách quê người. Một vấn đề khác mà hầu hết người đi và người ở nhà đều quan tâm là vấn đề chăm sóc, giáo dục con cái. Việc chăm sóc, dạy bảo con cái là trách nhiệm chung của cả vợ lẫn chồng. Cho nên khi vợ/chồng đi xuất khẩu lao động cũng đồng nghĩa với việc người ở nhà sẽ phải gánh trách nhiệm nặng nề hơn. Đó thực sự là một vấn đề rất khó khăn, là nỗi lo lắng của cả người đi và người ở nhà, nhất là với những gia đình có mẹ đi xuất khẩu lao động. Những người phụ nữ trong nghiên cứu này có xu hướng đánh giá cao hơn vai trò của mình trong việc chăm sóc con cái so với đàn ông. Họ coi đó như là thiên chức, là bổn phận của người phụ nữ. Khoảng thời gian đi xuất khẩu lao động, đàn ông chỉ là người thay họ đảm nhận trách nhiệm này cho nên khi ở xứ người hầu hết họ đều lo lắng không biết chồng mình ở nhà chăm con có 236 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 tốt không, thiếu mẹ con cái có được đầy đủ không. “Nhiều khi ở bên nớ cứ nghĩ là dừ mẹ ở đây, không biết con đã ăn cơm chưa, có ai tắm rửa cho chưa?” (PVS, Nữ, 46 tuổi, làm ruộng). Trên thực tế, không thiếu các trường hợp người ở nhà không đảm trách được trách nhiệm chăm sóc con cái nên phải nhờ đến những người thân trong gia đình như ông bà, chú bác, cậu mự chăm sóc giúp. Có được sự hỗ trợ từ phía những người thân, anh em trong gia đình trong việc chăm sóc con cái giúp cho người đi xa phần nào yên tâm hơn về con cái ở nhà. Khoảng thời gian vợ đi vắng trách nhiệm lớn lao nhất của người đàn ông là thay vợ chăm sóc con, nhưng khi trách nhiệm này được người thân gánh giúp thì họ có phần nhàn rỗi hơn và cũng dễ vướng vào những vấn đề tiêu cực hơn như bài bạc, rượu chè, bồ bịch hơn. “Chăm mô mà chăm. Ăn rồi suốt ngày đi lụa (chơi bời). Ông ấy mà nuôi con thì nói mần chi nữa. Con cái cậu mự nuôi. Cậu mự ăn chi thì quân ni ăn nấy. Áo quần cậu mự lo. Hết bao nhiêu tiền thì cứ rứa mà trừ nà” (PVS, Nữ, 45 tuổi, công nhân). Việc giáo dục, kèm cặp con cái cũng một vấn đề khiến cả người đi lẫn người ở nhà lo lắng bởi giáo dục trong gia đình cũng đóng vai trò rất quan trọng trong hoàn thiện nhân cách của con trẻ. Giáo dục con cái là trách nhiệm chung của cả cha lẫn mẹ, khi thiếu vắng vai trò giáo dục của cha hoặc mẹ đều gây ra những khó khăn nhất định cho người ở nhà. Nó đòi hỏi người ở nhà phải nỗ lực hết mình mới có thể lấp đầy khoảng trống này. Nhiều người trường hợp cho biết khi họ vắng nhà vợ/chồng của họ kèm cặp, dạy dỗ con chu đáo nghiêm khắc nên con cái vẫn ngoan, biết nghe lời. Con cái ngoan ngoãn, biết nghe lời là niềm an ủi, động viên rất lớn đối với người lao động. Đồng thời nó cũng giúp cũng cố niềm tin của người đi đối với người ở nhà. Tuy nhiên, có không ít phụ nữ lo ngại về việc kèm cặp, dạy dỗ con cái của chồng mình ở nhà. Cha mẹ là tấm gương để con cái học tập nên nếu chồng ở nhà sa vào cờ bạc, rượu chè, gái gú thì sẽ không dạy bảo, kèm cặp được con, dẫn đến con cái cũng sa vào các tệ nạn xã hội; đặc biệt là khi con họ ở tuổi vị thành niên. Sự lo lắng đó của người đi không phải là không có căn cứ. Bởi vì có không ít trường hợp người ở nhà bỏ bê, buông lỏng sự quản lý với con cái hoặc không thể quản lý, kèm cặp được con cái. Và hệ quả là con cái hư hỏng, học hành sa sút, quậy phá, trộm cắp phải đi trại giáo dưỡng. “Về được đồng nào thì vưa trả nợ cho chồng con. Ở nhà cha bài bạc, con cụng bài bạc đề đóm. Khi nớ chị không gửi tiền cho nên còn đòi bán nhà nữa mà” (PVS, Nữ, 40 tuổi, phục vụ quán ăn). “Mẹ đi thì con ở nhà phá hơn, vì cha ở cũng phá mà. Cha đánh bài con cũng đánh bài, rồi mấy đứa nhỏ rủ nhau đi bụi. Tiếc nhất là con nhà PL, hai đứa con học giỏi lắm, vậy mà mẹ đi Đài Loan rồi đi Malaysia nên con hư hết. Học hết lớp 10 thì bỏ học rồi theo mấy đứa trong xóm trộm tiền bỏ nhà đi bụi vô nam cả tháng” (PVS, Nam, 54 tuổi xóm trưởng). Từ trước tới nay, trình độ học vấn luôn được đề cao trong xã hội Việt Nam, đặc biệt là 237 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 ở vùng nông thôn, nơi học vấn được coi là cơ hội thoát nghèo và cơ hội thay đổi cuộc sống. Thực tế đã chứng minh, nhiều gia đình dù nghèo đến đâu cũng cố gắng cho con ăn học đến nơi đến chốn để mong con sau này không phải vất vả như cha mẹ. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho học sinh, sinh viên nhằm khuyến khích việc học tập ở tất cả các cấp học, nhưng việc chi trả các khoản chi phí cho việc học tập vẫn là một gánh nặng với các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Do đó, xuất khẩu lao động đã góp phần không nhỏ vào việc trang trải các chi phí học hành này, giảm thiểu tỷ lệ trẻ em bỏ học giữa chừng. Phần lớn các gia đình trong nghiên cứu đều sử dụng tiền gửi về để trang trải, đầu tư cho con cái học hành. Có điều kiện đầu tư cho con học hành ở trường, học thêm nên một số trường hợp cho biết con cái của họ học hành tiến bộ hơn. Tuy nhiên, họ cũng thừa nhận rằng không chỉ có sự đầu tư tiền bạc cho con học hành là đủ mà bên cạnh đó cha/mẹ ở nhà hoặc người thân trong gia đình phải kèm cặp, nhắc nhở con cái thì kết quả học tập mới tốt lên được. “Lúc khổ, con về xin tiền học thì cứ nói con hi hắt hi hủi nhưng mà hi sinh đi được rồi là lo cho con ăn học đầy đủ. Dì nói bố hấn là “đi họp phụ huynh cô thầy nói đóng tiền bảo hiểm, xây dựng, bảo hiểm y tế chi là đóng hết cho con. Nói chung học phí học phiếc chi là anh lo mà đóng một lần luôn”. Dừ đứa mô cũng nộp đầy đủ cả thì nó lo mà học. Con nít thì rứa đó. Có tiền lo đầy đủ thủ tục thì nó lo học, yên tâm học. Chứ dừ mà cứ để cho cô bữa ni nhắc, mai nhắc thì hấn về hấn cũng bực tức, hấn nỏ muốn học” (PVS, Nữ, 43 tuổi, làm ruộng). Bên cạnh việc có điều kiện để chăm lo cho con cái học hành thì việc đi xuất khẩu lao động của cha/mẹ cũng đã có những tác động tiêu cực đến kết quả học tập của con cái. Một số trường hợp cho biết việc đi xuất khẩu lao động của bản thân họ hay vợ/chồng họ có tác động không tốt đến việc học hành của con. Lý do là cha/mẹ đi xuất khẩu lao động, con cái ở nhà thiếu người kèm cặp, quản lý, đốc thúc chuyện học hành nên kết quả học tập sa sút dẫn đến bỏ học. “Hồi đó hai đứa học giỏi lắm. Nhưng thằng anh lên lớp 10 học hành sa sút, bị bạn đánh nên bỏ học. Cũng khuyên răn mà không được. Thằng thứ hai không phá nhưng lại chơi bida rồi mê chát nên cũng theo anh bỏ học. Nó nói đi học mà có đi đâu. Cha thì lo đánh bài nên không quản được con. Dừ thì đỡ rồi. Thằng anh qua Malaysia với chị, làm cả ngày nên hấn không phá được” (PVS, Nữ, 42 tuổi, làm ruộng ). Ngoài ra tình trạng cha mẹ đi xuất khẩu lao động về có mâu thuẫn, xung đột với nhau dẫn đến sự rạn nứt trong gia đình đã gây cho trẻ tâm lý chán nản dẫn đến học hành sa sút. “Nói chung học hành nó không muốn học nữa, nói chung là học cũng nỏ vô. Nói học không biết chi thì cũng không phải nhưng mà học hành kém hẳn luôn. So với trước thì kém hẳn luôn, đi học là thiếu điểm liên tục. Cũng do bố mẹ không hòa hợp với nhau nên mới rứa” (PVS, Nam, 37 tuổi, làm ruộng). 238 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Hiện nay, ở Hưng Tây tình trạng học sinh, sinh viên nghỉ học để đi xuất khẩu lao động không còn là điều hiếm thấy. Ở một số thôn xóm người dân coi xuất khẩu là con đường nhanh nhất để thoát nghèo nên việc học tập không còn là vấn đề được quan tâm, được ưu tiên nữa. Điều quan trọng hơn ở đây là làm sao để đi xuất khẩu lao động nhanh nhất, kiếm được nhiều tiền nhất. “Tại hấn không đi đại học đó chứ. Hấn thích đi nước ngoài hơn. Hấn chỉ thấy cái lợi trước mặt là đi có tiền thôi, chứ ở nhà đi học kiếm cái nghề thì được lâu dài hơn. Dân ở đây người ta nỏ quan trọng học mô, cứ có tiền là ưng thôi. Thấy người ta đi về có tiền nên cũng muốn đi chứ không muốn học nữa” (PVS, cha mẹ - có con đi Angola). Còn người lao động lý giải nguyên nhân họ không muốn đi học nữa là vì học ra không xin được việc. “Tại thấy học ra mà nỏ có ai xin được việc cả. Học thì tốn kém tiền bạc nên em nghỉ”(PVS, Nam, 29 tuổi, công nhân). Như vậy, dù ở độ tuổi nào đi chăng nữa khi cha/mẹ đi xa trong một thời gian dài thì trẻ vẫn phải chịu những thiệt thòi, những thiếu thốn nhất định về tình yêu thương và sự chăm sóc của cha mẹ. Ngoài ra khi trong gia đình có cha/mẹ đi xuất khẩu lao động thì việc giáo dục con cái bị ảnh hưởng rất nhiều. Nhất là những gia đình có mẹ đi xuất khẩu lao động vì phụ nữ ở nhà thì việc chăm sóc, quản lý, giáo dục con cái tốt hơn. Không thể phủ nhận rằng chính nhờ nguồn thu nhập từ xuất khẩu lao động nên con cái học hành được tốt hơn nhưng bên cạnh đó việc thiếu người chăm sóc, quản lý, giáo dục con cái đã gây ra những hệ lụy không mấy tốt đẹp. Đó là tình trạng con em trong các gia đình học hành sa sút, quậy phá, trộm cắp, bài bạc thậm chí phải đi trại giáo dưỡng. Tình trạng trên không chỉ là vấn đề nhức nhối trong gia đình mà nó đã trở thành nỗi lo chung của cả cộng đồng cư dân nơi đây bởi nó làm cho tình hình an ninh, trật tự tại thôn xóm trở nên phức tạp hơn. 1.3.Những thay đổi trong nhận thức và hành vi ứng xử trong sinh hoạt hằng ngày Vấn đề chăm sóc sức khỏe Sức khỏe của các thành viên trong gia đình là một vấn đề mà khi đi xa người lao động quan tâm nhiều nhất. Điều này thể hiện ở chỗ khi gọi điện thoại về nhà bao giờ họ cũng hỏi thăm tình hình sức khỏe của các thành viên trong trong gia đình, đặc biệt là sức khỏe của con cái. Việc đi xa của người lao động, nhất là những lao động nữ đã có gia đình thì vấn đề chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng cho cả nhà ít nhiều cũng bị xáo trộn bởi khi ở nhà họ thường là người đảm nhận chính công việc này. “Các chị lấy chồng rồi thì ở nhà với bố nên cũng lười nấu cơm, cứ phải ăn quán ăn phở chi suốt i. Ăn uống không điều độ chi cả, bữa thì ăn bữa trưa, bữa thì ăn bữa tối rứa nà. Thấy vậy nên cứ lo, lo nên mới về về với hấn đó. Mẹ về có khác hơn vì mẹ nấu cho ăn đầy đủ nên hấn to hẳn” (PVS, Nữ, 46 tuổi, làm ruộng). Phần lớn người lao động trong nghiên cứu này đều có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó 239 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 khăn, phải chạy ăn từng bữa nên chất lượng bữa ăn, sinh hoạt của gia đình ít được quan tâm. Khi có nguồn thu nhập từ xuất khẩu lao động, kinh tế gia đình được cải thiện nên chất lượng cuộc sống, bữa ăn hằng ngày của các gia đình được nâng lên rất nhiều. Khi tìm hiểu tác động của xuất khẩu lao động đến vấn đề chăm sóc sức khỏe, chúng tôi nhận thấy rằng: trước khi đi xuất khẩu lao động các gia đình ít có điều kiện quan tâm đến chăm sóc sức khỏe, chất lượng bữa ăn và điều kiện sống. Trong thời gian cha/mẹ đi xuất khẩu lao động (đặc biệt là các gia đình có mẹ đi) kinh tế gia đình được cải thiện, các gia đình có điều kiện ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn nhưng lại thiếu người chăm sóc nên ăn uống cũng không được đều đặn, chu đáo. Khi người mẹ trong gia đình trở về thì vấn đề chăm sóc sức khỏe cho cả gia đình được nâng lên rõ rệt vì lúc này họ đã có điều kiện kinh tế khá hơn và có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ trong gia đình. “mình cũng sắm sửa được trong gia đình nên con cái nó cũng khỏe mạnh hơn. Ăn uống đầy đủ hơn. Khi mà đã có rồi thì con cái nó cũng khỏe mạnh hơn, đỡ ốm đau hơn này. Ăn uống đều đặn hơn nên nó đỡ hơn” (PVS, Nữ, 46 tuổi, làm ruộng). Khi kinh tế được nâng lên thì các gia đình cũng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ y tế tốt hơn. Lúc có thành viên trong gia đình bị ốm đau bệnh tật thì có điều kiện để lo lắng thuốc thang, chạy chữa tốt hơn lúc trước. “…được cái ông bà nội ngoại có ốm đau mình cũng có đồng tiền mà chạy đi chạy lại thuốc thang. Chứ như hồi trước nỏ có tiền mà lo cho ông bà đầy đủ” (PVS, Nữ, 43 tuổi, làm ruộng). Như vậy chính nhờ có nguồn thu nhập từ việc đi xuất khẩu lao động mà chất lượng cuộc sống của từng gia đình đã được nâng lên rất nhiều so với trước đây. Ngoài việc chất lượng bữa ăn được nâng lên, có điều kiện tiếp xúc với các dịch vụ y tế tốt hơn thì người đi về còn học hỏi được nhiều kinh nghiệm hơn, biết giữ gìn vệ sinh tốt hơn đã giúp cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên trong gia đình được cải thiện rõ rệt. Mặc dù trong giai đoạn người phụ nữ vắng nhà có thể việc quán xuyến công việc gia đình, ăn uống, sinh hoạt có bị xáo trộn và chưa thực sự tốt lên nhưng đến khi đi về đa số người lao động đều cho rằng việc chăm sóc sức khỏe của gia đình họ đã tốt hơn rất nhiều. 2. Những khác biệt về giới Những kết quả nghiên cứu trên đây cũng cho thấy có sự khác biệt về giới giữa nam và nữ và điều dễ nhận thấy nhất là trong vấn đề chăm sóc, giáo dục con cái. Hầu hết những ý kiến từ cộng đồng, chính quyền, người thân và người đi xuất khẩu lao động đều cho rằng phụ nữ ở nhà chăm sóc, kèm cặp con cái chu đáo hơn nam giới. Khi phụ nữ đi xuất khẩu lao động, nam giới ở nhà chưa làm tốt vai trò của mình. Vì những công việc này trước đây hầu hết là do 240 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 người phụ nữ đảm trách và họ coi đó là thiên chức của mình. Hơn nữa nhiều nam giới ở nhà thường bê trễ, buông lỏng quản lý hoặc không thể dạy bảo được con cái do bản thân họ cũng vướng vào các tệ nạn xã hội như bài bạc, rượu chè, gái gú. “…đàn bà ở nhà mà chăm con, đàn ông con trai tài cao hiểu rộng để cho nó đi vì đàn bà mà đi thì con hư nhiều hơn. Mà ở đây nhiều ông dừ cứ xui vợ đi để ở nhà cho rảnh rang, có tiền tiêu với đánh bài. Cha đánh thì không nói được con rứa là hư hết” ( PVS, Nam, 54 tuổi, xóm trưởng). Ngoài ra, vấn đề quan hệ tình dục ngoài hôn nhân trong thời gian vợ/chồng đi xuất khẩu cũng có thể hiện sự khác biệt về giới. Phần lớn ý kiến đồng tình rằng việc có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân xảy ra phổ biến hơn ở nam giới và ít hơn ở nữ giới. Ngày nay, xã hội đã bắt đầu có cái nhìn thoáng hơn về vấn đề tình dục nói chung và tình dục ngoài hôn nhân nói riêng. Việc các cặp vợ chồng có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân được dễ dàng chấp nhận hơn so với trước, nhất là khi nó xảy ra với nam giới. Có một bộ phận người được phỏng vấn còn cho rằng việc nam giới có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là hết sức bình thường trong xã hội hiện nay. So với nam giới thì việc phụ nữ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân được nhìn nhận khắt khe hơn bởi từ trước tới nay xã hội vẫn luôn đề cao lòng chung thủy của người phụ nữ Việt Nam. Do những định kiến xã hội và những ràng buộc về tôn giáo, đạo đức về vấn đề này nên phụ nữ thường dễ kiểm soát được những bức xúc về nhu cầu tình dục hơn nam giới. “Có (bồ bịch) chơ khỏi mô được. Hấn đi cả 3 – 4 năm rứa a nhủ. Đi a rứa thì đàn ông kiểu chi hấn cũng có chứ răng. Có nhưng mà xã hội dừ hấn a rứa, kệ hấn. Hấn đi rồi hấn về thì vợ chồng vẫn là vợ chồng chứ. Nhưng mà về rồi con ni ghen rồi chửi, rồi đập nhau” (PVS Nữ - có con đi Angola và Đài Loan). Phụ nữ ít có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân hơn nhưng khi họ đã thay lòng đổi dạ, có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân thì nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình lại cao hơn. Bởi vì khi chồng có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân thì người vợ dễ bao dung tha thứ còn khi người vợ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân thì ít nhận được sự tha thứ của chồng. Mặt khác, nếu người vợ đã ngoại tình thì thường thay đổi, không muốn quay về với chồng. “vợ chồng cãi nhau, đánh nhau. Sau rồi thì bác T đòi ly hôn. Lúc đầu bác C cũng không chịu vì thương hai đứa con. Nhưng sau đó phát hiện ra vợ có bồ bịch bên Macau nên đồng ý” (PVS, Nữ, 43 tuổi, làm ruộng). Một vấn đề khác thể hiện có sự khác nhau về giới đó là vấn đề sử dụng tiền gửi về. Phần lớn các ý kiến trong nghiên cứu cho rằng vợ đi xuất khẩu gửi tiền về cho chồng nhưng chồng ở nhà lại sử dụng số tiền đó không đúng mục đích, hoang phí, bài bạc và ngoại tình. Một số khác ở nhà chỉ sống dựa vào số tiền vợ kiếm được mà không chịu lao động. Đây cũng là lý do mà nhiều phụ nữ giữ lại tiền không gửi về hoặc gửi về cho một người khác giữ hộ. “Gửi về cho em dâu mà dượng đang lấy phá nữa nự. Gửi cho dượng có mà nhà cháy. Vậy mà 241 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 lão con vay ngân hàng và bán đi mất 3 xe máy” (PVS, Nữ, 45 tuổi, công nhân).Trong khi đó chồng đi xuất khẩu lao động gửi tiền về cho vợ thì vợ thường chi tiêu hợp lý hơn, người thì giữ lại làm vốn sau này chồng về để làm ăn hoặc gửi tiết kiệm, còn người thì mua vàng để dành lo cho con cái. “Có chồng đi mà vợ ở nhà thì gửi đồng tiền về trả hết nợ nần rồi có đồng vốn mà làm ăn” (PVS, Cha mẹ, có con đi Angola). 3. Đánh giá của người đi, người thân ở nhà, chính quyền địa phương và cộng đồng về việc đi xuất khẩu lao động. Phần lớn các ý kiến những người đi và người thân ở nhà đều cho rằng việc đi xuất khẩu lao động luôn có những tác động tích cực và không tích cực của nó. Để có được những thành quả thì bao giờ cũng có những hi sinh mất mát. Cái được ở đây đó là kinh tế gia đình được cải thiện, chất lượng cuộc sống được nâng lên, con cái có điều kiện để học hành. Còn cái mất mát ở đây là phải sống xa gia đình, thiếu thốn tình cảm, những mâu thuẫn và đổ vỡ trong hôn nhân, con cái thiếu người chăm sóc quản lý dẫn đến hư hỏng, học hành sa sút. Dù nhận định rằng đi xuất khẩu có cái được cái mất nhưng phần lớn những người trở về có thái độ hài lòng với chuyến đi của mình bởi họ đã đạt được mục đích ban đầu đặt ra là đi để cải thiện kinh tế, để trả nợ, có tiền xây nhà, sắm sửa, có tiền lo cho con cái ăn uống học hành. Còn những mất mát khác là một điều hiển nhiên họ phải đánh đổi. Bên cạnh những người hài lòng với chuyến đi của mình thì cũng có những người cảm thấy không hài với chuyến đi của mình và coi đó là một chuyến đi thất bại, không mấy thành công bởi vì họ cảm thấy chuyến đi chưa thực sự đạt được những mong muốn của mình, công việc không suôn sẻ và thậm chí là bị lừa đảo phải về nước sớm. “Thì nói chung cũng nỏ thành công cho lắm. Nếu thành công thì đã không phải ra ngoài. Mình cũng gặp nhiều sai sót nên mình thấy không được như ý. Mấy tháng trời bị môi giới nó lừa, lương thưởng nó không sòng phẳng với mình nà. Khi ra ngoài làm thì cũng mấy lần bị chủ lừa không trả lương” (PVS, Nữ, 46 tuổi, làm ruộng). Trong những gia đình bị đỗ vỡ hạnh phúc thì họ cảm thấy hối hận vì đã quyết định đi hoặc để cho người thân của mình đi xuất khẩu lao động. “Ra đi mưu lược thì nhiều, muốn đi có tiền rồi thì trả nợ nần, có tiền thì làm chút nhà gì đó rồi cho con cái học hành này khác chứ ai mà nghĩ được lại ra rứa (vợ chồng bỏ nhau). Nếu như mà biết trước được hết tất cả mọi cái như thế thì ai mà dám cho đi” (PVS, Nam, 37 tuổi, làm ruộng). Đánh giá về xuất khẩu lao động tại địa phương, chính quyền và người dân trong cộng đồng cũng cho rằng việc đi xuất khẩu lao động luôn có hai mặt của nó. Một mặt nó đã giúp xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho các gia đình, đồng thời góp phần làm thay đổi bộ mặt của các thôn xóm. Mặt khác, những hệ lụy từ xuất khẩu lao động mang lại cũng không hề nhỏ. Nhiều ý kiến từ cộng đồng cho biết, vấn đề mà họ lo ngại nhất đó là tình 242 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 trạng cha mẹ đi xuất khẩu lao động, con cái ở nhà thiếu người quản lý, kèm cặp dẫn đến hư hỏng, học hành sa sút, vướng vào các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an ninh ở thôn xóm. “Nói chung đi xuất khẩu lao động được 1 cái nhưng mất 2 cái. Cái được là kinh tế, cái mất là mất tình cảm vợ chồng, cái mất thứ 2 là con cái hư. Nên khi làm đủ rồi thì nên về đừng tham quá, giàu bao nhiêu cho đủ” (PVS, Nam, 54 tuổi,xóm trưởng). 4. Kết luận và kiến nghị Nghiên cứu tại Hưng Tây đã cho thấy việc đi xuất khẩu lao động mang lại hiệu quả kinh tế, nhưng mang lại những hệ quả không mấy tốt đẹp về mặt xã hội. Thứ nhất, xuất khẩu lao động có tác động đến hạnh phúc gia đình của người lao động. Bên cạnh những cặp vợ chồng yêu thương và quý trọng nhau hơn thì cũng có những gia đình nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng dẫn đến đỗ vỡ hạnh phúc. Vấn đề quan hệ tình dục ngoài hôn nhân nổi lên như một hệ quả của việc vợ chồng xa nhau lâu ngày. Tình trạng này xảy ra phổ biến với nam giới hơn so với nữ giới. Nhìn chung, việc có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của nam giới được cộng đồng, người đi và người ở nhà chấp nhận dễ dàng hơn so với nữ giới. Những bất đồng, mâu thuẫn xảy ra trong quan hệ vợ chồng chủ yếu là do những nguyên nhân chính như ghen tuông, có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, bất đồng trong việc chi tiêu tiền gửi về và sự thay đổi trong nhận thức, hành vi của người trở về. Thứ hai, việc đi xuất khẩu lao động của cha mẹ cũng có tác động không nhỏ đến tâm lý, việc học hành của con cái. Một mặt, với nguồn thu từ xuất khẩu lao động nhiều gia đình đã có điều kiện để đầu tư cho con cái học hành tốt hơn trước. Mặt khác do thiếu sự quản lý, kèm cặp, giáo dục con cái của người đi xuất khẩu lao động cộng với sự bỏ bê, không làm tròn trách nhiệm của người ở nhà đã dẫn đến việc con cái học hành sa sút, ham chơi, bỏ học, thậm chí là vướng vào các tệ nạn xã hội. Thứ ba, thu nhập từ xuất khẩu cũng giúp cho các gia đình có điều kiện chăm sóc sức tốt hơn. Thể hiện ở chỗ, chất lượng bữa ăn, điều kiên sinh hoạt được nâng cao, có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế tốt hơn. Những người đi xuất khẩu lao động trở về đã có sự thay đổi về nhận thức, hành vi trong sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh những người có sự thay đổi theo hướng tích cực như biết cách ứng xử khéo léo, gọn gàng sạch sẽ hơn, có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, hòa nhập nhanh với lối sống cộng đồng thì cũng có một bộ phận người đi về có thái độ chây lười lao động, thích hưởng thụ thành quả đạt được, có phong cách ăn mặc, lối sống chưa phù hợp với thuần phong mỹ tục của địa phương. Thứ tư, xuất khẩu lao động đã có tác động tích cực đến đời sống của cộng đồng cư dân ở Hưng Tây, góp phần làm thay đổi diện mạo của thôn xóm. Những người đi về có cách sống văn minh, tinh thần tự giác đã dần dần làm thay đổi thói quen sinh hoạt, văn hóa trong cộng 243 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 đồng. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận người đi về có thái độ chây lười lao động, thích hưởng thụ đã làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hóa của cộng đồng. Một số trường hợp cha mẹ đi xuất khẩu lao động, con cái không có người quản lý đã vướng vào tệ nạn xã hội, làm xáo trộn tình hình an ninh trật tự của địa phương, gây tâm lý lo lắng cho người dân. Có sự khác biệt giới trong vấn đề sử dụng tiền gửi, tình dục ngoài hôn nhân, việc chăm sóc và quản lý con cái trong các gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Nữ giới chi tiêu và sử dụng tiền gửi về hợp lý hơn nam giới. Vấn đề tình dục ngoài hôn nhân xảy ra ở cả nam và nữ nhưng phổ biến hơn ở nam giới, khi phụ nữ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân thì nguy cơ đỗ vỡ hạnh phúc gia đình cao hơn. Trong việc chăm sóc và quản lý con cái phụ nữ được đánh giá làm tốt hơn nam giới. Phần lớn người lao động và người nhà đều cảm thấy hài lòng với đi xuất khẩu lao động của mình và người thân. Xuất khẩu lao động đã mang lại những hệ quả không mấy tốt đẹp nhưng theo họ thì đó là cái giá mà họ phải đánh đổi. Những ý kiến từ phía cộng đồng, chính quyền địa phương cũng cho thấy khi đi xuất khẩu lao động luôn có cái được và cái mất. Cái được lớn nhất là về kinh tế, còn cái mất ở đây là sự thiếu thốn tình cảm, sự rạn nứt, đỗ vỡ trong hôn nhân, con cái thiếu người quản lý dẫn đến học hành sa sút, bỏ học, ham chơi và sa vào các tệ nạn xã hội. Kiến nghị Tử những kết quả nghiên cứu nêu trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau: Trước hết, đối với các phương tiện thông tin đại chúng và chính quyền địa phương cần tuyên truyền phổ biến cho người dân, người lao động về những mặt tích cực cũng như những mặt không tích cực của xuất khẩu lao động để người người đi và gia đình họ có quyết định đúng đắn nhất, có biện pháp phù hợp để hạn chế các tác động không mong muốn. Thứ hai, việc thành lập các hội, nhóm như: hội những gia đình có người đã từng đi xuất khẩu lao động để họ có điều kiện chia sẻ các kinh nghiệm về xuất khẩu lao động của mình với nhau hoặc với những người chuẩn bị đi và người thân của họ; để những đối tượng này cùng tham gia sinh hoạt, chia sẽ những tâm tư, tình cảm của họ khi vợ, chồng sống xa nhau, cách quản lý và giáo dục con cái, cách chi tiêu, sử dụng hợp lý số tiền mà người thân của họ gửi về… Thứ ba, đối với người lao động: Khi quyết định đi xuất khẩu, người lao động cần xác định rõ ràng những mặt tích cực cũng như những hệ lụy mà xuất khẩu lao động mang lại. Cần thảo luận với người thân trong gia đình về những hệ quả không mong muốn để cùng nhau đưa ra những giải pháp khắc phục. 244 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 Thứ tư, đối với gia đình có người đi xuất khẩu lao động cân hỗ trợ tốt về vật chất cũng như tinh thần cho người lao động trong quá trình đi xuất khẩu lao động; cần làm tốt vai trò của người ở nhà để người lao động yên tâm làm việc; chi tiêu hợp lý số tiền mà người lao động gửi về; giữ gìn hạnh phúc gia đình, xây dựng lối sống lành mạnh; tích cực tham gia lao động sản xuất tránh tình trạng sống dựa vào thu nhập số tiền người lao động gửi về; cần phối hợp với nhà trường, cộng đồng và chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục con cái trong gia đình trong thời gian cha/mẹ đi xuất khẩu lao động. Thứ năm, đối với cộng đồng có người đi xuất khẩu lao động:Cần tuyên truyền, vận động các gia đình xây dựng lối sống văn hóa lành mạnh, khuyến khích người lao động trở về tham gia vào các hoạt động phong trào ở địa phương; tạo điều kiện giúp đỡ những gia đình có người đi xuất khẩu lao động trong việc quản lý giáo dục con cái.. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Minh Duệ ( chủ biên), 2011. Lao động Việt nam ở nước ngoài- thực trạng và giải pháp đến năm 2020. Nxb. Từ điển bách khoa Hà Nội. 2. Lưu Văn Hưng, 2011. Xuất khẩu lao động Việt Nam thời đổi mới và hội nhập. Nxb. Từ điển bách khoa Hà Nội. 3. Nguyễn Thị Hồng Bích (chủ biên), 2007. Xuất khẩu lao động một số nước Đông Nam Á – Kinh nghiệm và bài học. Nxb. KHXH, Hà Nội. 4. Nhóm tác giả Danièle Belager, Lê Bạch Dương, Trần Giang Linh, Khuất Thu Hồng, 2010. Báo cáo nghiên cứu: Lao động di cư từ Việt Nam đến các nước châu Á 2000-2009: quá trình, trải nghiệm và tác động. Nxb. Phụ nữ, Hà Nội. 5. Tổ chức Health Bridge Canada và Trung tâm Nghiên cứu Phụ nữ, 2008. Báo cáo nghiên cứu: Tác động của xuất khẩu lao động đến cuộc sống gia đình tại tỉnh Thái Bình, Hà Nội. 6. UBND xã Hưng Tây, 2012. Báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hộiquốc phòng an ninh năm 2012; Phương hướng, nhiệm vụ phát triển KTXH-QPAN năm 2013, Hưng Nguyên, Nghệ An. 7. Cao Thị Duyên, 2012. Tác động của lao động di cư đến gia đình ở xã Diễn Thọ.một số giải pháp. Chuyên san KHXH & NV Nghệ An, số 2-2012. 8. Bùi Sĩ Tuấn, 2009. Hậu xuất khẩu lao động-vấn đề cần được quan tâm. Tạp chí Lao động và Xã hội, số 358, tháng 5 năm 2009. 9. Lâm Vũ, 2011. Những làng quê không yên ả. Báo giadinh.net.vn, số đầu: 5-92011; số cuối 14 - 9 – 2011. 245 International workshop: “Gender and Migration – Assessing Labor Export Policies - sharing Vietnamese and international experiences on rights-based approaches and gendered dimensions” – HCMC - Vietnam, 2013 10. Đào Công Hải, 2010. Đặc thù của một số thị trường xuất khẩu lao động. Tạp chí Lao động và Xã hội, số 395, kỳ 2 tháng 11-2010. 11. Nguyễn Thị Mỹ Hương, 2009. Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á – một hình thức hợp tác kinh tế quốc tế, tạp chí Kinh tế châu Á- Thái Bình Dương, số 292 (12-2009). 246