Firmament - Thế Hữu Văn Đàn
Transcription
Firmament - Thế Hữu Văn Đàn
Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 The Firmament Literary Journal Th‰ H»u Væn ñàn April 2014 1 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Contents To The Reader Đàm Trung Pháp. Vernal Poetry Written in Exile by Thanh Nam Bính Hữu Phạm. The Chicken Soup Peddler Phạm Trọng Lệ. Câu Chuyện Chữ Nghĩa: Cần Hiểu Đặc Ngữ Và Tiếng Lóng Trong Tiếng Mỹ Arthur Rimbaud. Le dormeur du val David Lý Lãng Nhân. (tr.). Người Ngủ Trong Thung Lũng Sóng Việt Đàm Giang. Một Chút Thuỵ Sĩ: Lucerne Diễm Âu. Truyện Em Bé Gỗ Thanh Trà Tiên Tử. Đông Thiên! Poetry Corner Song Nghiên. Hương Hoa Cà Phê Song Nghiên. Một Ngày Ban Mê Hoàng Song Liêm. Tạ Tinh Em Hoàng Tâm. (tr.). Grateful for Your Love Hoàng Song Liêm. Hai Phương Hoàng Tâm. (tr.). Two World Corners Hoàng Tâm. Fabulous February Nguyễn Bính. Lửa Đò TMCS. (tr.). Light in a Boat TMCS. (tr.). Chu Hỏa TMCS. (tr.). Chu Hỏa (Hán Ngữ phồn thể) TMCS. (tr.). Chu Hỏa (Hán Ngữ giản thể) Phùng Thị Hồng Vân. Đón Giao Thừa TMCS. (tr.). Welcome the NewYear's Eve TMCS and Thanh Trà Tiên Tử. Vấn Mai Thụ TMCS and Thanh Trà Tiên Tử. (tr.). Vấn Mai Thụ (Hán Ngữ giản thể) TMCS and Thanh Trà Tiên Tử. (tr.). Vấn Mai Thụ (Hán Ngữ phồn thể) Thanh Trà Tiên Tử. Hà Nội Chiều Đông TMCS. (tr.). Hanoi a Winter Afternoon David Lý Lãng Nhân. Ngọn Tàng Vân Sóng Việt Đàm Giang. J'ai quitté mon pays. Rời Xa Quê Hương Tôi. Enrico Macias Haiku Poetry Kim Châu. Xuân Phú Sĩ Kim Châu. Sơn Nữ Kim Châu. Hoa Đăng Kim Châu. Mừng Tuồi Kim Châu. Chim Én Kim Châu. Tàn Xuân Kim Châu. Hoa Dại Sóng Việt Đàm Giang. Thăm Stonehenge: Chùm Vòng Đá Thượng Cổ David Lý Lãng Nhân. Chuyện Nuôi Sò Lấy Ngọc David Lý Lãng Nhân. Tinh Cá Nước Sóng Việt Đàm Giang. Ốc Sên Và Thương Đao Tinh La Fontaine. Le loup et l'agneau Thomas D. Le. (tr.). The Wolf and the Lamb Sóng Việt Đàm Giang. Một Loài Hoa Mang Tên Sưa Aristophanes. Lysistrata (Cont'd and End) 2 4 5 10 20 26 27 28 35 45 46 46 47 49 49 50 50 51 53 53 53 54 54 55 55 56 56 56 57 58 59 61 65 65 65 66 66 67 67 67 69 76 77 78 84 84 86 91 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Æsop. Fables : The Swallow and the Crow The Mountain in Labor The Ass, the Fox, and the Lion Anonymous. Shingles Edgar Allan Poe. Eulalie Maxine Lambert. Effet Leidenfrost : quand les gouttes d'eau se mettent à léviter sur une plaque chaude Thomas D. Le. Fire and Ice: Robert Frost and Cosmology (to be continued) 3 131 131 131 131 132 133 134 136 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 To The Reader 4 Dear Friend and Reader, A writer and poet, Thanh Nam laments a life of humiliation in exile. Few can probe that state of mind better than our professor emeritus Đàm Trung Pháp in his succinct but penetrating review of Thanh Nam's work. Perhaps some may empathize with the poet's quandary in his struggle to find meaning in life in exile. In this one of her fantastic tales, Diễm Âu. weaves an intricate web between the story in a children's book and the story of an infant and a wood carving of an infant. An infant as narrator? You haven't seen anything yet if you haven 't read this one. So, go ahead and befuddle yourself. Ever the academic, Phạm Trọng Lệ discusses the reasons why idioms and slang must be mastered by a language learner. If anyone should think little of the importance of language, let them imagine building a civilization without it. And if anyone should think slang does not deserve study, let them give heed to this essay. But first, chill out, dude. As this revenge story unfolded in Vietnamese two issues back, so it is now recreated in English by Bính Hữu Phạm. with the same thrill and horror. I invite those of you who dabble in movie-making, and those more experienced to consider an adaptation. It will be a challenging but rewarding effort. Men and women bitten by the wanderlust virus of the world, rise! Fly with Sóng Việt Đàm Giang to picturesque Lucerne and windswept Stonehenge. Savor the contrast. And while you are at it, drop in on a Parisian café to enjoy the escargot delicacy and some snail caviar. Don't wax too poetic about the taste, though, but get scientific-minded with the aid of a biological sketch SVDG has carefully prepared for you... Don't know much about the redbud? Not to worry. SVDG will fill you in with enough botanical lore to keep your curiosity satiated. Thanh Trà Tiên Tử, the perennial dreamer of things fantastic, engages in a conversation with Father Winter, who quietly decamps after a friendly cup of tea because he knows how the world fails to appreciate his breath of cold air. Men have conquered great animals like the whale and the tiger, pierced mountains, tamed rivers, but so far have only mixed success against microorganisms. David Lý Lãng Nhân well illustrates the point in this Tale of the South. He then dwells upon reflection as a mental process of rumination to discover truth and likens it to the oyster who patiently and painstakingly produces a pearl from a tiny piece of material. Our poetry landscape continues to blossom like the cherry in the spring thanks to Kim Châu, TMCS, Song Nghiên, Sóng Việt Đàm Giang, Thanh Trà Tiên Tử, Hoàng Song Liêm, David Lý Lãng Nhân, Hoàng Tâm, Phùng Thị Hồng Vân, and Nguyễn Binh. Share their warm thoughts and emotions while taking in the freshness of spring after a harsh winter of ice, sleet, and snow. And remember to prolong your delight with the second and last part of Aristophanes's Lysistrata. Finally Thomas Le comes back with another installment of his thoughts about Robert Frost's poem “Fire and Ice.” Read, think, reflect, ruminate, but above all enjoy, for life is not worth living unless enjoyed, Socrates notwithstanding. Thomas D. Le Thế Hữu Văn Đàn April 2014 To join Thế Hữu Vǎn Ðàn, please link to: http://groups.yahoo.com/group/thehuuvandan/join Thế Hữu Vǎn Ðàn web site: http://thehuuvandan.org. Send comments and submissions to: [email protected] Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Jefferson Memorial framed by cherry blossoms, Washington, D.C. (SVDG) 5 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 6 Vernal Poetry Written in Exile By Thanh Nam By ñàm Trung Pháp One of the most cherished literati in pre-1975 Saigon was the writer and poet Thanh Nam, who along with Nguyên Sa was the driving force behind the magazine Hiện Đại [1]. This popular author of more than twenty novels was also noted for his exquisite poetry. He was admired by people in every walk of life, including the favorite cải lương artists, famous singers, and top-rank writers and poets. People loved Thanh Nam because of his intellectual probity – he wrote about life as he had actually lived it. Thus, his prose and his poetry were all about real life. “Thanh Nam’s real soul penetrates his literary works,” noted Bình Nguyên Lộc [2]. “The style is the man himself. This saying fits Thanh Nam perfectly,” declared Mai Thảo [3]. Although his first novel was published in Saigon in 1957, Thanh Nam had started writing with his colleagues Ngọc Giao, Nguyễn Minh Lang, and Thy Thy Tông Ngọc in Hanoi in the early 1950s. In 1952, he moved to Saigon and flourished in the literary circle there until the collapse of South Vietnam in 1975. If we needed just one publication to introduce Thanh Nam, that would be his 1983 poetic collection Đất khách (In Exile); and if we needed to read just one poem typical of him, that would be his Thơ xuân đất khách (Vernal Poetry Written in Exile). Thanh Nam penned Thơ xuân đất khách in Seattle on February 18, 1977, which was also the first day of the Lunar Year of the Snake (Đinh Tỵ). This first day of the lunar year is a most solemn time, during which the Vietnamese honor their ancestors, visit relatives and friends, wear their nicest clothes, and rejoice. The entire poem is translated into English below, along with annotations and references. Thơ xuân đất khách Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ Mới hay năm tháng đã thay mùa Ra đi từ thuở làm ly khách Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ Trôi giạt từ Đông sang cõi Bắc Hành trình trơ một gánh ưu tư Quê người nghĩ xót thân lưu lạc Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du Vernal poetry written in exile The calendar leaf marking the new year coolly dropped Reminding me that seasons had changed Since the day I left as an expatriate Two springs of homesickness had willy-nilly gone by Drifting from the East to the North [4] The trip was a glaring load of sorrows In a foreign land, expatriation gnawed at me In an unfamiliar environment, I wondered about my journey A writer in exile who could not write was like a defeated warrior lying on a battlefield, who heard the imaginary sound of bugles commemorating his past dreams. That was Thanh Nam’s plight, awake or Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 asleep. His sense of humiliation was poignant: 7 Thức ngủ một mình trong tủi nhục Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ Giống như người lính vừa thua trận Nằm giữa sa trường nát gió mưa Khép mắt cố quên đời chiến sĩ Làm thân cây cỏ gục ven bờ Chợt nghe từ đáy hồn thương tích Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa Awake or asleep it was me alone in humiliation The miles were long, my feet tired, my steps forsaken Like a soldier who had just been defeated I lay on the battlefield, shattered by wind and rain Eyes closed I tried to forget about my warrior life To become a vegetable slumped on a riverbank Suddenly from the bottom of my wounded soul I heard bugles commemorating dreams of yesteryear The pain felt by expatriates is acute. A year for others is twelve months, but for Vietnamese refugees it is just April, the fateful month in which South Vietnam was overrun by North Vietnam. The calamity caused broken hearts and tangled minds: Ới hỡi quê hương bè bạn cũ Những ai còn mất giữa sa mù Mất nhau từ buổi tàn xuân đó Không một tin nhà, một cánh thư Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi Rối bời tâm sự tuyết đan tơ Một năm người có mười hai tháng Ta trọn năm dài Một Tháng Tư! Alas, home country and old friends What was your fate amidst this calamity We lost one another that late spring No tidings from home, not even a letter Pining in an endless wait for your news My tangled mind is like snow flurries People have twelve months a year For me, the whole long year is just one April! Experiencing the pains of culture shock [5], the displaced poet feared that he would have to spend the rest of his life on foreign soil, as a worthless person: Chấp nhận hai đời trong một kiếp Đành cho giông bão phũ phàng đưa Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Đầu thai lần nữa trên trần thế Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt Tập làm con trẻ nói ngu ngơ Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi Thân phận không bằng đứa mãng phu 8 Accepting two lives for one birth I am enduring the whims of a brutal tempest Reincarnated in this world I will have to finish off this parasitic life Reversing the order of family and first names Imitating infants that babble puerile speech Burying the past deep into the dust My condition is less than that of a villain What justified all these daunting changes? Freedom, of course! Nevertheless, the poet recalled with bitterness the forced demise of the South: Canh bạc chưa chơi mà hết vốn Cờ còn nước đánh phải đành thua Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do! The card game has not started, yet my money is lost The chess game still has moves for me, but I must give it up I want to shed tears when dreams fade Fathomlessly high is the price of Freedom! Thanh Nam spoke for all Vietnamese refugees at that time, just two years after the first wave of this historic diaspora, as he ended the poem with a lonesome note: Bằng hữu qua đây dăm bảy kẻ Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba Đứa nằm yên phận vui êm ấm Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa Mây nước có phen còn hội ngộ Thâm tình viễn xứ lại như xa Xuân này đón tuổi gần năm chục Đối bóng mình ta say với ta [Thanh Nam, Đất Khách, trang 13-15] Among friends who made it to this country Some are nursing grudge, others have not given up Yet some are leading a complacent life Or enduring a humiliating superfluous existence Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 While clouds and water have a chance to meet again Our dear friends in exile are still afar This spring I welcome my approaching fifth decade By getting inebriated all by myself 9 [Thanh Nam, In Exile, pages 13-15] ■ ANNOTATIONS AND REFERENCES [1] Thanh Nam was the pen name of Trần Đại Việt, who was born on August 26, 1931 in Nam Định, North Vietnam. He died on June 2, 1985 in Seattle. Among his major works are Hồng Ngọc (1953), Người nữ danh ca (1953), Giấc ngủ cô đơn (1963), Buồn ga nhỏ (1963), Còn một đêm nay (1963), Bầy ngựa hoang (1965), Giòng lệ thơ ngây (1965), Những phố không đèn (1965), Mấy mùa thương đau (1968), Đất khách (1983). Nguyên Sa and Thanh Nam’s Hiện Đại magazine was founded in 1960 in Saigon. In 1965 Thanh Nam became managing editor of Tuần Báo Nghệ Thuật; Viên Linh took over this position in 1966. [2] Bình Nguyên Lộc (1966). Một tác giả viết về một tác giả: Thanh Nam dưới mắt Bình Nguyên Lộc. Tuần Báo Nghệ Thuật issue 36 dated June 18, 1966. [3] Thanh Nam dưới mắt trời Tây Bắc. In Mai Thảo (1985), Chân Dung. Westminster, CA: Văn Khoa. [4] Thanh Nam and family were first resettled in New Jersey in October 1975. They later moved to Seattle; thus, they were “drifting from the East to the North.” [5] How political refugees cope with a new life in America has been observed by social scientists. According to them, it is a painful and complex psychological process that consists of four phases: (1) euphoria, the time during which the displaced people feel extremely glad that they have somehow received a new lease on life; (2) culture shock; (3) stability; and (4) acculturation. Euphoria is only short-lived and may not mean much, but culture shock could last a long time and make their new lives miserable. Its duration depends on the individuals: the older they are, the longer their culture shock will last; and perhaps suffering the most during this trying time would be the sentimental artist whose heart bleeds easily. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 10 The Chicken Soup Peddler By Bính H»u Phåm HaiDuong City, winter of 1948. When the French armed forces advanced from Hanoi (The Capital of Vietnam) to HaiDuong City two years before, residents of the city, at the orders of the Resistance Front, had fled to the countryside. The French forces continued their advance to the smaller towns and the more remote villages. The refugees, who had nowhere else to run, had no choice but to return to the city which, by then, was under the total control of the French forces. Power over the people in the city rested in the hands of the French and those of a few Vietnamese who were trusted by the French. There was a Vietnamese police unit whose duties were to maintain order at the market place and control the crowds when there were festivities. When people suffered injustice such as extortion and physical abuse, they had no recourse. The sun was setting. On Phan Thanh Gian Street, near Pharmacy Le Bao Loc, a woman was carrying two heavy baskets balanced on a bamboo stick. She shouted her wares: "Chicken soup! Hot and delicious chicken soup!" It was hard to tell the peddler's age. She was wearing an old black pair of pants, a faded brown shirt and flip-flops. Her abdomen was swollen as if she was four or five months pregnant. Her head and face were almost wholly covered by a black triangular turban. Her crystal clear voice, however, indicated that the woman was only about twenty or twenty-one years of age. "Chicken soup. Hot and delicious chicken soup." The woman shouted. A man came out of Pharmacy Le Bao Loc, calling: "Chicken soup. Chicken soup." The peddler walked briskly in the direction of the man and put her baskets down right in front of the Pharmacy. She respectfully inquired: "Sir, how many bowls of soup would you like to have?" "Two large ones." The man responded. The peddler filled two bowls with soup, added a few pieces of chicken to each bowl, sprinkled chopped scallion and lemon leaves on top. She placed the bowls of soup on a wooden tray and carried them into the Pharmacy. "You can take time to enjoy the soup. I'll make a round of the neighborhood and be back later to collect the bowls." The peddler said, smiling. When the peddler returned to collect the bowls, the Pharmacy owner had all compliments for the soup peddler: "Your chicken soup is just delicious. Where did you buy such tender and juicy chicken? And it's just so well marinated." "At the Meat-Market," the peddler said. "But I chose carefully. I picked only young and well-fed chickens. Thank you so much, sir, for the compliments." The peddler hesitated for a moment, then said: "I've had great difficulty falling asleep. I toss and turn all night and my eyes stay wide open. Then during the day when I have to work, I feel sleepy. I often fall asleep while walking or working. I feel so tired. I'm just wondering if you can sell me some sleeping pills." The Pharmacist thought for a minute then said: "To buy sleeping pills, the law requires that you have a prescription from a Medical Doctor. But Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 11 as I can see, you work so hard every day. You have neither time nor money to go see a doctor. I suppose I can give you without charge a small quantity of sleeping pills to use temporarily. But you have to follow the instructions carefully: Take one pill before going to bed. Do not take more than one as it may cause you a lot of harm, particularly now that you're pregnant. Go to bed right away after you take the pill. Do not work; especially, do not cook because you may fall asleep and burn yourself." The Pharmacist opened a glass cabinet, took out a small plastic bottle and gave it to the peddler, telling her solemnly: "Remember: One pill before bed time and store the bottle on a high place beyond the reach of children." The soup peddler was delighted, putting her hands together in a sign of respect: "I am deeply grateful for your generosity and kindness, sir." She put the bamboo stick with a basket hanging on each end on her shoulder and walked away. She smiled with self confidence. Now she would take her wares to another family living some blocks away. From here to there, she walked quietly, not hawking her merchandise. Her heart began to beat quickly when she saw a red-roof house surrounded by a wrought iron fence, with a rose garden in front. Outside the gate was a booth painted blue for a soldier to stand guard. Trying her best to maintain composure, she shouted her wares: "Chicken soup! Hot, delicious chicken soup!" A lady came out of the house, waving her hands: "Chicken soup." She called. Then she walked to the gate, opened it, and stood waiting. The chicken soup peddler walked through the gate and placed her baskets next to the steps. "How many bowls would you like to have, Madam?" The peddler inquired. "Two large ones and two small ones as usual." The lady of the house answered. The peddler filled the bowls with soup as ordered, placed them on a tray and carried the tray into the house. She respectfully placed each bowl on the table. "I'd like to have an extra plate of chicken if you still have some left." The lady of the house said. "Yes, Madam. I still have some. The chicken today is really tender and juicy." The peddler responded. The peddler filled a plateful of chicken, sprinkled some chopped scallion and lemon leaves on top, then brought it into the house. "Your chicken soup is more delicious than that offered in the gourmet restaurants." Complimented the lady of the house while counting the money to pay for the soup. "Thank you so much for your kindness." The peddler said. A slender middle-aged man with a pale complexion and thick mustache came out from the inner room. The man stared at the peddler who lowered her head, turned her heels quickly to walk out into the yard, her heart beating briskly. When she passed by the guard who was looking at her intensely, she smiled and said: "I still have a bowl of chicken soup left. I'd like to offer it to you." The guard shook his head: "I'm a soldier with very meager pay. I cannot afford to have chicken soup." "I understand. My husband is a soldier, too." The peddler responded. "I'm giving you the soup free of charge." Before the guard could think of what to say, the peddler had thrust the bowl of chicken soup into his hands. "Have some soup. It'll make you feel good." She said. The guard mumbled a few words of thanks as he accepted the gift. About an hour later, the peddler returned to collect the empty bowls and spoons which had been left outside the gate. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 12 On the way home, the peddler would walk by a burnt down house on Gia Long Street. The house was burnt down completely with only the walls still standing. Every time she walked by the house, her memory was logged to a page. Today she was feeling exceptionally self-confident, so naturally her memory turned to the happy days she had lived in this house with her parents and two younger brothers. This house had been her family's home until nearly a year ago. On returning from the countryside to the City of HaiDuong , Mr. and Mrs. Khiem Quang Lam, the peddler's parents, had opened a general store. Mr. Lam noticed that dried tea, which Vietnamese called Chinese Tea, and tobacco were the best sold items among the merchandise. Almost all men and many women, too, smoked tobacco. Most could not afford to buy a whole pack of tobacco which weighed about two and a half pounds. They had to buy small packets of one or two ounces. Dried tea was even more popular. A pot of tea was a must-have in the morning for every family. People served tea to their visitors. Tea was one of the chief offerings at the family altar. Tea was drunk as a dessert after the meals. Tea was offered as a special gift among friends and acquaintances, particularly at The New Year Celebrations, weddings and other happy occasions. Mr. Lam had figured that he could make a lot more money by buying at the source and selling to end consumers. He traveled to Bac Ninh where there were many tea plantations and would buy tea in sacks of 50 or 100 kilograms. He went to Thanh Hoa where tobacco was grown and processed to buy large packages. Then he would repackage the tea and tobacco in small packets of a few ounces for retail sale. He priced his merchandise lower than other retailers. Soon the word spread and people flocked to his store. Mr. Lam made a lot of money. He had to hire several workers to help out so that his wife could devote her time to taking care of the family. Mrs. Lam loved to cook. Her new fortune made it possible for her to spend more money on food, particularly the delicacies. Knowing that chicken soup was her husband's favorite food, she tried to find ways to enhance the taste and texture of the soup. She would make the broth by slow-cooking three or four chickens for several hours. She would steam two young fat hens and then debone them to get the tender meat to add to the soup. She added chopped scallion, lemon leaves and sprinkle of black pepper on top. Her chicken soup was a work of art that would satisfy the taste buds of the any connoisseur . The eldest daughter in the family, Hien, learned from her mother the arts of cooking and other skills that made a house a home such as interior decoration and sewing. Hien agreed with her parents that girls did not need to go to college. A high school education seemed enough for her. She wanted to follow her mother's example at being a good wife and mother, and taking care of the family so that the husband could concentrate his efforts on the family's business. There were times when Hien experienced romantic feelings. But she always got control of herself because her mother's words echoed in her ears: "When a girl is pretty, virtuous and versed in the art of home making, the boys from good families will line up at her door to ask for her hand." Hien firmly believed that one beautiful morning a match maker would accompany a handsome, talented, and compatible man to her house to propose to her. While still dreaming about golden times in the past, Hien arrived at home - a dilapidated shack with dirt floor and a tin roof that consisted of three rooms: The two end rooms, each had a bamboo bed; the room at the middle had a family altar under which was stored bric-a-brac. Behind the house was a kitchen just as dilapidated with two coal stoves. Around the house was a vegetable garden with a few scattered banana bushes. Mrs. Duyen's voice was heard, asking: "Is that you, Hien? How's business?" Hien came in the middle room, put down her baskets and responded: "As usual. Have you eaten yet? I still have a bowl of chicken soup left. I'd like you to have it" Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 13 "You don't seem to make a lot of money, selling chicken soup. How can you afford to give soup to me free of charge? You just gave me a bowl a few days ago." Hien put soup in a bowl and crushed a sleeping pill into fine powder which she sprinkled on top of the soup. She took the soup to Mrs. Duyen who was sitting on her bed, listening to folk music on the radio. "You should eat the soup right away when it is still hot and not let it go cold." Hien urged Mrs. Duyen. Mrs. Duyen put a spoonful of soup into her mouth; then another and another. Hien went to the door, rolled up her sleeve to look at her watch. After a while, she asked Mrs. Duyen: "How does the soup taste?" Mrs. Duyen did not answer. Her eyelids were half closed. Her head bent forward, then her whole body rolled onto the bed. Hien ran to Mrs. Duyen's side to straighten her out on the bed. She looked at her watch: It all took only seven minutes. Hien returned to her room, untied all the cloth around her belly which she had used to make herself look like a pregnant woman and so felt more comfortable. This was really a clever ruse. Since she pretended to be pregnant, no man had made a pass at her. Hien palpated lovingly her wrist watch. The watch was a gift from her father on her graduation from high school. The watch brought back many tender memories about her deceased father. At the time, Mr. Lam had been quite well off. His children, particularly Hien, could have almost any thing they asked for. Mr. Lam had faith in Hien. His daughter was the most educated in his family. He and his wife had completed only five years of elementary school when they had to begin earning a living. Mr. Lam also believed that his first-born daughter had both intelligence and courage. One day, while his wife was out shopping and his two sons were at school, Mr. Lam signaled to Hien to come into his bedroom. He pointed to a safe in a corner of the room and whispered: "I keep a small amount of cash and gold in this safe. If ever robbers invade our home, let them take it. Having gotten the loot, they will leave quickly and not do harm to the family. I keep the bulk of cash and gold in a secret room behind the kitchen. I am telling only you about this secret room." Then Mr. Lam taught Hien how to open and close the secret room. "This room is also a hiding place for you in case of danger. Mr. Lam added. "Don't ever let a male stranger see you. It could be quite dangerous. You can observe whatever is going on in the house through a hole in the wall." Her memories stopped at this point as Hien felt sleepy. After a day of hard work, she felt tired. She rest her head on the wooden pillow and soon fell asleep. The next day Hien took her chicken soup baskets to the other side of town where Pharmacy Tran Anh Dung was. The sonorous cries of "Hot, delicious chicken" were heard a few times, when a man in a business suit came out of the Pharmacy and waved his hand to Hien. Hien hurried to where the man was standing and inquired: "Sir, how many bowls of soup would you like to have?" "Two large ones, please." The man responded. Hien filled two bowls with soup and brought them into the store. As the Pharmacist was counting the money to pay her, she took advantage of the moment to ask for help: "I have not been able to sleep for many days as I have a lot of worries for my family. I'm so tired day and night. Would you be kind enough to sell me some sleeping pills?" The Pharmacist looked at her for a moment, then said: "You need a prescription from a medical doctor to buy sleeping pills. But I see you cannot afford a visit to a doctor's office. Let me see what I can do for you. Maybe I can give you, free of charge, a Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 14 small amount of sleeping pills to use for a few weeks. But you have to follow the instructions carefully. Let me write them down for you. Can you read?" "Yes, sir. I can." Hien responded. "I'm giving you twenty-one pills to be used for three weeks." the Pharmacist said. "Take one pill every night just before going to bed. Take it with some liquid. Swallow the whole pill. Do not chew it." "Thank you so much." Hien responded with a respectful bow. The next day, Hien did not make chicken soup to sell. There were only three more days to the anniversary of the death of her parents and her two younger brothers. Hien wanted to devote this time to preparations for this important event. She went to a furniture store to buy a new gilded altar to replace the old one. She also bought a pair of brass candle sticks, an incense bowl, and two large porcelain plates. One of the plates was to be used as a fruit tray; the other left empty as if awaiting a special offering. Sitting before the altar, Hien closed her eyes and let her memory go back to the recent past of nearly a year ago. That evening, when dinner was over, Hien had cleared the dishes from the table and took them into the kitchen to wash. The door bell rang. Mr. Lam signaled for the whole family to withdraw into the inner rooms before he answered the door. Hien went into the secret room, closed the door behind her and looked out through the small hole to observe what was going on outside. A tall, slender man with a pale complexion, thick mustache, in military uniform walked in. "I am Lieutenant Ta Xuan Vinh, Chief of The Security Office that the French called Deuxieme Bureau." The man introduced himself. "I am in charge of security for the whole city. I'm stopping by to congratulate you on your thriving business. I want to extend protection to you and your family. If you are bothered by any one, just let me know and I will mete out punishment accordingly." Mr. Lam trembled. "Please, have a seat, Lieutenant." Mr. Lam stammered. "I am honored by your visit." Then Mr. Lam opened a pack of 555 Cigarettes (which was considered of highest quality at the time) and offered it to the visitor. Ta Xuan Vinh took one cigarette, struck a match to light it and sat down on the sofa to smoke. After a while, he said nonchalantly: "I was unlucky today at the poker games. I lost my last penny. I'd appreciate it if you could lend me a couple of thousand piastres (Vietnamese money). As soon as I recover my money, I'll return it to you with interest." Mr. Lam turned pale as a leaf. A couple of thousand piastres! That means his whole month of revenues. "Yes, sir. You can return it whenever convenient to you." Mr. Lam mumbled. Then he went into the bedroom and took the sum of money out of the safe. He respectfully offered the money to Ta Xuan Vinh with both hands. The latter stood up to take the money and walked toward the door. He feigned accidentally dropping his revolver to the floor. He stooped down to recover it, grinned and said: "It's a pity that I have to carry this thing around with me." Ta Xuan Vinh had left the house but Mr. Lam was still trembling. Mrs. Lam and the children remained quiet, not daring to say one word. When Mr. Lam regained his composure, he told his wife and children: "He is the Chief of the Security Office that the French called Deuxieme Bureau. He oversees the search and arrest of agents of the Resistance Front. He can arrest almost anyone he wants. While playing poker games, he often boasts of the barbaric ways he tortures his prisoners. He rapes women, then attaches copper wires to the nipples of their breasts and runs strong electric currents through the wires. He hangs men upside down and pours fish sauce into their noses. He uses pincers to pull out their finger and toe nails. He kills people as if they are just animals. No one dares to complain. All complaints about Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 15 him are ignored by the French authorities. Now he just came in here to demand money. What could we do but comply with his demands?" An atmosphere of worries and fear descended on Hien's family. Her father soon lost sleep, appetite and weight. Her mother sighed continuously. A few weeks later, Ta Xuan Vinh came knocking at the door again. Mr. Lam dutifully gave him the money he demanded. Ta Xuan Vinh took out his revolver, placed it on the table, then sat quietly on the sofa, smoking his cigarettes for a while before leaving. That night Mr. Lam told his wife and eldest daughter: "We can no longer do business in this town. We'll have to close the store quietly and move to Ha Noi where we may open a restaurant or something like that. So, do not buy any new merchandise and do not sell anything on credit to any one. Particularly, do not let any one know our intention to move to Ha Noi" A few days later, Ta Xuan Vinh came knocking. Mr. Lam welcomed him politely. But Vinh looked sternly at Mr. Lam and yelled: "Where do you want to move? You may move wherever you want; but I want you to hand me all your valuables and cash before leaving this town." Mr. Lam trembled violently. "Yes. I will, Lieutenant." Mr. Lam mumbled. Mr. Lam went in his bedroom and opened the safe, cleaned out the content: Gold bars, cash, jewelry. He put everything in a bag and handed the bag to Ta Xuan Vinh. The latter looked into the bag, then turned to look at Mr. Lam sternly: "You want to pull the wool over my eyes? You have a store that big and you want to tell me that this is all you have to show? I'm giving you another chance to bring out all that you have, no matter where you're hiding it. Do you want to live or to die?" Ta Xuan Vinh put the gun's muzzle to Mr. Lam's temple, shouting: "Bring out everything or I'll pull the trigger." From inside the secret room, Hien could see her father's face, green as a leaf. His whole body trembled uncontrollably, his eyes glanced quickly in the direction of the secret room. It looked as if he wanted to let Ta Xuan Vinh know about the secret room; but he stopped. Hien could read her father's mind: Ta Xuan Vinh could spare his life; but he would have all the reasons to suspect that Hien was an agent of the Resistance Forces. Ta Xuan Vinh would take her into custody, rape her, torture her and finally kill her. Mr. Lam cried and begged for mercy: "Lieutenant, Sir. This is all that I have. I'm respectfully offering it to you. Have mercy on me and spare my life." Ta Xuan Vinh pulled the trigger. A deafening sound was heard. Mr. Lam fell sideway to the floor; his blood spilling all over the place. Mrs. Lam knelt down on the floor next to her husband's body, crying and begging for mercy. Ta Xuan Vinh turned the gun to her: "Bring out all that you have." He shouted. "Do you want to live or to die?" Mrs. Lam lamented: "This is all that we have. Have mercy and spare me so that I may take care of my small children." Ta Xuan Vinh pulled the trigger. Mrs. Lam fell limp on the floor with blood spilling all over the place. Hien's two younger brothers clung to their mother, shrieking and screaming. Ta Xuan Vinh pointed the gun at them and pulled the trigger repeatedly. Their bodies fell alongside their parents'. Ta Xuan Vinh took the bag of cash and gold bars, and headed toward the door. He stopped and thought for a minute; then he struck a match and set fire to the stack of newspapers on the coffee table Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 16 before leaving. Hien sat frozen with terror in the secret room. She urinated in her pants without knowing it. When she heard the noise of Ta Xuan Vinh's jeep going farther and farther away, she tried her best to collect her courage, got out of the secret room, taking with her the bag of cash and gold bars her father had stored there. She ran along the less illuminated streets and alleys, trying to find her way to the thinly populated outskirts of the city. Hien was thoroughly exhausted by the time dawn broke. She saw a banana bush and climbed in the middle of it to hide herself. Soon she fell asleep. When she woke up, it was almost noontime. She looked out and saw a country woman, about forty-five or fifty years of age who was watering her vegetable garden. Hien approached the woman who was startled on seeing a stranger. "Who are you and what are you doing here?" The woman asked. "I just ran away from my village which was bombarded." Hien answered. "My parents and my siblings are all dead. I'm so thirsty. Would you be kind enough to give me a cup of water?" The woman seemed to be moved by Hien's conditions. "Let me give you some water." The woman said and signaled Hien to follow her into the kitchen. She handed a bowl to Hien and pointed in the direction of a ceramic water container in the corner of the kitchen. "You can drink to your heart's content." The woman said. She stood looking as Hien drank. Then she became even more moved and added: "I suppose you're hungry, too. I have some left-over rice. You're welcome to have it, if you want to." While eating, Hien confided to the woman: "My whole family was just killed and my home burned down. I have no place to go. I wonder if you could let me stay here for a few days. I'll find work to do to pay you back." The woman nodded: "I had a son who was conscripted and killed in action. My daughter is living in Ha Noi with her husband. I'm kind of lonely here. So, you're more than welcome to share this place with me. Let me show you your room. By the way, my name is Mrs. Duyen, What's yours?" "My name is Hien" Hien said. Mrs. Duyen looked at Hien for a moment and said: "You're young and pretty. Most likely young men will try to make passes at you. To avoid the nuisance, you should wear a turban to conceal your head and face as much as possible. If you want to you can use one of mine." "Thank you so much." Hien said delightedly. "You should also roll cloth around your belly to puff up the middle part and make it look like you're pregnant so to discourage the men's aggressiveness." Mrs. Duyen added. While still not knowing what to do for a living, Hien tried to help out Mrs. Duyen by watering the vegetable beds with water she got from the well and would carry it in with two big pails balanced on a bamboo stick. But Hien knew she would not be able to do this for ever. Hien toyed with the idea of running away to Ha-Noi. But she brushed the idea aside immediately. She decided that she would have to stay in this town until her mission was accomplished. At times she was hungry. She could not help thinking of the chicken soup her mother had made. What delicious chicken soup! Her mouth began watering every time the thought of the soup came to her mind. Oh! Why not make chicken soup to peddle? She could make a living by doing so. With only a high school education, Hien did not have any other skills to support herself. She had the feeling that peddling the chicken soup could help her accomplish the mission she had set for herself, too. The first time she carried the heavy load of two baskets of chicken soup balanced on a bamboo Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 17 stick, she felt tired and discouraged. She tried to shout her wares timidly: "Chicken soup! Hot delicious chicken soup!" She walked slowly for three blocks, shouting her wares; but no one called for her soup. She was about to give up and head home when she heard a voice: "Chicken soup." Hien hurried in the direction of the voice. From a one-storied row house, a woman stepped out. She was about fifty years of age and well dressed. Hien recognized her as Mrs. Tuan, a regular customer of her father's. Mrs. Tuan, however, did not recognize Hien. "Let me have two bowls of soup." Mrs Tuan said. Hien silently filled the bowls with soup and handed them to Mrs. Tuan, saying : "That's two piasters" Mrs. Tuan gave the money to Hien without a sign of suspicion. Hien walked away with much self confidence. That evening, Hien counted her money and found that she had made ten piasters, a sum of money that could sustain her for three days. But money was not what she was after. She did not need money and she did not need to work. The cash and gold that her father left her would be more than enough for her to live well for several years. Hien continued her peddling for a different purpose. The next day, before leaving home to peddle, Hien took a bowl of soup to Mrs. Duyen, saying: "I'd like you to have a bowl of hot chicken soup. It'll make you feel good." "You don't have to do that." Mrs. Duyen replied. "You just started the business. How can you afford to give me soup free?" Even as she said so, Mrs. Duyen accepted the bowl of soup with both hands. Hien purposefully went to a different neighborhood each time to peddle her soup. She made it a point to observe each home she passed by carefully. It seemed as if she was looking for something of particular importance for her. One day she came to a neighborhood on the Eastern side of the city where houses were bigger and more elegant than those in the rest of the city. She began to shout her ware: "Chicken soup. Hot, delicious chicken soup!" After a while, Hien heard some one call: "Chicken soup." Hien turned around and saw a lady of about forty-five years of age, nicely dressed who was beckoning to her. Hien quickened her steps in the lady's direction. She saw an elegantly built home with red tile roof, a rose garden in front and a wrought iron fence around the premise. Next to the gate was a blue-painted booth with just about enough room for a soldier to stand guard. A military jeep was parked on the street next to the gate. The lady opened the gate and signaled Hien to come in and place her baskets close to the steps. Hien inquired: "Madam. How many bowls of soup would you like to have?" "Two large ones and two small ones." The lady responded. Hien carried the bowls of soup on a wooden tray, following the lady into the house. The lady paid for the soup; then loudly called her husband and her children: "The chicken soup is here. Come out and eat it before it goes cold." A man came out from the inner room. Hien took a glance at him and almost fainted. He was Ta Xuan Vinh. Hien turned away, trying to maintain her composure. She was about to reach the door when the lady said after her: "I'll leave the empty bowls outside the gate for you to collect later." Hien's self confidence had grown stronger and stronger since that day. She felt she was strong enough to do what she wanted. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 18 Today was the first death anniversary of her parents and her siblings. Hien lighted the candles and burned incense on the altar. She knelt before the altar to pray and do obeisance. Before heading out to peddle chicken soup, Hien approached Mrs. Duyen who was listening to folk music on the radio. Hien sat down close to Mrs. Duyen, putting a hand on her lap and confided: "I'm going to get married.." Mrs. Duyen looked at Hien with surprise: "Is that so? Does your husband-to-be live close by?" "No." Hien responded. "He lives all the way up in Bac Ninh Province. I'll have to go live with him. I'm sure I'm going to miss you very much. My husband is very rich. I'll give you lots of cash and some gold, too. When you wake up tomorrow and find cash and gold in your shirt, you'll have to leave this place right away and go to Ha Noi to live with your daughter. Staying here will be very dangerous. Crooks will come in here to rob you and hurt you." "Are you just kidding me or are you serious?" Mrs. Duyen asked. "You make me nervous." "I am serious." Hien answered sternly. "Just remember that when you find the money and gold, you have to go to Ha Noi right away." Then Hien brought a bowl of soup to Mrs. Duyen: "I'd like you to have a bowl of soup." Hien said. "It'll make you feel good." As usual, Mrs. Duyen meekly responded: "You don't have to do that." Hien left Mrs. Duyen eating and headed straight to Ta Xuan Vinh's place. Hien loudly shouted her wares: "Chicken soup. Hot delicious chicken soup. It'll make you feel good all day." A few minutes passed; then Ta Xuan Vinh's wife came out. "Chicken soup." She called after Hien. Hien turned around and quickened her steps toward where Ta Xuan Vinh's wife was standing. Hien followed her through the gate and put down her baskets next to the steps. "Would you like to have two large bowls and two small ones as usual, Madam?" Hien inquired politely. "Yes. Two large bowls, two small bowls and a plate of dark meat chicken." answered Ta Xuan Vinh's wife. Hien carried the bowls of soup and the plate of meat into the house and placed every thing on the table. As Hien was walking out of the door, she overheard Ta Xuan Vinh's wife call her husband and children to come out to have the meal. Hien gently closed the door. She filled a large bowl with soup and took it to the guard. "I'd like you to have a bowl of soup. It'll make you feel good." Hien said as she offered the soup to the guard who mumbled a few words of thanks. Hien walked away from Ta Xuan Vinh's house for a short distance. She stood at the street corner, looking at her watch. She waited for a while; then turned around to look. The guard had slumped down; his head bent and his arms hanging on the side. The bowl had fallen on the ground and broke into several pieces. Hien returned to Ta Xuan Vinh's house. She gently opened the door a little, just enough for her to look inside: Ta Xuan Vinh was leaning backward on his chair; his head turned to the side, his eyes closed. His wife dropped her head on the table, her arms hung limp. the two boys were lying on the floor. Hien opened her baskets and took out a long, big, pointed knife which she had purchased at a high price from the butcher at the market. She opened the door wide and walked in with the determination of a general going to the battle. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 19 A quarter of an hour later, Hien left the place and headed home. Hien entered the house and found Mrs. Duyen still in a deep sleep. She removed a brick in the corner of her room and took out the bag of cash and gold. She placed the bag inside Mrs. Duyen's shirt and went to the altar. Hien burned more incense, knelt down and prayed audibly: "Mom and Dad and my two beloved brothers! Since your wrongful death a year ago, I have been living with just one purpose: To kill the whole family of the one who brought this calamity on us. I have achieved that goal today. I have this special gift to dedicate to you." Hien opened the kettle of soup in the basket and took out Ta Xuan Vinh's head which by then had lost all blood and turned to a dark green color. She placed the head on the empty plate on the altar, knelt down again and prayed audibly: "I have chopped off the head of your killer and brought it here as a special offering to you. I have avenged the wrong this devil did to our family. I have accomplished the mission I set for myself. But when I killed your killer's family, I became a killer myself, a killer just like him. I may have had reasons to kill the killer; but what reasons did I have to kill his wife and his children? The woman was entirely innocent and so were the children. In a day or two, the French authorities will search for me and arrest me. They will torture me, rape me, and then kill me. I deserve to die. I have no purpose for living in this world. I have no family left in this world. I have nowhere to run. How dare I get married? I'd cause my husband and his family to have to bear the consequences of the crime I just committed? How dare I have children? They would constantly remind me of my two younger brothers who were so barbarically killed? They would remind me of the children I have barbarically killed. No, I have no reasons to live any more. So, please wait for me. I'll join you momentarily.” Hien reached into her side pocket for the revolver which she had taken from Ta Xuan Vinh's body. She bent down to the floor and cried uncontrollably; then she opened her mouth, put the muzzle of ■ the gun into it and pulled the trigger. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 20 Câu ChuyŒn Ch» Nghïa CÀn Hi‹u ñ¥c Ng» Và Ti‰ng Lóng Trong Ti‰ng MÏ Phåm Tr†ng LŒ Một Tiếng Lóng Quan Trọng Freeze. Có lẽ vì không hiểu nghĩa tiếng lóng thường dùng trong tiếng Mỹ của cảnh sát và quân đội mà một học sinh Nhật bị chết oan. Chuyện xẩy ra cách đây gần 22 năm. Báo Washington Post ra ngày 20 tháng 10, 1992, trang nhất, trong một bài tường thuật mang tít “Hình Ảnh Xứ Mỹ (Là Một Xứ Ðầy Bạo Lực) Ðược Xác Nhận Sau Cái Chết Của Một Học Sinh,” thuật lại rằng một học sinh Nhật, cậu Yoshihiro Hattari, 16 tuổi, học lớp 11 trung học tại tỉnh Nagoya, mới qua thăm Mỹ trong chương trình trao đổi học sinh, tại tỉnh Baton Rouge, tiểu bang Louisiana, được hai tháng. Tối thứ bẩy, 17 tháng 10, 1992, cậu cùng ngườì bạn Mỹ đi dự tiệc Halloween, chẳng may đi lạc vào vườn sau nhà một người Mỹ. Ông này tên là Rodney Peairs, tưởng là trộm, chĩa khẩu súng lục .544 Magnum của ông vào cậu học sinh và hô: “Freeze!” Theo tin các báo, cậu Hattori, có lẽ vì không hiểu nghĩa tiếng “Freeze” (Ðứng yên không bắn!), nên vẫn bước tới, và ngườì chủ căn nhà (cách nơi liên hoan chừng vài nhà) bóp cò súng, đạn trúng ngực cậu Hattori, và một lúc sau thì cậu thiếu niên chết. Cũng theo tin các báo thuật lại thì tối hôm đó, cậu Hattori mặc đồ dạ tiệc, áo jacket màu trắng, cùng người bạn Mỹ đi bộ từ nhà chủ nơi cậu tạm trú đến một dạ tiệc hoá trang Các Thánh Halloween. Cậu đi nhầm nhà, và bạn cậu sau khi nghe tiếng hô thì đứng lại, còn cậu Hattori vẫn tiếp tục bước tới. Báo chí Nhật nhân dịp này nêu lên vấn đề tự do mang súng và bạo hành ở Mỹ. Báo chí Nhật cũng đăng nhiều trang trong tự điển Nhật-Mỹ nhưng không thấy tự điển nào chua nghĩa chữ “Freeze” là “don’t move or I’ll shoot.” Ðể kiểm chứng, người viết bài này cũng lật các từ điển để bàn sau đây: Ngoài Webster Ninth New Collegiate Dictionary 1. Webster New World Dictionary, Fourth Edition 2. The American Heritage Dictionary, fourth edition (yes) 3. The Random House College Dictionary 4. Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current English (A.S. Hornby) 5. Longman Advanced American Dictionary, New Edition (yes) 6. Webster’s Third International Dictionary (yes) 7. Shorter Oxford English Dictionary Volume A-M (yes) 8. Free Online Dictionary (yes) 9. Urban Dictionary (yes) www.urbanctionary.com/ Trong 9 tự điển kể trên, có 6 cuốn giải nghĩa Freeze là “become motionless or fixed”. Khi lật từ điển Dictionary of American Slang của Harold Wenthworth và Stuart Berg Flexner, second Supplement Edition (New York: Thomas Y. Crowell Company 1975) mới thấy chữ “freeze” được giải thích là “to remain motionless or still” (đứng yên không động đậy). Dĩ nhiên những uẩn khúc trong vụ trên có phải là một tai nạn hay ngộ sát hay vì lý do nào khác, Rodney Peairs ra tòa bị bồi thường $650,000 cho cha mẹ cậu Hattori. Họ dùng tiền này làm học bổng cho học sinh trao đổi và dùng vào việc chống dùng vũ khí. Nhưng sự kiện trên cho thấy tầm quan trọng của đặc ngữ và tiếng lóng trong vấn đề truyền đạt tại xứ Mỹ càng ngày càng trở nên cần thiết, nhất là đối với ngưòi di dân trong một xứ hợp chủng và một nền văn hóa đa diện, mà ngôn ngữ dùng hàng ngày Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 21 phản ảnh nếp sống của người dân trong xứ đó. Về phương diện ngôn ngữ, một số không nhỏ các từ ngữ thường dùng hàng ngày trên vô tuyến truyền thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh và âm nhạc, là những tiếng lóng hay đặc ngữ mà người mới đến Mỹ khó hiểu. Theo nhận xét riêng của người viết bài này, người Nhật học tiếng Mỹ tương đối lâu hơn người Việt vì có nhiều dị biệt giữa hai hệ thống ngữ âm, cấu thức văn phạm Mỹ-Nhật và nhiều dị biệt giữa hai hệ thống chữ viết. Hơn nữa, chương trình dạy Anh ngữ của xứ Nhật quá chú trọng vào đọc, phiên dịch, và văn phạm hơn là nghe và nói thường đàm. Tuy rằng có một số phim Mỹ hay đĩa nhạc Mỹ phổ biến ở Nhật, nhưng phim đã chuyển sang tiếng Nhật nên người nghe không có lợi gì trong việc học thêm Anh ngữ. Các tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh lại được chuyển dịch rất nhanh sang tiếng Nhật nên học sinh và sinh viên Nhật không cảm thấy có một nhu cầu khẩn thiết phải nói và hiểu tiếng Anh như một số học sinh các nước Á châu khác. Ai sang Nhật cũng bỡ ngỡ thấy đường phố, ngoại trừ vài khu danh tiếng như Ginza, đều viết bằng tiếng Nhật. Bước vào tiệm ăn, ta thấy các món ăn đều viết bằng tiếng Nhật (may là ngoài tủ kính có bầy những món ăn giả làm mẫu để khách chọn). Nhưng vấn đề đặt ra là tầm quan trọng của đặc ngữ trong đời sống hàng ngày của ngườì Mỹ. Theo Stuart Breg Flexner (sách viết năm 1960) thì người Mỹ trung bình hiểu được chừng 10 đến 20 ngàn chữ, trong đó có chừng 2 ngàn đặc ngữ và tiếng lóng. Tiếng Anh, vẫn theo Flexner, hiện có chừng 600 ngàn từ ngữ nghĩa là tăng gấp 4 lần số từ ngữ từ thời Shakespeare (cuối thế kỷ 16 - đầu thế kỷ 17) và mỗi ngày số từ ngữ mỗi tăng do tiến triển của khoa học, âm nhạc, đời sống học sinh, sinh viên, hippi (thập niên 1960s) và bây giờ thuật ngữ của thế giới điện tử, điện toán, giới những người dùng ma tuý, giới thể thao, cảnh sát, quân đội, và thế giới của những người sống ngoài vòng pháp luật mà tiếng lóng giữ một vai trò bảo mật và an ninh cho kẻ cùng nhóm, vì họ cùng chia sẻ một đặc ngữ riêng. Tại Sao Cần Hiểu Ðặc Ngữ Và Tiếng Lóng Ðể hiểu người khác nói gì; Ðể mình không bị mặc cảm là kẻ ngoại cuộc; Ðể tuỳ hoàn cảnh thích hợp, ngôn ngữ mình dùng vắn tắt và văn vẻ hơn. Thay vì nói,” Cô ấy tuyệt đẹp, “she’s beautiful,” ta dùng “She’s a real knockout.” 4. Ðể tránh dùng những tiếng làm phật lòng người nghe và bị mang tiếng là người có đầu óc kỳ thị phái tính. Thí dụ: Ở sở làm quí ông chớ gọi đồng nghiệp nữ giới là “honey” (“cưng”); hãy dùng “humankind” thay vì “mankind” (nhân loại); workers’ compensation” thay vì “workmen's compensation” (phụ cấp tai nạn nghề nghiệp); tránh dùng “he” hay “everyone” trong đó ý gồm cả phái nữ. Thay vì nói, “Everyone plays his part in the game” (Trong cuộc chơi ai cũng dự phần), ta đổi sang số nhiều thành “All play their parts in the game”. 5. Khi xem báo hay nghe vô tuyến truyền hình hay xem phim ảnh, nếu nghe thấy một đặc ngữ mình không hiểu, có thể hỏi con cái đã học trung học hay đại học là những người có một số vốn đặc ngữ khá. Bây giờ có thể dùng Google. 1. 2. 3. William Haney, trong cuốn sách Communication and Organization (Homewood, Ill.: Richard D. Irwin, 1975) kể chuyện một sinh viên Ấn Ðộ mới sang Mỹ học. Ngày đầu sau khi được người bạn Mỹ đưa đi thăm khắp khuôn viên đại học, và làm thủ tục ghi danh, anh sinh viên Ấn Ðộ được đưa về cư xá sinh viện. Rồi nghe người bạn Mỹ nói, “See you later.” Tối hôm đó, người sinh viên Ấn Ðộ thức đến hai giờ sáng chờ người bạn Mỹ, đinh ninh anh ta hẹn sẽ trở lại, có biết đâu câu đó chỉ có nghĩa “Thôi, về nhé!” Một sinh viên Thái Lan, khi vào thăm vị viện trưởng đại học, nghe danh ông là một học giả uyên thâm, nói rằng,”I’m very honored to see you. I heard that you are a wise guy.” (Tôi rất hân hạnh được gặp ngài. Tôi nghe nói ngài là một nhà thông thái (a sage)). Nhưng thay vì dùng chữ “wise man”, người sinh viên Thái lại dùng chữ “wise guy” tiếng chỉ là một kẻ tự đắc, cho mình là giỏi hơn người cái gì Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 22 cũng biết (smart aleck). Wise guy còn có nghĩa là một tên liên hệ với đảng cướp Mafia. Như vậy, hiểu tiếng lóng là một chuyện cần, nhưng dùng tiếng lóng cho đúng là một chuyện khác. Cẩn thận khi dùng tiếng lóng, vì dùng tiếng của kẻ hạ cấp hay thô tục sẽ dễ bị hiểu nhầm. Ngược lại, trong một đám đông bạn bè thân mật mà dùng tiếng Anh nghiêm chỉnh làm cho người nghe tưởng mình trịnh trọng, trịch thượng, đạo đức giả. Trong các đặc ngữ được dùng nhiều trong dân gian có một số trở thành sáo ngữ mà các thầy cô dạy viết văn khuyên sinh viên nên tránh (cliché), nhưng đôi khi, trong khi đàm thoại, để tránh nói dài dòng, cũng nên biết để dùng, và nhất là biết để hiểu khi người khác dùng những sáo ngữ này. Ngoài các đặc ngữ này còn có những ẩn dụ (metaphors) tức là những tiếng gốc đã được chuyển hóa để thành nghĩa bóng. Chính những tiếng ẩn dụ này gây nhiều hiểu nhầm trong vấn đề truyền đạt. Trong cuốn The Philosophy of Rhetoric (Triết lý của Khoa Tu-Từ Pháp), tác gỉả I. A. Richards cho rằng khoa tu từ pháp có mục đích giúp ta nhận ra những cách mà các từ ngữ biến nghĩa thế nào. Ta thường quan niệm rằng mỗi chữ có một nghĩa riêng, và nếu dùng đúng chữ thì không thể sai nghĩa được. Giáo sư Richards cho rằng nghĩ như vậy không đúng, và ông giải thích “nghĩa” là gì; khi mình dùng một chữ thì có chắc là người nghe cũng hiểu nghĩa đó như mình không. Trong một cuốn sách tả cuộc đi thăm viếng Việt-Nam, tác giả Neil Sheehan, trong cuốn After the War Was over: Hanoi and Saigon (New York: Random House, 1992), khi phỏng vấn viên tướng tư lệnh vùng 7 bao quanh thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận Saigon, tả đến nơi ngày xưa là bộ tổng tham mưu VNCH gần Tân Sơn Nhất, có nói đến bộ Chỉ Huy Hành Quân Liên Hợp (Joint Operations Command). Chữ “joint” ngụ ý liên hợp các binh chủng hải lục không quân, nhưng vị tướng Cộng sản tưởng “Joint” là “hợp tác” với ngoại quốc (collaboration) nên cực lực phản đối. Có nhiều từ ngữ lịch sử ngày nay bị thay thế bởi những từ ngữ khác. Ngày xưa những người da đen bị gọi là “nigger” hay “negro”’ sau đổi thành “black”. Từ ngày phong trào tìm về nguồn của người da đen lên mạnh nên được gọi là “African-American” (người Mỹ gốc Phi-châu). Phong trào pi-xi hay politically correct ta gọi là “có thái độ theo thời" đã khiến ta phải dùng chữ thận trọng để tránh hiểu nhầm có đầu óc kỳ thị. Tiểu bang Maryland có luật dùng tiếng “African-American” để chính thức chỉ những người Mỹ gốc Phi-châu. Có những từ ngữ có một lịch sử riêng. Thí dụ chữ “Chink” là tiếng lóng để miệt thị người di dân gốc Trung Hoa; “chino” để chỉ thứ quần vải ka-ki mà người Tàu làm phu xây đường xe lửa ở California ngày xưa mặc. Ngày nay chữ “chino” để chỉ thứ quần vải bông dầy mà sinh viên mấy liên trường đại học danh tiếng Ivy League (vì có cây thường xuân mọc bám trên tường mấy tòa nhà học cổ như các đại học Yale, và Harvard) thường mặc. Vậy thì mỗi chữ chẳng qua là một tiếng ẩn dụ để chỉ một vật hay một ý niệm, mà người một xứ dùng. Nhà văn hào Jonathan Swift trong cuốn ba của cuốn Gulliver’s Travels tả một dự án của một trường dạy sinh ngữ tại hàn lâm viện Lagado, mà theo đó, thì thay vì dùng chữ viết, mỗi người khi ra ngoài đường mang theo một túi lớn đựng những món đồ và khi mình muốn tả, muốn nói đến vật gì, thì lấy vật đó trong bao ra, và như vậy tránh khỏi dùng chữ và tránh hiểu nhầm! Ðây chỉ là một ý tưởng ngộ nghĩnh và trào lộng, nhưng nói lên sự cần thiết của ý và nghĩa. Một chữ còn có nghĩa khác nhau tuỳ từng nền văn hóa của xứ đó. Trên đài truyền hình, một cử tri nói tôi thích ông Bill Clinton vì ông trông có vẻ như con chó con (puppy)! Trong một nền văn hóa quí súc vật cưng như Mỹ, được ví như một con chó con cho người nghe một hình ảnh còn non, dễ thương, cần che chở. Nhưng trong một nền văn hóa khác, chó chỉ để nuôi, để giữ nhà (hay làm món dựa mận cho mấy bợm nhậu), thì bị so sánh như một con chó chưa phải là một hình ảnh đẹp. Ta có tiếng mắng “Ðồ mặt chó!” Ðối với người theo đạo Hồi (Muslims) thì chó là hình ảnh của một con vật hung ác. Khi chuyển dịch từ một tiếng này sang một tiếng khác nghĩa lại bị mất mát đi nhiều. Bạn thử đọc những bài dịch câu thơ của Verlaine “Les sanglots longs des violons de l’automne/Blessent mon coeur d’une langueur monotone” (Ðàn thu thổn thức giọt sầu/Tim côi rướm máu một mầu tái tê), nhưng những câu dịch dường như chưa lột được âm thanh “ô” và “ơ” chậm và dài trong nguyên bản tiếng Pháp. Xem thế thì thấy nghĩa chuyển từ một văn hóa này sang một Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 23 văn hóa khác có mất đi phần nào ý gốc. Tiếng chửi “son of a bitch” (đồ chó đẻ) sang tiếng Tây Ban Nha dịch là “hijo de puta” (đồ con đẻ của con đĩ) thì mới tả được tiếng chửi đó (theo John Biguenet và Rainer Schulte trong cuốn The Craft of Translation (Chicago: University of Chicago Press, 1989). Vài Thí Dụ Về Gốc Chữ: -A-1: nhất hạng. Do cách xếp hạng của hãng bảo hiểm Loyd’s Register of Ships áp dụng cho các tàu mà tình trạng còn mới, tốt. -CAPITAL PUNISHMENT: hình phạt tử hình. Do chữ “caput” gốc tiếng Latin nghĩa là “đầu”. Kẻ bị tử hình đáng bị mất đầu. Do gốc nghĩa chữ “caput” mà ta có chữ “captain” (thuyền trưởng, đại úy), “capital” (thủ đô); nhưng phân biệt với “Capitol” tòa nhà lập pháp tiểu bang hay liên bang. “Capitol Hill” (Quốc Hội Hoa Kỳ); “capitalist” (người đầu vốn, tư bản). Bây giờ người Mỹ còn dùng chữ “head” để chỉ “con” như bò, ngựa, như trong câu hai mươi con bò thì nói “twenty head of cattle” vì bò hay ngựa ngày xưa còn là thước đo tài sản của một người. Ta có câu “ruộng sâu trâu nái” để chỉ người có của. -NOT ABLE TO MAKE HEAD OR TAIL OF IT: không hiểu đầu đuôi ra sao, không hiểu đầu cua tai nheo. -ACHILLES’ HEEL: điểm yếu của người bản lĩnh. Theo thần thoại Hy Lạp, nữ thần Thetis muốn con là Achilles sau này lớn lên sẽ không bị tên đạn bắn vào người, nên đem đưa con ra sông Styx, dúng xuống nước thần làm thân thể thành mình đồng da sắt. Ngờ đâu chỗ tay bà nắm lấy gót chân đứa nhỏ, khiến không dúng gót chân vào nước thần được, nên gót chân thành một chỗ phạm. Về sau Achilles bị tên bắn trúng gót chân mà chết. Ta có câu “có tài mà có tật.” -BE ALL THINGS TO ALL MEN: tỏ nhiều thái độ khác nhau để chiều lòng mọi người. Trong cuộc tranh cử tổng thống, tổng thống Bush cha chỉ trích thồng đốc Arkansas Bill Clinton, không có lập trường rõ rệt. Câu này gốc trong kinh thánh. -CURFEW: giờ giói nghiêm. Do chữ Pháp “couvre feu (tắt lửa) thời trung cổ để tránh hỏa hoạn, ban đêm có chuông rung báo dân phải tắt lửa vì thời đó chưa có sở cứu hỏa! Ngày nay, mấy bậc phụ huynh khắt khe có con gái cưng trong tuổi trung học, cho phép đi chơi tối, nhưng hẹn phải về trước giớ nào đó, cũng dùng chữ “curfew”, không phải sợ hỏa hoạn, nhưng sợ các cô cậu có bóng đêm đồng lõa, không dập tắt được “lửa lòng” chăng! -HANG IN THERE: vẫn kiên trì trong hoàn cảnh khó khăn. Gốc từ tiếng dùng khi các đấu thủ quyền Anh, dù bị đấm đau mà vẫn cố bám lấy đối thủ hay dây chão quanh sàn đấu. -HOLD THE FORT: Lo mọi chuyện khi chủ hay vị trưởng nhiệm đi vắng. Gốc từ chuyện tướng Sherman trong trận nội chiến Hoa Kỳ ra lệnh cho vị tướng dưới quyền lo trấn giữ núi Kennesaw năm 1864. -KOWTOW: khúm núm, quị luỵ ai. Do tiếng Bắc kinh “k’o tóu” (khấu đầu). -KNOW THE ROPES: học biết những điều căn bản, đường đi nước bước. Chỉ người thuỳ thủ mới lên tàu phải học cho biết các loại thừng nào dùng cho việc gì, nay dùng để chỉ người thợ mới học việc hay Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 người mới tới sở làm, cần học những điều căn bản. 24 -MELTING POT: nguyên nghĩa là lò luyện kim, nghĩa bóng chỉ nước Mỹ, nơi dân tứ xứ tới hoà đồng với nhau như các thứ kim loại được nung chảy thành loại hợp kim mới, tốt hơn. Ðây là nghĩa bóng ngày xưa, và bị một số dân không chấp nhận, vì nghĩ là như vậy mình sẽ phải bỏ cá tính của mình để thành cá tính của người Mỹ. Một số nhà sử học dùng hình ảnh bát rau xà-lát (salad bowl) vừa ngụ ý các thứ rau vẫn giữ nguyên chỉ trộn lại mà thành xa-lát, nghĩa là không mất bản tính gốc, nhưng cũng ngụ ý lộn xộn, thiếu đồng nhất. Bây gờ có người dùng hình ảnh xứ Mỹ như ống kính vạn hoa, khi soi lên và xoay quanh thành muôn mầu muôn vẻ (kaleidoscope). Cũng có người dùng hình ảnh một ban hòa tấu (symphony) gồm nhiều nhạc khí. Hay một mosaic là một bức tranh gồm nhiều mảnh mầu ghép lại. Xem như thế thì thấy tiếng ẩn dụ metaphor ảnh hưởng đến quan niệm ngườì dân một xứ thế nào! SOUND AND FURY: âm thanh và cuồng nộ. Chỉ những sự ồn ào, náo động, rỗng tuếch, không đem lại kết quả gì. Macbeth nói trong vở kịch cùng tên của Shakespeare: Life’s but a walking shadow, a poor player That struts and frets his hour upon the stage And then is heard no more: it is a tale Told by an idiot, full of sound and fury, Signifying nothing. (Cuộc đời chỉ là một cái bóng đi, một diễn viên tồi Khệnh khạng qua giờ mình đóng trên sân khấu rồi không ai nghe đến nữa: đời như một câu truyện của một tên khùng kể, đầy âm thanh va cuồng nộ, mà chẳng nghĩa lý gì.) NHỮNG NGUỒN ÐẶC NGỮ TRÊN MẠNG Sau đây là một số sách hay nguồn mà sinh viên Việt--nhất là những sinh viên không đủ khả năng tài chính để học những lớp luyện sinh ngữ riêng-- trước khi du học có thể trau giồi vốn ngoại ngữ. Sách Longman Advanced American Dictionary, 2nd edition. 2007. Price: less than $40 Websites VOA: http://www.voanews.com/Vietnamese 8 chương trình học tiếng Anh trong đó chú trọng đến slang và idioms là chương trình Từ và Thành Ngữ; World in a Word; EIM (English in a Minute); English at Movies. BBC tiếng Việt – Learning English www.bbc.co.uk/vietnamese/english/ More than 280 Common American Slang Expressions Sorted Alphabetically http//www.manythings.org/slang/ => có bài tập và giải nghĩa. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 25 KẾT LUẬN Xem như thế thì thấy đặc ngữ giữ một vai trò quan trọng trong tiếng Mỹ mà người dân mới tới hay sinh viên ngoại quốc phải một thời gian khá lâu mới nắm vững. Sau 39 năm kể từ 1975 ở Hoa Kỳ, phần lớn ngườì Việt đã có đời sống kinh tế tương đối ổn định, nhưng trong khi đàm thoại hay đọc báo hay xem truyền hình hằng ngày, ta không sao tránh gặp những đặc ngữ, trong đó tiếng lóng và tiếng ẩn dụ giữ một vai trò quan trọng trong việc truyền đạt. Giáo sư E. D. Hirsch tác giả cuốn Dictionary of Cultural Literacy, còn đưa ra một thuyết mạnh hơn, theo đó thì trong việc truyền đạt hiệu quả, bất cứ ngườì Mỹ nào học xong bậc trung học muốn hiểu người khác nói gì thì phải hiểu một số đặc ngữ mà ông gọi là “core vocabulary” (ngữ vựng căn bản). Ông viết: “Learning depends on communication, and effective communication depends on shared background knowledge,” (p. xiii) (“Hiểu biết tuỳ vào truyền đạt mà muốn truyền đạt hữu hiệu thì phải cùng chia sẻ một kiến thức căn bản.”) Ngoài phần đặc ngữ căn bản rải rác trong tất cả các môn như sử ký, địa lý, khoa học, tục ngữ, thành ngữ, thần thoại, v.v.., ta cần phải biết mỗi từ ngữ được dùng như thế nào, ngụ hình ảnh gì, người nói muốn ngụ ý gì, người nghe hiểu ra sao khi dùng một từ ngữ, có như vậy mới tránh được hiểu nhầm khi diễn đạt tư tưởng. Benjamin Lee Whorf trong tập cảo luận Language, Thought and Reality còn nói rằng mỗi ngươì sinh ra trong một văn hóa nào thì chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa đó, trong đó có ngữ vựng, văn phạm, lối lý luận, và suy tưởng, và nếu như vậy thì những chữ dùng của một người xứ này có thể gợi hình ảnh khác biệt cho người dân xứ khác, và chính những dị biệt này gây trở ngại lớn lao cho người nói với người nghe. ■ Sách Tham Khảo Beal, Paul, ed. PARTRIDGE’S CONCISE DICTIONARY OF SLANG AND UNCONVENTIONAL ENGLISH. New York: MacMillan, 1989. Green, Jonathon. CHAMBERS SLANG DICTIONARY. Edinburgh: Chambers Harrap, 2008 Hirsch, E. D., Jr., Joseph F. Kett and James Trefill. THE DICTIONARY OF CULTURAL LITERACY. Boston: Houghton Mifflin Company. 1988. Richards, I. A. THE PHILOSOPHY OF RHETOTIC. London: Oxford University Press, 1936, 1965. Rogers, James. THE DICTIONARY OF CLICHÉS. New York: Ballantine Books, 1985. Gồm 2,000 sáo ngữ và giải thích nguồn gốc mà chúng tôi chọn làm thí dụ trong bài viết này. Wentworth, Harold and Stuart Berg Flexner. DICTIONARY OF AMERICAN SLANG. Second Supplement Edition, New York: Crowell, 1960, 1975. Ðây là một kho thành ngữ và tiếng lóng dùng trước 1970, có rất nhiều tiếng lóng từ thập niên 60 và 70. Có cả những tiếng như “trời” và “xạo” là hai từ ngữ Việt mà binh sĩ Mỹ đã du nhập vào tiếng Mỹ. Whorf, Benjamin Lee. LANGUAGE, THOUGHT AND REALITY. John B.Carroll, ed. Cambridge, Mass.: MIT Press, 1956. (Viết xong Virginia 10/2/92; sửa lại 2/25/10, 2/26/2014.--PTL) Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 26 Arthur Rimbaud (1854-1891) Poète francais INTRODUCTION Le poeme Le Dormeur du Val est extrait du recueil Poesies écrit à l’âge de 16 ans, quand Arthur Rimbaud traverse des zones devastées par la guerrre de 1870 en Europe. L’horreur de la guerre a inspiré de nombreux textes, mais l’un des plus célèbres par la sobriété de sa dénonciation est peut être le Sonnet Le Dormeur du Val. (Source : Internet – Wikipedia). Le Dormeur du Val par Arthur Rimbaud (1854-1891) C'est un trou de verdure où chante une rivière Accrochant follement aux herbes des haillons D'argent ; où le soleil, de la montagne fière, Luit : c'est un petit val qui mousse de rayons. Un soldat jeune, bouche ouverte, tête nue, Et la nuque baignant dans le frais cresson bleu, Dort ; il est étendu dans l'herbe sous la nue, Pâle dans son lit vert où la lumière pleut. Les pieds dans les glaïeuls, il dort. Souriant comme Sourirait un enfant malade, il fait un somme : Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Nature, berce-le chaudement : il a froid. Les parfums ne font pas frissonner sa narine ; Il dort dans le soleil, la main sur sa poitrine Tranquille. Il a deux trous rouges au côté droit. ■ T R A D U C T I O N EN V I E T N A M I E N Bản dịch Việt Ngữ Le Dormeur du Val NgÜ©i Ngû Trong Thung LÛng David Lš Lãng Nhân (dịch thuật) Khoản đồng xanh tiếng suối reo nước chảy Cỏ ngây cuồng vương áo bạc tả tơi Ngạo nghễ non cao, nắng chiếu rạng ngời Thung lũng nhỏ bừng ánh dương rực rở Chàng lính trẻ đầu trần, mồm hé mở Gáy ướt dầm trong đám cải non xanh Sóng xoải dưới trời mây, giữa cỏ thanh Trên giường biếc xanh xao, sa giọt nắng Chàng nằm ngủ, chân vùi trong lan trắng Miệng mếu cười như em bé ốm đau Thiên nhiên ơi: ru chàng ấm lại mau! Hương nồng chẳng phập phồng cánh mũi Chàng ngủ say trong nắng, ngực buông lơi Lặng yên. Hai lổ đỏ thủng qua người. ■ Madison, AL, January 2014 27 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 28 M¶t Chút Thøy Si: Lucerne HÒ Lucerne Và TÜ®ng SÜ Tº ñá Cûa Lucerne Sóng ViŒt ñàm Giang biên soån Thụy Sĩ hay Liên bang Thụy Sĩ là một quốc gia không giáp biển thuộc khu vực Tây Âu với dân số khoảng 7.5 triệu người. Thụy Sĩ là quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang gồm 26 bang (canton) với thủ đô là thành phố Berne và hai trung tâm kinh tế lớn là Geneva và Zurich. Hình Internet Do vị trí địa lý đặc biệt nằm giữa nhiều nước lớn (Pháp, Đức, Áo, Liechtensen, Ý, Pháp) nên Thụy Sĩ có bốn ngôn ngữ chính. Đó là tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Romansh. Hơn nữa, Thụy Sĩ còn là nước có truyền thống trung lập, không xảy ra bất kỳ một cuộc chiến tranh nào từ năm 1815 đến nay và là trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng. Thụy Sĩ là một quốc gia nhiều đồi núi với những phong cảnh thiên nhiên trên dãy núi cao Alps, nhiều dòng sông băng và nhiều hồ nước đẹp. Đất nước này còn nổi tiếng về ngành sản xuất đồng hồ và được biết đến như một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới. Thụy Sĩ theo chế độ cộng hòa với mô hình nhà nước liên bang. Cấu trúc nhà nước liên bang gồm 26 bang theo 3 cấp: chính quyền liên bang, chính quyền bang (canton) và chính quyền xã. Cấp hành chính thấp nhất ở Thụy Sĩ là các hạt. Trong 26 bang thì chỉ có 16 bang có cấp hành chính quận. Vài hạt có thể tập hợp thành một vùng, tuy nhiên đây không phải là một cấp hành chính. Ngôn ngữ: Tiếng Đức 65%, Pháp 18%, Ý 10%, và các ngôn ngữ khác 7%. Thụy sĩ có nhiều thành phố nổi tiếng, một số ghi tên ở đây như Basel, Bern, Geneva, Lausanne, Lucerne, Zurich… Phần bài viết này nói về địa danh Lucerne. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 29 Lucerne Luzern (viết theo tiếng Đức) hay Lucerne (viết theo tiếng Pháp, Anh) một thành phố miền trung Thụy sĩ, nằm cách Zurich khoảng 60km về phía nam. Lucerne nằm trên cao độ 436m (1,430ft) và là thủ phủ của bang có cùng tên. Dân số cỡ 60,000. Thành phố nằm ở đầu tây bắc của hồ Lucerne, nơi sông Reuss chảy ra khỏi hồ. Reuss là một con sông với chiều dài gần 100 miles, và là sông lớn thứ tư ở Thụy Sỹ (sau Rhine , AAR và Rhone ). Lucerne được coi như là trung tâm kinh tế và văn hóa của miền trung Thụy Sĩ. Nền kinh tế của Lucerne dựa vào du lịch và thương mại. Người ta ví Lucerne là Thụy Sĩ thu nhỏ vì ở đây có hồ, có núi, người dân nói cả 4 ngôn ngữ chính thức của Thụy Sĩ (Đức, Pháp, ý và Romansh) mặc dù tiếng Đức là ngôn ngữ chính, và có nhiều kiến trúc cổ và nhiều viện bảo tàng. Hồ Lucerne: Những con thuyền nhỏ lượn lờ quanh hồ, những chú thiên nga bơi lội, những chùm nắng cuối cùng của một ngày nhuộm vàng những căn nhà cổ kính ven hồ: Ôi nên thơ làm sao! Bản nhạc Sonata của Beethoven được đặt tên là Moonlight Sonata khi một nhà phê bình âm nhạc so sánh với ánh trăng trên hồ Lucerne thì quả không sai chút nào vì hồ Lucerne đẹp quá. Bản Sonata quasi una Fantasia của Ludwig van Beethoven (1770-1827) viết cho đàn dương cầm cũng được gọi là Bản Sonata Ánh trăng. Ludwig van Beethoven viết bản sonata này dành cho cô học trò dương cầm 17 tuổi của ông Gräfin Giulietta Guicciardi vào năm 1801. Năm năm sau khi ông mất (1827) thì bản sonata được nhà phê bình âm nhạc Ludwig Rellstab miêu tả và so sánh khúc đầu tiên của bản nhạc với ánh trăng sáng trên hồ Lucerne nên đặt cho tên Moonlight Sonata vào năm 1832. Movement 1 của bản nhạc có thể nghe tại link: http://www.youtube.com/watch?v=nT7_IZPHHb0 Trọn bài 3 movements có thể nghe tại link: http://www.youtube.com/watch?v=4Tr0otuiQuU Cầu Chapel hay "Chapel Bridge" (trong tiếng Đức Kapellbrücke) là cây cầu dài 204 m (670 ft) qua sông Reuss ở thành phố Lucerne ở Thụy Sĩ. Đây là cây cầu bằng gỗ cổ nhất ở Châu Âu. Có thể nói chiếc cầu gỗ Chapel cùng tháp nước hình bát giác bắc qua sông Reuss ở đoạn cuối hồ Lucerne là một địa điểm kiến trúc đặc biệt của thành phố này, nó là một đường cầu hoa có hoa phong lữ (geranium) đỏ tươi và thu hải đường (begonia) hồng đậm trong chậu đặt ở hai bên thành ngoài của cầu, đặc biệt lại có những tác phẩm hội họa gắn trên khung dàn mái che hình tam giác của lối đi trên cầu. Cây cầu được xây dựng năm 1333, với mục đích để giúp bảo vệ thành phố và được đặt tên là Cầu Nhà nguyện theo Nhà nguyện của St. Peter gần đó. Bên trong cầu là một loạt các bức tranh gắn lên từ thế kỷ 17, miêu tả sự kiện từ lịch sử của Lucerne và các truyền thuyết về 2 vị thánh bảo trợ của thành phố là St. Leodegar và St. Mauritius. Nhiều phần của cây cầu, và phần lớn các bức tranh, đã bị phá hủy trong một vụ cháy năm 1993, hiện chỉ còn lại 35 bức nguyên vẹn. Năm 1994, thành phố đã dùng hơn 2 triệu USD để xây dựng lại chiếc cầu và tu bồi các bức tranh cổ, một số tranh đã được thay thế hoặc sao chép vì không thể phục hồi được. Trong những tấm họa còn lại có tấm tranh miêu tả William Tell bắn trái táo đặt trên đầu con trai. William Tell là một người bắn cung rất giỏi ở đầu thế kỷ thứ 14 tại Thụy sĩ. Vì không chịu chào cái mũ của Thị trưởng người Áo Gessler cắm trên một cây cọc nên Tell bị Gessler bắt giữ và ra lệnh phải bắn một trái táo đặt trên đầu con trai của Tell. Tiếp giáp cầu ở gần khoảng giữa là Wasserturm (Water Tower) cao 110 feet (34 m), một tháp bằng đá và gạch hình bát giác xây vào cỡ năm 1300, được dùng như là một nhà tù , buồng tra tấn, tháp canh và kho chứa kim quý. Ngày nay, tháp là một phần của bức tường thành phố, được sử dụng như Sảnh đường hội họp của Tòa thị chính. Tháp và cầu Chapel là biểu tượng của Lucerne. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 30 Hình chụp từ phía bên phải trước khi lên cầu, đường cầu, tranh họa trên trần cầu và sau khi ra khỏi cầu lại đi vòng xuôi một cây cầu khác đi ngang nhà thờ Jesuit và những quán ăn, quán cà phê dọc theo bờ hồ rồi trở lại phía đầu cầu. Nhà thờ Jesuit nằm gần và nhìn ra cầu Chapel bên sông Reuss là nhà thờ Baroque lớn đầu tiên được xây dựng ở Thụy Sĩ vào năm 1666 bởi Cha Christoph Vogler với hai ngọn tháp hình củ hành. Ngày nay nhà thờ Jesuit là nơi thường tổ chức những buổi hòa nhạc. Đặc biệt trên hồ Lucerne có rất nhiều thiên nga bơi lội. Người địa phương nói thiên nga có từ thế kỷ thứ 17 là do vua Louis XIV đã tặng Thụy sĩ để tỏ lòng biết ơn những vệ binh Thụy sĩ đã bảo vệ hoàng gia. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 31 Tượng đài Sư tử đá Một địa điểm khác của Lucerne không thể không đến thăm là Tượng đài Sư tử khắc vào vách núi đá. Tượng đài này nằm trên vách một ngọn núi nhỏ bên cạnh một công viên ở phía đông bắc của Lucerne, nhìn xuống một hồ nước nhỏ, chung quanh có nhiều cây to cổ và bên bờ hồ có trồng nhiều hoa. Tượng Sư tử đá ở Lucerne là một tượng đài điêu khắc sâu vào một tường thành bằng đá một Sư tử đang nằm chết ngay bên một bờ hồ của một ngọn núi nhỏ. Đây là một tượng đài để kỷ niệm những người lính đánh mướn Thụy sĩ đã phục vụ và chết khi bảo vệ vua Louis XIV của Pháp trong thời Cách Mạng Pháp. Năm 1792. Khi nhóm Cách Mạng tấn công vào điện Tuileries ngày 10 tháng 8 năm 1792, thì nhóm lính Thụy sĩ đã hết lòng hết sức để bảo vệ hoàng gia và bảo đảm hoang gia trốn thoát được mà không hề biết rằng nhà vua và gia đình đã ra khỏi điện Tuileries rồi. Khi cạn hết dự trữ vũ khí đạn dược thì nhóm lính Thụy sĩ bị giết chết. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 32 Phía bên trên tượng đá Sư Tử có khắc một hàng chữ lớn: HELVETIORUM FIDEI AC VIRTUTI có nghĩa: “Để tưởng nhớ lòng trung thành và dũng cảm của những người Thụy Sĩ”. Phía dưới hốc tượng Sư tử có khắc tên hai mươi sáu sĩ quan Thụy sĩ đã chết ngày 10 tháng 8 và mùng 2-3 tháng 9 năm 1792, và số lính Thụy sĩ đã chết (DCCLX = 760) và số còn sống sót (CCCL = 350). Có thể nói Tượng đài Sư tử được thành lập là do công sức của một sĩ quan Thụy sĩ tên Carl Pfyffer von Altishofen, thuộc giòng dõi của một gia đình có tên tuổi của Thụy sĩ. Năm 1792, Pfyffer đang nghỉ phép trong thời kỳ nhóm lính Thụy Sĩ đang chiến đấu tại điện Tuileries. Hai mươi ba năm sau đó, sau thời kỳ cách mạng chấm dứt vào năm 1815, và nước Pháp cũng như Thụy sĩ đã trở về với chánh thể bảo thủ, Pfyffer đã nhất quyết phải làm một tượng đài để kỷ niệm những người lính đánh mướn xấu số này. Dự án ban đầu gặp sự phản đối của nhóm cấp tiến trước đó đã phản đối việc gửi lính đánh mướn đi các nơi. Mặc dù có sự phản đối này nhưng Pfyffer đã được sự ủng hộ của đa số dân Thụy sĩ nên dự án được chấp thuận. Bắt đầu từ năm1818, Pfyffer đã cổ động việc đóng góp tiền để thực hiện đồ án. Tượng đài kỷ niệm Sư tử được nhà điêu khắc Đan Mạch Bertel Thorvaldsen (1770-1884) thiết kế vào năm 1819 trong khi ông đang ở Rome, Italy. Và Lucas Ahorn, một người thợ đá- hồ vùng nam nước Đức đã thực hiện việc khắc đá vào năm 1820-1821. Tượng điêu khắc hoàn tất được khánh thành ngày 10 tháng 8 năm 1821. Điêu khắc lớn này cao chừng 6 m (hơn 19 ft), dài cỡ 10 m (hơn 32 ft). Khởi đầu khu tượng Sư Tử đá này thuộc bất động sản tư nhân của tướng Pfyffer, nhưng hơn 60 năm sau đó đã được chính quyền mua lại. Hiện nay nơi này được mở cửa tự do với giờ giấc loan báo tại cổng, không mất tiền vào chiêm ngưỡng. Bước qua cánh cửa quét vôi trắng, chúng ta thấy lòng tự nhiên trùng xuống, trước mặt đây là một bức vách thiên nhiên bằng đá, trên vách khắc sâu vào lòng đá là tượng một sư tử trong thế nằm rất quý phái mắt nhắm nghiền, trên lưng có một cây giáo đã gẫy đâm sâu vào thân, có máu thấm trên lông, một chân như bảo hộ che chở đặt lên trên tấm khiên có biểu tượng nước Pháp/hoàng gia Pháp với hoa bách hợp (Fleur- de-lis), phía đầu có một khiên mang hình chữ thập dựng vào vách đá tượng trưng cho quốc gia Thụy sĩ.. Tuy nằm sắp chết nhưng sư tử vẫn oai phong, đau đớn nhưng vẫn chứa hào khí, không một chút rúm ró hay thảm hại… Cảm xúc, bồi hồi đến một cách tự nhiên trong tâm người viết, hào khí thay, đẹp làm sao: giữa vách núi sừng sững, hồ nước lăn tăn chút sóng nhỏ, gió nhẹ lay động những cành cây lòa xòa bên bờ hồ, những chùm hoa hồng, hoa trắng ven bờ: tất cả như tôn vinh cái chết hào hùng của chúa sơn lâm, không Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 33 có nơi nào thích hợp hơn! Mủi lòng đến nhỏ lệ, ồ tại sao cảnh có thể rung động lòng người đến thế! Ngàn Thu Sư Tử Đá Sư tử nằm trong ổ đá cao Bên hồ tĩnh mịch gợi nao nao Ngả thân quý phái sầu bi đọng Giáo gẫy xuyên lưng thống khổ trào Chân đặt trên khiên Pháp biểu hiệu Đầu kề Thụy sĩ giáo thanh cao Xa ngoài náo nhiệt cùng nhầm lẫn Một cõi oai phong đẹp biết bao Đàm Giang Trước khi kết thúc bài viết tưởng cũng nên ghi lại vài điểm quanh tượng đá Sư tử này. *.Về những bàn luận quanh cái khung (ổ) của tượng đài Sư tử đá. Nếu nhìn tổng quát cái khuôn chung quanh của tượng thì chúng ta thấy giống hình dạng một chú heo rừng (hog) với mũi nhọn hướng về phía bên trái khi nhìn vào vách tượng và tai heo rừng vểnh lên thấy rõ. Nhưng sự kiện này có chủ ý không và tại sao? Điều này thì hoàn toàn không ai biết rõ ngoại trừ những người thực hiện đồ án vào năm 1819-1821. Ít nhất thì cũng có hai giả thuyết về cái ổ có hình dạng giống con heo rừng của tượng sư tử đá này. Có người cho rằng khi đồ án còn đang tiến triển, người đương quyền cho đồ án Tượng Sư tử đã không trả điêu khắc gia đúng số tiền mà hợp đồng đã đề ra, điều này đã làm ông Thorvaldsen bất mãn. Với lòng tự trọng và tôn trọng công trình mỹ thuật cùng cảm tình với những người lính Thụy sĩ nên ông đã không làm xấu tượng điêu khắc mà cố tình đặt tượng vào lòng một khuôn hình dạng chú heo, một nhạo báng để đời cho chính quyền đương thời Thụy sĩ? Có người lại cho rằng ông Thorvaldsen cố ý đặt tượng Sư tử vào khuôn con heo để tỏ lòng ác cảm với nền quân chủ Pháp đã dùng lính Thụy sĩ đánh thuê một cách bất cẩn, làm thiệt mạng hơn sáu trăm người lính Thụy sĩ một cách vô ích. Ông Thorvaldsen có phải là nhà điêu khắc hời hợt coi trọng đồng tiền không? Tìm hiểu sơ về Thorvaldsen trên wiki thì chúng ta biết Điêu khắc gia người Đan Mạch này là một điêu khắc gia rất nổi tiếng, vào thời điểm 1819 ông vừa hoàn tất tượng Nilolas Copernicus tại Warsaw, Poland, và năm 1822 ông đang trong dự án hoàn tất tượng Đức Giáo Hoàng Pius VII, ông là người duy nhất theo đạo Tin Lành và không phải là người gốc Ý nhưng được lãnh rất nhiều đồ án tại Ý và khắp nơi. Như thế có lẽ nào vì trọng đồng tiền mà ông làm tổn hại đến danh tiếng của mình? Hoặc giả do một sự tình cờ mà khuôn đá khắc do ảnh hưởng của thớ đá lại mang hình dạng một chú heo rừng chăng? ■ * Mark Twain (1835-1910) trong cuốn A Tramp Abroad. 1888 đã viết về Tượng đài Sư Tử đá, cảm tưởng của ông với nơi này và viết rằng nơi đây là một nơi buồn bã nhất và là một tác phẩm bằng đá cảm động nhất trên thế giới. * Thomas M. Brady (1849-1907) đã sao chép hình tượng sư tử đá này cho một tượng sư tử, khánh thành năm 1894, ở nghĩa trang lịch sử Oakland, Atlanta, Georgia, USA, để vinh danh những người lính Liên minh (Confederate) vô danh đã được chôn tại nghĩa trang này. Tượng làm bằng đá cẩm thạch Georgia. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Tượng sư tử. Atlanta, Georgia (USA) Sóng Việt Đàm Giang Kỷ niệm một chuyến thăm viếng Lucerne Tháng Tám năm 2012. Ghi chú. Tài liệu cho bài viết thu thập tại nhiều trang nhà khác nhau trên Internet và Wikipedia 34 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 35 TruyŒn Em Bé G‡ DiÍm Âu (Riêng tặng LDS và LDKN yêu quý) Tháng 8 năm 1990 Năm nay, nhân dịp kỷ niệm năm năm sinh nhật cưới của bố mẹ, một trong những món quà bố mua về tặng mẹ là một tập sách truyện, có những hình vẽ bé xíu, pha trộn nhiều màu sắc thắm tươi. Tập truyện cũng mỏng thôi, do ông họa sĩ Mordical Gerstein kể và vẽ tranh minh họa. Tên của tập truyện mỏng ấy là… Những Rặng Núi ở Tây Tạng (1). Đằng sau tập truyện có ghi, Sách này dành cho thiếu nhi từ 7 tuổi trở lên… nhưng, lẽ dĩ nhiên, bố biết là mẹ vẫn hay thích đọc những quyển truyện thiếu nhi ấy lắm nên mới mua về làm quà cho mẹ cho dù mẹ chẳng còn được nhởn nhơ làm một cô bé con lên bảy lên tám nữa. Bố bảo, câu truyện dễ thương này, để dành mỗi tối mẹ kể cho tôi nghe. (Tôi nhìn vào mắt mẹ khi nghe bố nói điều đó mà biết là trong lòng mẹ đang hân hoan lắm). Sau buổi tiệc ăn mừng, nằm ở một ngôi nhà được chủ nhân biến thành một tiệm ăn lộng gió nằm ven ghềnh đá bãi biển Laguna – nơi mà tám năm trước đây, bố mẹ đã chia tay nhau lần đầu, sau cuộc hội ngộ đầy bất ngờ và kỳ thú – chúng tôi trở về nhà khi bóng đêm đã thả tràn xuống trên đầu chúng tôi những giọt sao lí tí, lóng lánh vàng tươi. Căn nhà nhỏ nhắn nằm khuất sau mấy cây khuynh diệp có lá rủ dài – có lẽ vẫn chưa muốn dỗ giấc ngủ êm đềm – đang chờ chúng tôi trở về để thì thầm nói lời chào buổi tối. Bố mẹ đã ngồi sát bên nhau trong căn phòng thoảng hương khuynh diệp, ôm tôi, vỗ về. Mẹ đưa tay giở nhẹ trang sách ra và bắt đầu kể truyện. Những Rặng Núi ở Tây Tạng thấp thoáng ẩn hiện giữa những cánh mây trắng nõn, mông mênh. Tôi nhìn thấy tranh vẽ một chú bé con đang buông dây thả diều. Chiếc diều có hình thù một con chim khổng lồ. Đầu chim màu đen, mỏ và mắt màu đỏ tía. Hai cánh chim soải dài, đỏ cam, vàng, tím. Sau lưng chú bé là bầu trời xanh, xanh biếc - bầu trời xanh, xanh biếc ấy đang trôi lững lờ trên những rặng núi xanh non, Chú bé đội nón, mang hia, mặc y phục đúng theo cốt cách những người dân xứ Tây Tạng. Mẹ mỉm cười hỏi tôi: - Bé Con. Bé Con có thấy chiếc diều này đẹp quá chừng không hở? Rồi mẹ bắt đầu đọc, giọng mẹ lướt trôi êm ái như một dòng sương mát lạnh giữa khuya. Trên những rặng núi cao ở xứ Tây Tạng, trong một ngôi làng nhỏ bé giữa vùng thung lũng có một chú bé con được sinh ra đời. Chú bé ấy mê thả diều lắm! Vào những đêm khuya khoắt, khi bầu trời trở nên trong trẻo không chút gợn mây, chú bé ấy thích ngước nhìn lên dải Ngân Hà với vô vàn những vì tinh tú. Còn biết bao nhiêu những thế giới kỳ lạ khác ở trên đó. Chú bé tự nhủ. Một ngày nào đó, tôi sẽ đến viếng thăm những thế giới kia. Rồi chú bé lớn lên và, trở thành một người tiều phu. Trong những lúc đi nhặt củi, người tiều phu thường ngước nhìn ra những rặng núi xa tít mù xa. Còn biết bao những quốc gia khác nằm sau những rặng núi ấy. Ông tự nhủ. Thành phố, và biển cả, và những người dân khác chủng tộc. Một ngày nào đó, ta sẽ đi thăm viếng tất cả. Nhưng, hình như suốt cả cuộc đời, lúc nào ông cũng bận rộn với công việc, với vợ và con của ông .(1) Bố đưa tay chỉ vào bức tranh minh họa bên cạnh, ngắt lời mẹ, hỏi đùa: - Có giống như bố đang tập cho Bé Con thả diều không? Tôi nhìn theo tay bố chỉ, lại thấy bầu trời xanh, xanh biếc, trôi lững lờ trên những rặng núi muôn màu, vàng, lam, tím, hồng. Tranh còn vẽ một người đàn ông đang đứng thả một chiếc diều hình thù con Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 36 chim khổng lồ, màu sặc sỡ, giống hệt chiếc diều của ông những ngày ấu thơ. Bên cạnh ông là một người đàn bà có khuôn mặt dịu hiền, tóc kết bím được vấn tròn quanh đầu gọn ghẽ. Người mẹ đang bế một chú bé, miệng bé cười toe toét, tay bé với ra trước mặt như muốn bắt lấy con chim khổng lồ đang được bố thả cho bay trên cao. Bên dưới, trên thảm cỏ xanh mướt, có một chú bé khác đang ngồi và một cô bé con đang tung tăng chạy. Cả hai cùng đang buông dây thả hai chiếc diều tuyệt đẹp lên trời, một chiếc có hình thù con chuồn chuồn, có vẻ láu lỉnh, còn chiếc kia có hình thù một con cú, mắt cú to, tròn xoe. Rồi tôi nhìn sang trang bên cạnh và thấy tranh vẽ hình… không còn phải là tranh vẽ người đàn ông rắn rỏi—mà là một ông lão tóc trắng phau, da nhăn, móm mém, đang ngồi bên dưới một gốc cây đại thụ, yên lặng ngắm những cụm mây tím thẫm bay ngang qua bầu trời không còn xanh biếc của ông. Bầu trời đã ngả qua màu da cam, ửng vàng. Xa xa, mẩu bánh tròn hình mặt trời đang lui dần qua kẽ núi. Những rặng núi muôn màu thắm tươi cũng đã đổi thành ra những sắc màu rất thẫm. Ông lão móm mém, mỉm miệng cười trông thật an vui. Mẹ mân mê bìa sách, tiếp tục đọc. Người đàn ông ấy sống rất lâu, cho đến khi trở thành một ông lão và, ông lão ấy chưa hề một lần bước chân ra khỏi vùng thung lũng của ông. Rồi ông lão qua đời. Ông bỗng thấy mình đang hiện diện ở một nơi vừa u tối mà cũng chói lòa ánh sáng. Ông nghe có một tiếng nói vọng lại bên tai. Tiếng-Nói ấy bảo với ông rằng, bây giờ, ngươi có quyền được chọn lựa. Ngươi có thể chọn để sống trong một thế giới vĩnh hằng mà có người gọi là thiên đàng, hoặc ngươi cũng có thể chọn để sống trở lại trong một cuộc đời khác. Tôi muốn sống trở lại trong một cuộc đời khác. Lão tiều phu nói. Cuộc đời mà tôi vừa mới trải qua đây… nó đang tan nhòa đi trong đầu tôi như một giấc mộng. Tôi không nhớ gì về nó cả ngoại trừ một điều: tôi muốn được biết nhiều hơn về những thế giới kỳ lạ chung quanh mình. Vậy thì ngươi hãy nhìn chung quanh ngươi đi. Tiếng-Nói ấy lại vọng lên.(1) Mẹ ngừng một chút, cúi xuống nhìn tôi. Câu truyện đã ru tôi vào giấc ngủ, trong đó tôi thấy có thật nhiều những cánh diều ngũ sắc, đang cùng nhau nhảy múa, đùa nghịch trên những vạt gió vi vu. Mơ hồ tôi nghe tiếng mẹ khe khẽ gấp quyển sách lại, bảo với bố: - Thôi, mình để dành ngày mai hẵng tiếp tục, bố nhé. Khuya rồi… Hình như trước khi tắt đèn đi ngủ, mẹ có vỗ vỗ lên đầu cái tượng chú bé con bằng gỗ mà mẹ đặt trên một chiếc ghề đẩu bé tí tẹo và thấp củn cạnh bên giường. Chú bé làm bằng gỗ (dài bằng một phần ba cánh tay của mẹ) được sơn bằng những sắc màu không đến nỗi đậm, nâu, xanh, cam, hồng. Thật ra, nhìn chung thì có thể thấy chú bé có nước da màu bánh mật, nâu hồng, trông rắn rỏi khỏe mạnh. Chú nằm nửa nghiêng nửa sấp, chiếc mông bé xinh xinh hơi nhổm lên, hai chân chú co lên như đang quỳ. Đầu chú gối lên một trái dưa bí tròn lẳng, hai mắt nhắm nghiền, chắc chú đang nằm mơ thấy điều gì vui lắm nên miệng chúm chím như muốn cười trông thật thương. Khuôn mặt chú bầu bĩnh, cân đối, toát ra một niềm an bình, thanh thản. Mẹ bảo, chú có khuôn mặt sáng rỡ ràng của một ông-Phật-con. Trông chú bé thật vô cùng hạnh phúc Bao giờ cũng thế, chú bé gỗ luôn được dự phần vào những buổi tối nghe kể chuyện của tôi. Món… đồ chơi ấy, cái chú bé bằng gỗ này, là món quà sinh nhật mà ông bà ngoại đã đem vể cho mẹ từ một chuyến đi xa. Bà ngoại đã mua nó tít tận bên Thái Lan, đâu dó trong một cửa tiệm bán đồ kỷ Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 37 niệm trong khu Siam-Ratchadamri hơn ba năm trước. Bà ngoại nghĩ là mẹ sẽ yêu thích cái chú bé bằng gỗ này vì khuôn mặt say ngủ, yên bình, thanh thoát của chú. Mà mẹ yêu thích chú thật. Đi đâu mẹ cũng phải có chú cạnh bên. Chúng tôi dọn nhà năm lần bảy lượt từ dạo đó đến nay rồi, và lần nào cũng thế, việc đầu tiên mẹ làm là khi dọn tới một căn nhà mới là khui ngay cái thùng giấy đựng toàn những vật trang trí đủ loại đủ kiểu của mẹ ra. Mẹ lôi chú bé bằng gỗ ra từ trong chiếc thùng carton to cồng kềnh, tìm một chỗ sáng sủa trong nhà – và, lần nào cũng thế, mẹ hoan hỉ đặt chú bé bằng gỗ xuống, âu yếm, cẩn trọng như đang đặt xuống đấy mộ em bé sơ sinh. Sáng nay, đúng ngày sinh nhật cưới của bố mẹ, mẽ đã vỗ về tôi, vừa đùa vừa bảo: - Bé con, mẹ mong là con sẽ giống được như chú bé bằng gỗ này, lúc nào trông cũng thật hân hoan và thanh thản. Nghe mẹ nói thế, tôi đã lắc đầu, ra chiều không hiểu, rồi lẩn thẩn hỏi mẹ: - Mẹ ơi, tại sao mẹ không bảo cái chú bé ấy biến thành một em bé thật đi hở mẹ? Như câu chuyện cái chú búp bê múa rối bằng gỗ tên Pinocchio mà mẹ hay kể chuyện cho con nghe ấy mà? Như thế thì sẽ có một em bé dễ thương trong nhà, đúng như ý mẹ thích, để chơi với mẹ và con. Mẹ đã không trả lời tôi, như tôi cũng đã không trả lời mẹ. Mẹ chỉ cười một nụ cười màu hồng, tươi ngọt, thật vui. Mắt mẹ mơ màng như đang tưởng tượng thấy em bé gỗ tên ông-Phật-con của mẹ, bất chợt, vươn vai, choàng tỉnh, duỗi tay duỗi chân, mở to hai mắt biến thành một em bé thật lúc nào mà mẹ không hay. Hình như sau đó, khi buổi chiều óng ả vừa nhón gót đến sát cạnh khung cửa sổ, trong lúc đón nhận và trao lại cho bố món quà sinh nhật cưới, tôi thoáng nghe tiếng mẹ thì thầm với bố. Bên ngoài, tiếng gió vẫn lăn tăn trên những nhánh lá khuynh diệp rủ dài, nghe như những nốt nhạc trong reo vui trong trái tim của mẹ. Vừa âu yếm nhìn bố, những nốt nhạc trong trái tim của mẹ cũng vừa khe khẽ reo lên: - Bố ơi, năm nay, mình hãy có với nhau một em bé, để mẹ và Bé Con có thêm bạn trong nhà, nhé bố nhé. Tôi thấy bố cười thật tươi, đón mẹ ngả vào vòng tay mở rộng. Nụ cười của bố cũng rực thắm một màu hồng, tràn ngập yêu thương. (Mà với mẹ, thì bao giờ bố chẳng hay cười những nụ cười như thế. Như thể hài lòng. Như thể dung thứ, như thể bao dung. Như thể đang nuông chiều một đứa bé con chưa hề bao giờ phải buộc biết làm người lớn). Năm ngoái, vào đúng mùa đông, bố mẹ có đến Thái Lan và dừng chân ở lại đó hơn một tuần lễ. Bố mẹ đã đi cùng khắp thủ đô của xứ Xiêm La, lặn lội trong khắp các khu thương mại sầm uất của họ, từ khu Silom-Surawong, qua đến Siam-Ratchadamri, rồi khu chợ Pratunam… để tìm thêm một vài chú bé Pinocchio bằng gỗ như chú bé mà ông bà ngoại đã tặng cho mẹ. Nhưng, tuyệt nhiên không đâu có. Chủ nhân các cửa tiệm đều lắc đầu nguầy nguậy, cho biết rằng năm nay người ta không sản xuất các chú bé nằm hay ngủ yên bình ấy nữa. Rồi họ chỉ cho bố mẹ xem các tượng gỗ khác, cũng là tượng của các cô cậu bé bầu bĩnh xinh xắn. Đứa thì quỳ gối chắp tay, đứa thì nằm dài chống tay dưới cằm, đứa thì đi guốc ngồi cạnh cái lu. Nhưng, tìm mãi không đâu thấy cái chú bé gương mặt sáng rỡ nằm ngủ như ôngPhật-con cho mẹ! Đến buổi tối, ngay trước ngày bố mẹ phải ra phi trường để đi Nam Dương vào sáng sớm hôm sau, bố đành vội vàng đi mua tặng mẹ… một chú bé khác. Cái chú bé này mặt mũi cũng tròn trĩnh sáng sủa, đầu quấn khăn, chân đi đôi guốc to. Chú ngồi bệt dưới đất, một chân co lên, tay phải để trên đầu gối, tay trái chống hờ trên cái lu đựng nước, trông cũng ra dáng nghỉ ngơi an nhàn. Thế nhưng cái chú bé ngồi cạnh lu nước ấy không sao có được một chỗ đứng tuyệt đẹp, thật trang trọng trong tim mẹ như ông-Phật-con kia. Và… những ngày ngắn ngủi ở vương quốc Thái Lan cũng đã để lại trong tâm bố mẹ nhiều nỗi niềm băn khoăn man mác. Tất cả những người bố mẹ được gặp ở cái vương quốc nạm vàng dát ngọc ấy, sao mà dễ thương và nhũn nhặn đến thế. Từ người lái xe taxi đến ông hướng dẫn viên, những cô cậu bé học trò, đến bà cụ bán hang rong, vị tu sĩ trong chiếc áo cà sa vàng, người phu quét đường trong bộ đồng Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 38 phục xanh thẫm, bạc phếch… tất cả, nhất nhất đều đã mỉm cười, chắp hai tay lại để trước ngực và cúi đầu xuống hoặc chào, hoặc cám ơn bố mẹ, như họ đang chắp tay cúi đầu, lễ Phật, dâng hương, Đất của họ là xứ Phật. Đi đâu cũng thấy chùa, thấy sư. Dân của họ lại có cái mỹ tục chắp tay cúi chào, như là một biểu tượng để tỏ vẻ trân trọng, ý rằng họ nhìn thấy được Phật tánh sáng ngời trong người đối diện, bất kể là ai. Thế mà, tại sao cái đất nước hiền hòa ấy của họ lại sản xuất ra một đám ngư phủ (hay cướp biển?) tàn ác, dã man đến vậy? Bao nhiêu ghe thuyền mỏng manh, bao nhiêu mạng sống quý báu của người dân Việt đã bị vùi thây dưới lòng biển cả gây ra bởi lòng tàn ác của đám ngư phủ ấy? Làm sao mà hiểu được? Hay đó chỉ là những món nợ vay từ tiền kiếp đến bây giờ phải trả? Có lý nào chăng? Không lẽ nào lại có những món nợ khủng khiếp và kinh hoàng đến vậy? Làm sao mà hiểu được? Cái thế giới đảo điên này! Cho nên… cái chú bé bằng gỗ ngủ say thanh thoát, những ngày mùa đông ở đất Xiêm La và, mối oán hận bi thương giữa hai gống Xiêm-Việt – mỗi thứ với một lý do đặc biệt – cứ làm cho trái tim của mẹ, khi thì hân hoan, thanh thản, khì thì se sắt, bồi hồi. Mẹ muốn vui mà chẳng thể nào vui cho trọn vẹn. Những hình ảnh tang thương trên biển Đông như những bóng ma rờn rợn, cứ đeo đuổi theo tiềm thức của mẹ mà quấy phá không để cho yên. * Liên tiếp nhiều buổi tối sau đó, truyện Những Rặng Núi ở Tây Tạng đã giúp bố mẹ đưa tôi bước vào những giấc ngủ đầy thanh âm, đầy màu sắc. Tôi đã ngủ say, và ngủ rất êm đềm, giữa tiếng kể truyện thì thầm, nhè nhẹ vương vương của mẹ. Vậy thì ngươi hãy nhìn chung quanh ngươi đi. Tiếng-Nói ấy lại vang lên (Ông lão tiều phu tối nào cũng mặc một bộ quần áo màu hoàng kim quyến rũ, nhảy múa quay cuồng bên cạnh những bức tranh vẽ hình sặc sỡ để cho ông, và cả cho tôi, được tha hồ lựa chọn, đắn đo). Lão tiều phu vâng lời, đưa mắt nhìn quanh và thấy hiện ra trước mắt tất cả những thế giới kỳ lạ của vũ trụ, những thế giới mà ông đã từng mơ ước được đặt chân đến khi còn sinh thời. Những thế giới ấy đang cháy rực và xoay tít mòng mòng như pháo bông trong đêm Giao Thừa. (1) Và, cuối cùng, có một hành tinh trông xa giống như một hòn bi màu ngọc bích, viên bi mà lão tiều phu đã có khi còn là một chú bé, tự thở nào xa xưa. Ta yêu thích hành tinh đó quá. Lão tiều phu nói. Không hiểu sao, ta có cảm giác như đó chính là ngôi nhà thân mến của ta. Có muôn vàn sinh vật thật khác lạ mà cũng thật tuyệt vời đang sinh sống trên hành tinh đó. Ngươi có toàn quyền chọn lựa để được sống cuộc đời mà người mong ước. Vậy ngươi muốn trở thành như thế nào? Lão tiều phu đưa mắt nhìn chăm chăm vào tất cả những sinh vật kỳ lạ đang tuần tự tiến hành ngang qua mặt ông. Có những đứa đang bơi lội, có những đứa đang nhảy múa, và cũng có những đứa đang bay lượn trên cao. Hãy trở thành giống như tôi đi nào! Mỗi đứa đều ra sức khuyến dụ ông như vậy. Rồi ông sẽ thấy, vui lắm cơ! Đẹp lắm cơ! Này là cá voi và cá vàng, mèo và sư tử. Này là rắn và hươu cao cổ. Này là bươm bướm, và kia là con người. Suýt chút nữa là lão tiều phu đã quyết định trở thành một chú chim hải âu đang tung cánh lướt bay trên những cơn gió biển. Nhưng, ông chợt thấy một đứa bé đang đứng ngắm chim hải âu và đang phá lên cười hạnh húc. Đứa bé ấy đang thả lên một chiếc diều tuyệt xinh (1). Tháng 11 năm 1990 Ba tháng trôi qua, từ sau ngày kỷ niệm cưới của bố mẹ. Mọi chuyện trong nhà không có gì thay đổi, ngoại trừ mẹ đã đem cái chú bé ông-Phật-con của mẹ xuống dưới nhà, bày ở phòng khách chứ không để trên phòng ngủ như trước nữa. Chú bé được đặt nằm trên cái ghế gỗ sơn láng kiểu Nhật, thấp tủn, gần sát đất. Bên cạnh chú, có một chiếc lọ pha lê cắm những nhánh hoa khô, như những nhánh lau vươn dài màu cỏ rơm nhàn nhạt. Chiếc lọ pha lê cũng được mẹ đặt nằm dưới đất, trên sàn nhà lát gạch trắng muốt, lạnh băng. Những Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 39 nhánh hoa lau màu cỏ rơm tỏa bóng xuống chỗ nằm của chú bé, như đôi cánh mịn, dầy của gà mẹ, ôm ấp che chở cho chú gà con đang thiu thiu ngủ một cách vô tư. Vào một buổi sáng, cách đây dăm ba bữa, tôi nghe mẹ kể cho bố nghe rằng đêm trước, mẹ vừa ngủ mơ một giấc mơ lạ lắm. Mẹ thấy mẹ đang đứng trên một con đường sạch bóng, chung quanh hình như có nhà thấp xây bằng gạch đỏ, một màu đỏ thẫm, tối, cũ, buồn buồn làm sao. Có nhiều cụm khói trắng xám đang tỏa ra từ những căn nhà ấy. Ngước nhìn lên phía trên đầu, mẹ như chạm tay được vào một bầu trời đang đứng yên, không nhúc nhích. Màu trời nhàn nhạt, trong sáng và tĩnh lặng như mặt hồ thu. Mẹ cảm thấy mọi thứ tiếng động chung quanh thốt nhiên đều bặt lại, rù rù, vo ve, trong một khoảng thời gian không biết là bao lâu, nhưng cơ hồ như… lâu lắm. Rồi thoắt một cái, mẹ thấy mẹ đang đứng ở giữa một đám trẻ con, không hiểu từ đâu tới, và không rõ vì sao, lại đang bu chặt lấy mẹ, reo hò ầm ĩ. Đám trẻ chừng mươi đứa, cả trai lẫn gái, cỡ năm cho đến mười tuổi. Đó là những đứa bé thật xinh đẹp, bầu bĩnh, hai má hồng như những khoanh bánh tròn xoe màu rượu chát, đỏ au au. Những cô bé, cậu bé xinh đẹp không quen biết ấy cứ ngó chăm chăm vào mẹ bằng những đôi mắt long lanh, sáng dị thường, như đang muốn bày tỏ một điều thật quan trọng cho mẹ nghe và nuốn được mẹ cảm thông. Mẹ không thể hiểu những lời nói âm thầm thoát ra từ những cặp mắt nai ấy, chỉ biết rằng đó là những đốm sao rực sáng, một thứ ánh sáng tuyệt đẹp, cuốn hút, làm cho mẹ tưởng chừng như mình cũng đang biến thành một luồng ánh sáng kỳ ảo, mông mênh. Rồi đột nhiên, những cô cậu bé xinh đẹp níu áo mẹ, níu tay mẹ, hoa chân múa tay, cười rúc ra rúc rích, tíu tít chuyện trò bằng một thứ ngôn ngữ mà mẹ không sao hiểu được. Hình như chúng muốn mẹ làm chuyện gì đó mà chính mẹ cũng không rõ. Điều kỳ lạ là tất cả đám trẻ con ấy đều mặc y phục màu đen giống hệt nhau. Áo chùng đen dài đến chân, đầu đội mũ đen từa tựa như những chiếc mũ nồi, kiểu mũ béret mềm, bằng vải nỉ (không hiểu vì sao, bộ y phục và mấy chiếc mũ nỉ đen của chúng lại làm mẹ liên tưởng đến và cho rằng đây là mấy đứa bé người Do Thái). Mẹ bảo là lúc ấy, ngay trong giấc mơ, mẹ vẫn còn đủ… sáng suốt để thắc mắc rằng, lạ nhỉ, chẳng hiểu chúng đang muốn tôi làm cái gì thế này? Và, tại sao trẻ con lại đi mặc toàn màu đen thế kia? Tôi muốn được làm người! Lão tiều phu bật thốt. Có cả ngàn loại người đang sống trên quả địa cầu này. Tiếng-Nói vang lên. Mỗi giống dân đều có những điệu múa đẹp mắt riêng, những món ăn ngon miệng riêng, và ngươi có thể chọn để trở thành bất cứ loại người nào mà ngươi ước muốn. Lão tiều phu đảo mắt nhìn và ông thấy tất cả những giống người khác nhau trên thế giới đang nhảy múa chung quanh ông. Trông họ giống như những đóa hoa hàm tiếu. Tất cả đều đang nhảy múa những điệu múa đặc biệt của dân tộc họ và, họ đang réo gọi lão tiều phu bằng đủ mọi thứ ngôn ngữ riêng. Hãy nếm thử đi nào! Họ kêu réo ông và đưa ra mời ông những món ngon vật lạ của xứ họ. Ôi! Đây mới thật là điều khó chọn nhất. Lão tiều phu lẩm bẩm (1). Tháng 4 năm 1991 Cũng đã hơn chín tháng trôi qua, từ buổi chiều êm ả mẹ âu yếm nói với bố, rằng, “năm nay, mình hãy có với nhau một em bé, để mẹ và Bé Con có thêm bạn trong nhà, nhé bố nhé”. Cái điều âu yếm, và riêng tư ấy, không hiểu sao, mãi vẫn chưa thành sự thật! Chính sự trì trệ, trễ nải ngoài ý muốn này đã làm cho bố mẹ ngạc nhiên và sốt ruột không ít. Tôi cũng mang một tâm trạng nóng lòng y như thế nên cứ đeo theo bố mẹ mà căn vặn suốt ngày. Lần nào cũng thế, mẹ thường xoa đầu tôi, dịu dàng, nhẫn nại: - Bé con phải kiên nhẫn nhé. Đâu phải là mẹ không muốn chú bé ấy biến thành một em bé thật cho con chơi đâu. Mẹ vẫn luôn thúc giục chú bé cho con đấy chứ. Bé con không thấy sao? Nhưng, bé con phải kiên nhẫn nhé. Thế nào rồi chú bé ấy cũng sẽ choàng tỉnh vào một lúc bất ngờ nhất, như Pinocchio ấy mà, rồi con xem! Những câu nói dịu dàng, nhẫn nại của mẹ không giúp tôi bớt bồn chồn nôn nóng, và, thật ra, tôi biết, cũng chẳng giúp cho chính bố mẹ bớt băn khoăn, sốt ruột chút nào. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 40 Cuối cùng, tiếng nhạc trầm bổng của giống dân màu hoàng kim đã làm cho ông thấy bồi hồi rung động. Tôi muốn được sống cùng với họ. Lão tiều phu nói. Vậy bây giờ, ngươi muốn sống ở đâu trên quả địa cầu này? Ở bất cứ nơi nào ngươi muốn cũng đều được cả. Thế rồi lão tiều phu nhìn thấy tất cả những quốc gia khác nhau trên thế giới hiện ra trước mắt, những nơi ông chưa hề bao giờ được đặt chân đến khi còn sinh thời. Ông thấy núi cao và đồng bằng. Ông thấy sa mạc và những ốc đảo xanh tươi. Ông thấy những thành phố tân kỳ và nhũng khu rừng nhiệt đới tràn nhựa sống. Nhưng, duy chỉ có một vùng thung lũng mướt xanh, nằm khuất giữa những rặng núi cao hiểm trở… hình như, vùng thung lũng mướt xanh đó vừa nháy mắt với ông và thì thào kể cho ông nghe những câu truyện cổ tích không hiểu sao lại nghe ra quen thuộc lắm. (1) Tối hôm đó, khi mẹ sắp đọc cho tôi nghe đến đoạn cuối thì chuông cửa reo, có khách đến. Khách là một bà thím từ Việt Nam mới qua được gần một năm nay. (Mẹ gọi bà bắng thím thì tôi phải gọi bằng bà thím). Bà thím đến chơi có dẫn theo hai người con, một trai một gái, để nhờ mẹ tôi chỉ dẫn điền giúp một số giấy tờ xin trợ cấp xã hội. Tôi đã được gặp bà thím của mẹ một vài lần nhưng, không hiểu tại sao, cứ mỗi lần gặp lại là tôi lại thấy bà có cái vẻ gì là lạ, khang khác hơn lần trước. Bà có một cặp mắt lé kim rất nặng nên nhiều khi bà quay qua nhìn tôi mà tôi không hề biết là bà đang nhìn mình, lại tưởng bà đang ngó cái gì khác hoặc ngó ai khác. Bà khoảng độ trên dưới năm mươi ăn nói rất lưu loát, sành sỏi thành thạo và, lâu lâu bà hay dừng câu chuyện lại, nhoẻn miệng cười với người nghe vào những lúc bất ngờ nhất để dò xem phản ứng của họ có thật sự theo dõi những gì đang được bà bày tỏ hay không. Tôi nghe ông bà ngoại kể, từ ngày còn ở Việt Nam, bà thím đã nổi tiếng là người có… psychic power, một thứ sức mạnh vô cùng huyền bí của tâm linh, để giúp bà nhìn thấy trước được những sự việc sắp xảy ra. Đã có rất đông người tìm đến nhờ bà giúp đỡ. Bà trở thành ân nhân của nhiều người, được người ta vừa quý trọng, sợ hãi, vừa bàn tán xầm xì, như một hiện tượng kỳ lạ không ai dám đối đầu mà lại càng không muốn chạy trốn. Bà có một giác quan thứ sáu vô cùng nhạy bén, biết bói bài Tarot mà lại bói đúng một cách thần kỳ. Bà thành tâm tin vào sức mạnh huyền bí của tâm linh, vào một thứ quyền lực siêu nhiên, một cái gì đó vượt xa hơn cả khả năng thâu nhận và xét đoán hữu hạn tầm thường của lý trí. Thường khi, vì không dám xét đoán những điều bà thím nói bằng đầu óc hữu hạn của mình, tôi thấy bố mẹ chỉ lắng nghe rồi để tâm hơn là góp ý và, vì thế, trên một phương diện nào đó, đối với bố mẹ, bà là một người hết sức thân quen mà cũng hết sức xa lạ. Tôi ngồi trên lòng bố nghe mọi người tíu tít nói chuyện một lúc thì cảm thấy ríu mắt lại. Giọng nói của bà thím vẫn sang sảng bên tai và, tôi mơ hồ cảm thấy một cơn sóng ồ ạt bập bùng, cuốn tôi trôi vào giấc mộng lúc nào không hay. Tôi nghe tiếng bà thím nói thoang thoảng câu chuyện gì đó, hình như là hỏi có phải bố mẹ đang muốn có thêm một em bé ở trong nhà, để tôi có thêm bạn chơi phải không, nhưng tôi chẳng nghe thấy bố mẹ trả lời điều gì dứt khoát cả. Sau đó, bố xin phép để bế tôi lên lầu cho đi ngủ, và tôi lại loáng thoáng thoáng nghe bà thím rù rì dặn dò bố mẹ một hồi lâu, thật lâu, chẳng hiểu chuyện gì mà lại có liên hệ đến cả cái chú bé bằng gỗ đặt trên chiếc ghế thấp tủn gần sát đất bên cạnh những nhánh lau vươn dài nở hoa màu cỏ rơm khô. Đêm hôm đó, tôi đã ngủ một giấc ngủ thật ngon, không có hình ảnh của ông lão tiều phu mặc áo màu hoàng kim nhảy múa. Nhưng từ sau buổi tối hôm đó trở đi, không hiểu sao, tôi thấy suốt ngày mẹ cứ loay hoay đi tới đi lui trong nhà, băn khoăn, nghĩ ngợi, lúc nào cũng ra vẻ đang suy nghĩ điều gì mông lung lắm. Bố thì chỉ dịu dàng bảo, mẹ cứ suy nghĩ đi, tùy mẹ đấy… nhưng rồi, cuối cùng bố lại chêm thêm vào, bố thấy thím ấy nói cũng có lý lắm chứ, mẹ không nghĩ như vậy hay sao? Mẹ không trả lời bố, mím môi e dè và nhìn bố với vẻ ngập ngừng, ngượng nghịu, nửa muốn nói nửa muốn không. Bẵng đi một vài hôm, như đã có đủ thời giờ để suy nghĩ một cách sâu xa và chín chắn, mẹ mới kéo tay bố ngồi xuống bẻn cạnh, khuôn mặt mẹ thật phẳng lặng, nghiêm trang. Tôi cũng được bố đặt xuống để cho ngồi lọt thỏm ở giữa bố mẹ. Mẹ vừa mân mê những ngón tay hồng hồng bé xíu của tôi, vừa từ tốn nói: Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 41 - Bố ơi, mẹ nghĩ kỹ rồi. Như thế này bố ạ. Về chuyện… cách mình bài trí, trang trí trong nhà, nhất là căn phòng khách, thì… có lẽ… thím ấy nói đúng. Sàn nhà lát gạch men trắng muốt từ trong ra đến ngoài . Mấy chiếc ghế futon, với khung ghế butterfly và khung vải bố, toàn một màu đen. Lại thêm những cành cây hoa đào khô, khẳng khiu, nâu thẫm, những bụi trúc cứng cỏi, khô vàng, những nhánh lau khô màu cỏ rơm, những hòn đá nhẵn thín, xám ngắt hoặc đen bóng, bày rải rác đây đó khắp nhà. Tranh ảnh mình treo thì cũng toàn những màu pha trộn giữa những sắc tím thẫm, tím hồng, sắc màu gạo rang lẫn sắc màu đậu nâu hoặc đen huyền. Trên phương diện thẩm mỹ thì phải công nhận là mọi thứ được mẹ xếp đặt một cách hết sức hài hòa, màu sắc cũng vậy, trang nhã, lịch sự lắm. Con mắt… nhà nghề của chính mẹ, của bố và của tất cả những người khách đã đặt chân đến căn nhà này, đến căn phòng khách của mình, đều phải trầm trồ khen đẹp. Bố đã chẳng từng nhắc mẹ là mình phải trang trí nhà mình theo lối… Thiền đấy sao. Ít đồ đạc. Đơn giản mà đẹp, Nhưng… Bố ngắt lời mẹ: - Nhưng… mẹ vẫn thấy thím ấy nói đúng? - Vâng, đúng, đúng lắm. Đúng trong trường hợp… hiện tại của mình thôi, nếu mình… muốn tin là như thế. - Nghĩa là cái đẹp trong căn nhà của mình, trong căn phòng khách của mình, nó kém phần sống động, nó đẹp một cách lạnh lẽo, cô đơn. Cái đẹp tĩnh mặc nhưng thiếu vẻ linh hoạt tươi vui. Và, như thế thì không hợp tí nào với tâm hồn của những cô bé cậu bé tí hon, không làm cho.. . em bé của chúng ta… hào hứng tí nào để đến với chúng ta như lòng chúng ta đang mong mỏi. Mẹ bật cười, sửa lời bố: - Sao bố nói văn hoa quá! Vâng, không làm cho em bé của chúng ta hào hứng tí nào để… thức dậy với chúng ta như lòng chúng ta đang mong mỏi. Rồi mẹ quay qua tôi, hỏi nhỏ: - Có phải đúng như thế không, bé con? Đôi mắt của mẹ long lanh sáng. Tôi nhìn đôi mắt chân tình, dào dạt thương yêu đó mà cảm thấy thương mẹ, tội mẹ vô cùng. Tôi mím môi, lắc đầu: - Con không biết. Có thể là như thế đối với… em bé. Nhưng, còn con, con đã đến với bố mẹ đó chứ, có cần gì khác hơn đâu. Mẹ lại bật cười, đưa tay lên vuốt má tôi. Bố cũng mỉm cười với hai mẹ con rồi bình thản ngồi chờ nghe mẹ nói tiếp: - Thôi, được rồi. Bố đừng lo nữa nhé. Tạm thời, nếu chúng ta muốn tin như thế cũng được. Mẹ sẽ tìm cách trang trí trong nhà lại, cho có thêm một ít màu sắc, ít lá hoa tươi, một ít này, một ít nọ nhưng, sẽ không làm cho mọi thứ trở nên lòe loẹt, rườm rà. Chúng ta sẽ vẫn giữ lại cái không khí đơn giản mà êm ả của chúng ta… cho riêng chúng ta! Bố quàng tay qua vai tôi, nheo mắt với tôi rồi hỏi mẹ: - Nhưng… thế còn cái… chú bé bằng gỗ của mẹ thì sao? Thím ấy nói những gì, mẹ còn nhớ chứ? mẹ biết rồi, bố không mê tín dị đoan nhưng, mình có thể giải thích được câu chuyện ấy một khi mình đã hiểu rằng linh hồn của con người ta cũng chỉ là những nguồn sinh lực, được chuyển hóa không ngừng trong cõi không gian vô cùng này. Thím ấy nói cũng … có lý. Mẹ không nghĩ vậy hay sao? Tôi chẳng hiểu bố đang nói những chuyện gì xa xôi, chỉ thấy mẹ nhăn mặt nhìn bố, và im lặng, lâu… thật lâu. Hình như mẹ có vẻ không vui khi phải đề cập đến chuyện chú bé bằng gỗ của mẹ. Một lát sau, bố đưa tay vòng qua sau vai tôi, vuốt má mẹ, lắc đầu: - Thôi, vậy thì tùy mẹ thôi. Mấy hôm sau, tôi thấy mẹ bỏ ra một buổi ở nhà sửa sang lại căn phòng khách, nơi có chú bé bằng gỗ nằm. Mẹ phủ lên bộ ghế futon đen một tấm vải rộng thùng thình xanh biêng biếc màu nước biển (những hôm biển không có quá nhiều nắng gay gắt vào buổi sáng sớm, nước biển không xanh đậm mà lại xanh dìu dịu, và phảng phất ánh lên những sắc màu hồng của mặt trời hừng đông). Những mép Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 42 vải được mẹ thả mặc cho rủ dài xuống đất thành những vạt dầy nằm xếp lên nhau ở hai bên chân ghế. Trông chiếc ghế có cái vẻ đẹp không trau chuốt, tự nhiên mang bộ mặt…phóng khoáng, như đồ đạc trong xưởng vẽ của những anh chàng họa sĩ lúc nào cũng được phủ trùm lên người những tấm vải dầy để khỏi bị lấm bụi sơn. Mẹ để lên bộ ghế dìu dịu nước biển ấy hai chiếc gối màu hồng phấn, tươi, rất nhạt, như sắc màu của trời hừng đông. Sau đó, mẹ dẹp bớt những cành cây khô đủ loại đủ kiểu của mẹ đi và thay vào đấy bằng những nhánh hoa tươi mua ở tiệm hoa đầu đường – nhiều nhất là hoa iris tím, cắm chung với vài cành trúc khô, vàng nhã, ở dưới đáy lọ hoa lại có đặt vô số những viên đá thủy tinh trong suốt, trông thanh tươi, hòa hợp lạ thường. Còn ba cành cây hoa đào khô khẳng khiu, cao gần đụng đến trần nhà mà mẹ đã xin về từ khu vườn sau nhà ông bà nội, thì mẹ bắc ghế, leo lên kết vào đấy những búp hoa lan, tuy đã được phơi khô nhưng vẫn còn giữ y nguyên màu sắc thắm hồng và nét đẹp e ấp, mơn mởn tươi. Những búp hoa lấm tấm đây đó trên thân cây nâu sẫm, trông như những bông hoa tuyết phất phơ đang chực rơi xuống thảm cỏ đầy tuyết trắng phía dưới. Mẹ còn đính lên đó một cái tổ chim bé xíu, có chim mẹ, chim bố (và thêm cả ba bốn trái trứng xinh xắn đặt ở giữa lòng cái tổ để cho chim mẹ ấp). Ở ngay dưới chân cụm cây hoa đào ấy, vẫn là chỗ nằm của cái chú bé bằng gỗ, trên một chiếc ghế gỗ thấp tủn, chỉ cách mặt đất có một gang tay. Tháng 6 năm 1991 Tháng sáu lại chậm chạp trôi qua, vẫn không có gì mới lạ, ngọai trừ tuần vừa rồi là sinh nhật mẹ. Mẹ đã thay những bức tranh cũ trên tường bằng những bức tranh mới trông vui tươi và nhí nhảnh hơn. Phần nhiều là tranh vẽ hoặc hình chụp những đứa trẻ con xinh xắn. Tôi thích nhất là bức ảnh chụp hai đứa bé một trai một gái trạc bốn năm tuổi, đang đứng đối diện nhau trên một bãi cát vắng hoe. Có lẽ bấy giờ đang là buổi sáng, trời yên, sóng cũng yên. Mọi thứ hơi nhạt nhòa vì bức ảnh chụp không màu, hơi ngà ngà, nhạt như phấn hoa. Thằng bé con mặc áo trắng sọc đậm, quần phùng bouffant rộng thùng thình ngắn gần đến đầu gối, đang cầm một chú ốc biển khá to và áp chú ốc biển ấy vào tai cô bé bạn. Cô bé đội một chiếc mũ bằng nan có hai sợi nơ dài bay phất phơ phía sau nón, mặc một chiếc váy đầm trắng mát có lẽ bằng vải cotton, tay trái nắm lấy váy, tay phải áp lên tim, đầu nghiêng qua bên vai trái, rèm mi cong úp xuống trên khôn mặt bầu bĩnh có nét tò mò. Cô bé đang lắng tai nghe, chăm chú. Mẹ bảo không hiểu sao, khuôn mặt bầu bĩnh non nớt của hai cô cậu bé này cứ làm cho mẹ liên tưởng đến những đứa bé con xinh đẹp mặc toàn áo chùng đen trong giấc mơ của mẹ. Chỉ khác là hai đứa bé trong ảnh lại chỉ mặc một màu trắng thơ ngây. Tên của bức ảnh đó, món quà sinh nhật của bố tặng mẹ, là Seashell Voices. Tiếng Lòng của Đại Dương, do Suki Hill chụp. Tháng 7 năm 1991 Đến gần cuối tháng bảy thì có một chuyện đán ngạc nhiên xảy ra. Không! Không phải là cái chú bé bằng gỗ bất chợt vươn vai, choàng tỉnh dậy như trong truyện cổ tích Pinocchio đâu! Chuyện đáng ngạc nhiên ấy là, cái chú bé bằng gỗ của mẹ không còn được đặt nằm ở chỗ cũ nữa. Một buổi chiều mẹ đi làm về, tôi thấy mẹ bắc ghế leo lên cái tổ chim tý hon gắn trên cụm cây hoa đào khô. Mẹ lấy mấy trái trứng bé xíu ra và để thay vào đấy hai con chim non cũng bé xiu bé xíu. Hai con chim non đang há mỏ chờ chim mẹ mớm mồi, trông thật là thương. Sau đó, mẹ cúi xuống phía dưới chân cụm cây, bế cái chú bé bằng gỗ lên, thì thầm điều gì vào tai chú ấy rồi cẩn thận đặt chú bé lên trên mặt chiếc dương cầm kê sát tường ngay cạnh đấy. Bố không thắc mắc hỏi gì mẹ cả, cừ tỉnh bơ và miệng thì lúc nào cũng tủm tỉm cười một cách ranh mãnh. Qua đến hôm sau, đi làm về, tôi lại thấy mẹ nhấc cái chú bé gỗ lên khỏi mặt chiếc dương cầm, ôm chú vào lòng, thong thả đi lên lầu rồi đem chú vào phòng ngủ, đặt chú nằm xuống trên chiếc kệ sách, ở ngăn thứ tư. Đến hôm thứ ba thì mẹ lui cui đi tìm một chiếc hộp đựng giầy trống không, lót giấy hoa mới vào rồi nhẹ nhàng đặt chú bé gỗ vào nằm trong đó. Mẹ lại thì thầm nói gì đó với chú bé, hình như là chúc cho chú bé ngủ ngon. Rồi mẹ thản nhiên đóng nắp hộp lại, đem đi cất trong closet treo quần áo của bố mẹ. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 43 Tối hôm ấy thì mẹ ôm tôi vào lòng, trước khi đi ngủ, tôi thấy mẹ cảm động đến rưng rưng. Mắt mẹ loang loáng ánh nước nhưng giọng mẹ lại nghe như muốn reo vui, có phần nào hân hoan, nhẹ nhõm. Mẹ nói với bố: - Thôi, tối nay, bố thay mẹ đọc truyện cho hai mẹ con bé con nghe nhé bố. Giọng nói trầm, và chậm, như đang vuốt ve, dỗ dành. Đấy mới thật đúng là một nơi chốn tuyệt mỹ để được sinh ra đời. Lão tiều phu thì thào nói. Đúng ở nơi ấy, ở vùng thung lũng mướt xanh ấy, có không biết bao nhiêu là những ông bố trẻ, những bà mẹ trẻ đang ngóng đợi. Tiếng-Nói vang lên. Ngươi sẽ được làm con của một trong những ông bố và một trong những bà mẹ ấy. Ngươi hãy chọn đi. Lão tiều phu cảm thấy tình yêu thương của những bà mẹ và những ông bố trong vùng thung lũng ấy, như nước thủy triều đang dâng trào, bao phủ lấy ông. Họ cười thật tươi, giang tay ra đón chờ và réo gọi. Hãy đến với chúng tôi! Hãy trở thành con của chúng tôi! Ông lão nhìn thấy một người đàn ông có nụ cười rạng rỡ khiến trái tim của ông chợt muốn cất lên tiếng hát. Rồi ông nhìn thấy một người đàn bà có nụ cười bao dung che chở khiến ông càm thấy yên tâm và ấm lòng. Tôi muốn được làm con của họ. Ông lão nói. Cuối cùng Tiếng-Nói vọng lại, ngươi có thể chọn để làm con trai hoặc con gái. Tôi mơ hồ nhớ rằng hình như tôi đã từng làm con trai. Lão tiều phu nói. Lần này tôi muốn được làm con gái để thử xem làm con gái thì sẽ như thế nào. Và rồi, trên những rặng núi cao ở xứ Tây Tạng, trong một ngôi làng nhỏ bé giữa vùng thung lũng, có một cô bé con được sinh ra đời. Cô bé ấy mê thả diều lắm! (1) Bức tranh minh họa cuối cùng vẽ hình một cô bé tóc vấn quanh đầu, mặc y phục, mang hia của người dân Tây Tạng. Cô bé đang thả lên trời một chiếc diều sặc sỡ, cam, xanh, vàng tím, có hình thù một con bươm bướm tuyệt xinh. Bầu trời sáng, mát, và những rặng núi cao hiểm trở nơi vùng thung lũng của cô bé cũng mang những màu sắc nhẹ nhàng tươi thắm y hệt như bức minh họa đầu tiên. Trước khi khép mắt trôi vào giấc ngủ, tôi thầm nghĩ, trong lòng vô cùng sung sướng, rằng không như lão tiều phu, tôi vẫn thích làm một cậu bé con trai hơn và, hơn bao giờ hết, tôi cũng biết rất rõ là tôi thật hạnh phúc để được làm con của bố mẹ. Rất mơ hồ, tôi nghe mẹ nhắc lại với bố những lời bà thím đã căn dặn từ mấy tháng trước. Bà thím bảo, sao lai đặt cái chú bé gỗ gần sát mặt đất như vậy, chẳng khác nào như mình đang cúng vong, lỡ vong nhập vào rồi làm cách nào mà giải được. Cái tượng gỗ ấy trông giống hệt như một bào thai, y như một đứa bé nằm co chân cuộn mình trong bụng mẹ. Phải đem cất cái chú bé bằng gỗ đi thôi, nếu không thì sẽ khó lòng mà có con được trong căn nhà này lắm. Chú ấy nằm đấy, chẳng khác nào như đã có một bào thai ở sẵn trong nhà rồi, làm sao còn có thể thụ thai cho được. Nhưng, bà thím cũng dặn, nếu có muốn cất đi thì phải làm từ từ, cẩn trọng, đừng để bị xáo trộn một cách đột ngột, bất thình lình, không tốt đâu! Bắt đầu vào truyện… Chú bé bằng gỗ của mẹ không bao giờ còn được có dịp thức dậy nữa cả! Mẹ thụ thai tôi vào giữa tháng 8 năm 1991, đúng vào dịp kỷ niệm sáu năm cưới của bố mẹ - một vài tuần sau khi cái chú bé gỗ được mẹ đem đặt vào trong hộp đựng giầy, cất kỹ trong closet treo quần áo. Bố mẹ nói tôi là món quà kỷ niệm cưới vô giá, món quà kỷ niệm cưới đẹp nhất, quý nhất, hoàn hảo nhất mà bố mẹ có thể cho nhau. Vài tháng sau đó, chúng tôi lại dọn nhà và, tôi đã chào đời vào giữa tháng 4 năm 1992, khi những cánh hoa đào trước cửa căn nhà mới bắt đầu nở rộ, chim chóc hót mừng để cùng Đất Trời mở hội mùa xuân. Một hôm, khi ngồi ôm tôi trong vòng tay ngắm tôi say ngủ, một cách hết sức bất ngờ, ông ngoại đã bật nói: - Trông thằng bé giống một ông-Phật-con quá đi thôi! Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 44 Hôm ấy đúng vào ngày đầy tháng của tôi và, ông ngoại là người đầu tiên nhưng không phải là người cuối cùng đưa ra nhận xét đó. Tôi sung sướng biết chừng nào để được làm một ông-Phật-con và trở thành người bạn tý hon, thay cho cái chú bé bằng gỗ xinh xinh, trong căn nhà và trong vòng tay yêu thương của bố mẹ. Từ đó trở đi, bố thôi không gọi mẹ bằng bé con nữa. Và tôi nghiễm nhiên trở thành…bé con của bé con. Một đôi khi nằm hồi tưởng lại quãng thời gian trước khi được sinh ra đời, khi tôi còn là bào thai trong bụng mẹ, rồi ngược xa hơn nữa, trước cả khi mẹ thụ thai tôi, hoặc khi linh hồn tôi còn ở bên ngoài lòng mẹ, hoặc ngay từ thuở mẹ về với cha (2), tôi thấy một niềm vui tỏa ngát, lâng lâng trong hồn. Tôi muốn tâm sự cho bố mẹ nghe về quãng thời gian ấy lắm, vì hiện giờ đầu óc tôi vẫn còn rất sáng suốt, chưa bị những ràng buộc của đời sống mới làm cho trí nhớ bị phai mờ đi. Nhưng, tôi… không thể tâm sự được vì hiện giờ tôi còn quá bé nên chưa biết nói. Đến khi tôi biết nói thì, lẽ dĩ nhiên, cũng như bao nhiêu người khác, tôi sẽ chẳng còn nhớ lại được chuyện gì! ■ Mordical Gerstein. The Mountain of Tibet, Harper & Rows, Publishers, 1987. Bùi Diễm-Âu phỏng dịch. Tác giả Gerstein, người đã từng đoạt nhiều giải thưởng dành cho sách truyện thiếu nhi, đã viết và minh họa câu truyện trên do cảm hứng có được sau khi đọc quyển Tử Kinh (Tibetan Book of the Dead) của dân Tây Tạng. 2. Phạm Duy: Bài Ca Sao. Bài ca có những câu như: “Thương em từ thuở mẹ về với cha, thương em từ thuở mẹ mang đầy lòng.” 1. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 45 ñông Thiên! Thanh Trà Tiên Tº Các hạ không mang đến sự nồng nhiệt và cũng chẳng khoe hương sắc như mùa thu. Năm nào cũng vậy, các hạ lạnh lùng mà ấn tượng! -Tiên Tử, trà của cô có chịu nổi một trận gió của ta không? -Đông Thiên, ta còn chưa 'đại cáo thành tiên', các hạ cứ gọi ta là cô nương... -Ha, 'Hắn' gọi cô như vậy à? Thu Thiên ấy. Sao người phàm cứ thích tu luyện thành tiên nhỉ? Ta không trả lời. Mùa Đông liền thổi một luồng gió thật mạnh và thật dài lùa cây tuốt lá dọc theo ngõ thuôn. Buốt giá. Ta chỉ lặng yên rót trà. Mùa Đông lại xối xả hắt tới tấp những hạt mưa lên cửa sổ. Lạnh cóng. Ta vẫn âm thầm nâng ly trà lên miệng. -Thanh Trà Tiên Tử, trà của cô có sưởi ấm được những trái tim băng giá? -Đông Thiên, trà nóng đây, các hạ uống thời khắc biết. Làm thần tiên mà hành hạ chúng sinh tam giới thế có nên không? -Ta dữ dội vậy, thiên hạ có ai nhớ ta không? Đông Thiên cười ngạo nghễ. Ta nghe răng rắc, tiếng dăm cành cây trước ngõ gãy rụng khua động canh thâu. -Tiên Tử, xin cô một ly trà. -Trà Ôlong nhé, xin mời. Đông Thiên, các hạ nghĩ sao? Trong bốn mùa, sao mùa đông lại... Đông Thiên quay đi không nghe nữa, chỉ để lại một cuộn gió cuốn tròn lớp lá khô trên hè phố. *** Mùa đông trôi qua như vậy. Tình cờ hay thầm hẹn không biết, ta và mùa đông cứ thế đối thoại, và cứ thế trò chuyện. Mấy hôm nay ô cửa sổ bị vỡ, gió táp mưa sa. Ta thao thức. Những đêm cuối cùng của mùa đông.. Thỉnh thoảng, tiếng kính rạn nứt tựa như nỗi khắc khoải trong sâu thẳm đêm đông. -Tiên Tử không sai, trong bốn mùa ta là gã khắc nghiệt nhất. Nhưng mấy kẻ biết rằng trong lòng ta là ngàn năm cô đơn... Vài mẩu kính vụn rơi xuống sàn. Ánh trăng chiếu vào như loáng sóng Ngân Hà. Sớm nay, ta ra vườn. Trong ngập ngừng chùm nắng chớm Xuân, giữa những bụi hoa đỗ quyên, sơn trà, cửu lý hương, ta lang thang vô định, như muốn tìm chi mà chả biết mất gì. -Đông Thiên, các hạ còn quanh đây không? Một làn gió mát lạnh tràn qua khu vườn, dư âm của mùa đông: -Cô nương, bảo trọng! Trái tim mùa đông, có tựa như tâm bão, biết là chốn bình yên...?! ■ Thanh Trà Tiên Tử - Tiễn Đông cảm tác - 2010 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 HÜÖng Hoa Cà Phê Song Nghiên Tôi đứng giữa vùng trời xanh bát ngát Gió cao nguyên lồng lộng vạt áo bay Giữa đồn điền cà phê trên xoải núi Chợt thấy mình mê hoặc đến ngất ngây Nụ hoa trắng thanh tao sắp hàng giẫy Ngày hôm qua còn bẽn lẽn thẹn thùng Ngày hôm nay như trải qua phép lạ Nở bung ra thành những đóa tuyết hoa Hoa trắng xóa hương hoa tràn trong gió Hương ngọt ngào đượm chút hoa chanh cam Hay hương mang chút mùi hoa nhài trắng Trộn nồng nàn vào man mác mộng mơ Giữa mùa xuân cây cỏ tràn nhựa sống 46 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Giữa vườn hương hoa thơm đẹp trắng ngần Lòng quên hết những lo âu phiền muộn Ôi cuộc đời thêm đẹp với cà phê! ■ Song Nghiên Ngày 6 tháng 2, 2014 M¶t Ngày Ban Mê Song Nghiên Hoa cà phê nở rộ em ơi Như từng chùm tuyết trắng chơi vơi Long lanh vài giọt sương còn đọng Tưng bừng như rộn tiếng ai cười Hoa gây cảm xúc đến dạt dào Chùm hoa như thể những chùm sao Từng cành chĩu xuống hoa chen cánh Nhấc bổng hồn anh vút trời cao Thơm hương chanh bưởi gợi nao nao Thoảng chút nhài thanh của năm nào Vương trên mái tóc em ngày đó Kỷ niệm năm xưa còn chao đao Đến nhé đi em giữa tứ bề Cùng anh xúc cảm hoa cà phê Cho gió vờn tóc, hương sũng áo Trút hết thời gian quên đường về. ■ Song Nghiên Kỷ niệm một ngày trên cao nguyên 47 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 48 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Tå Tình Em Thân quý gởi Mai Hoàng Song Liêm Cám ơn em đã đến trong đời Chia sẻ cùng tôi nỗi ngọt bùi Từ thuở hàn vi sờn áo vải Đến bây giờ tóc điểm sương phơi. Năm chục năm bao ngày lận đận Thế thời rời đổi vẫn bên nhau Biển dâu vẫn một niềm son sắt Chung một tình sâu , một nghĩa sâu. Hăm tám năm dài nương đất khách Xót bao nước mắt,giọt mồ hôi Trước sau vẫn một lòng chung thủy Má ấp,vai kề bước sánh đôi. Thầm cám ơn Trời,tuổi bảy mươi Mừng em yêu dấu mộng đêm cười Vợ chồng hòa thuận,vui con cháu Thơ tạ tình em - hạnh phúc tôi. ■ Grateful for Your Love To my darling Mai Hoàng Song Liêm So thankful that you’ve come into my life Sharing with me all the highs and lows From the poor days of worn-out shirts To nowadays of silvery grey hair and eyebrows Fifty years full of frustration and hardship Though times have changed, we’re still together Through the ups and downs, we remain loyal forever With deep feelings and affections for each other 49 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Twenty-eight long years in foreign lands Shedding countless tears and sweating profusely Yet you’ve always been so faithful Staying by my side most lovingly At age seventy, I count my blessings Smiling nightly with sweet dreams of you Enjoying my peaceful life with you and fun with our children A grateful poem for your love, the source of my happiness. ■ (Translated by Hoang-Tam June 21, 2013) Hai PhÜÖng Hoàng Song Liêm Từ thuở xa người cách cố hương Môi quen rượu đắng mưa đêm trường Ta một phương và em một phương ! Ở đây Thu đã vàng cây lá Chờ gió Đông về đợi tuyết bay Tóc đã phai xanh đầu điểm bạc Mộng hờ cũng trắng cả đôi tay. Bao giờ trở lại quê nhà nhỉ ? Đất khách chân quen ,lạ dấu giày Phòng lạnh ta nghiêng đầu hỏi bong Quê người tâm sự với ai đây ? Hai đứa ,hai phương trời cách biệt Bên này,bên ấy nhớ thưong nhau Vầng trăng xưa vẫn lưng chừng núi Hiu hắt trời sương,cánh nhạn gầy ! Đêm qua trầm lặng năm canh mộng Rượu nhạt mềm môi uống chẳng say. ■ 50 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Two World Corners Translated by Hoàng-Tâm Since the time away from you and motherland My lips habitually taste bitter liquor and nightly rain I’m in one world corner and you’re away in another! Autumn here is coloring all tree leaves Waiting for Winter wind and fluttering snow My once shiny black hair has turned silvery All fleeting dreams are now in empty hands When will I get to go back home? Familiar feet in foreign land, footprints still strange In freezing cold room, I ask my shadow: With whom can I share my feelings here? Two lost souls in two world corners This side, that side, missing each other The same old moon still shines above A lonesome crane in foggy sky! Last night went by in lonely dreams My lips softened with liquor are still awake. ■ (Translated by Hoàng-Tâm Gaithersburg, MD, June 28, 2013) Fabulous February Hoang-Tam Short and no nonsense, You make very few friends With powerful snow storms Cold winds and freezing rains. But children love you, 51 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 And for good reasons too. They get to stay home, With many fun things to do! When snow falls from the sky, I enjoy looking up high Catching snowflakes on my tongue, Tingling kisses on cheeks once dry. February brings Valentine candy, Red roses with love notes for me. Glasses of wine warm up the cold night Great dinner loves good company. Fabulous, friendly February: So white, so pure, and so free! ■ Hoang-Tam February 20, 2014 52 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Lºa ñò NguyÍn Bính Suốt giời không một điểm sao, Suốt giời mực ở nơi nào loang ra. Lửa đò chong cái giăng hoa, Mõ sông lục đục canh gà le te. Chừ đây bên nớ bên tê, Sương thu xuống gió thu về bồng bênh Đàn ai chừng đứt dây tình, Nổi lên một tiếng buồn tênh rồi chìm. ■ Light in a Boat (Translation by TMCS) In the whole sky, there is not any star From somewhere, the black ink is spreading far… The light in the boat illuminates an amorous affair Along the river, here and there, A dull sound of a wooden fish1 and a cock’s crowing Can be heard simultaneously The autumn breeze is blowing gently While the fog covers both banks of the river. It seems that a string of someone’s pipa2 is broken suddenly Giving a melancholy sound over the river Then like someone’s love Sinking into the water so quickly! ■ Notes: 1 Wooden fish: a hollow wooden piece that Buddhist monks beat while saying prayers. 2 Pipa: a kind of traditional music instrument often played by a lady singer. Chu HÕa (TMCS dÎch) Bất tri tự hà xứ Hắc mặc mãn thiên không Bất kiến nhất tinh tú, 53 Firmament Thử dạ chân mông lung. Volume 7, No. 1, April 2014 Mộc đạc động giang thủy Xứ xứ kê đề thanh, Giang thượng du thuyền lí Đăng chiếu nguyệt hoa tình. Thử ngạn như đối ngạn Thu phong, sương tản mạn, Nhất thanh nhiên hậu trầm Thùy cầm tình huyền đoạn. ■ Hán ngữ - phồn thể ( - 居 空 黒 見 矓 真 朩 冮 江 谩 ■ Hán ngữ - giản thể 舟火 (阮丙诗 – 相梅居士译) 不知自何处 黒墨满天空 不见一星宿 此夜真蒙胧 朩铎动冮水 处处鸡啼声 江上游船里 灯照月花情 ) 54 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 此岸如对岸 秋风霜散谩 一声然后沉 谁琴情絃断 ■ ñón Giao ThØa Phùng ThÎ HÒng Vân Xuân về bên gốc mai a? Ta và em, hỏi ai già hơn ai? Già hơn – Chắc hẳn lão mai! ■ 12 giờ 30 Xuân Giáp Ngọ Phùng Thị Hồng Vân Đón Giao thừa Welcome the New Year's Eve (Translation by TMCS) Is it spring coming to you? Oh, my apricot tree. Tell me, please, who among us is the elder? Of course, I am, said the old Apricot tree. ■ Spring of the year of the Horse, at 0.30 o’clock By Phùng thị Hồng Vân 55 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 VÃn Mai Thø (TMCS và Thanh Trà Tiên Tº dÎch Hán ng» ) - Mai thụ! Kim nhật Xuân đáo ma? Cha lưỡng, thùy chi niên kỷ đa? - Bản thụ tỉ nâm lão đắc đa! ■ Hán ngữ - giản thể 问 梅树 梅树, 今日春到吗? 两, 谁之年纪多? 本树 比您 老得多! ■ Hán ngữ - phồn thể 問 梅樹 梅樹, 今日春到嗎? 兩, 誰之年紀多? 本樹 比您 老得多! ■ 56 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Hà N¶i ChiŠu ñông Thanh Trà Tiên Tº Hà Nội gió đông tràn ngõ phố, Cây nghiêng nghiêng bóng, nắng liêu xiêu, Nhấp nhô những dãy nhà như thể Ôm ấp trao nhau hương ấm chiều. Cùng nhau bên tách cà phê nhỏ, Giọt giọt thời gian chầm chậm trôi, Từng phút rời xa từng phút tới Nối nhau trong tĩnh lặng chiều rơi. Anh ngắm nồng say đáy mắt em Tháng năm đâu chỉ có êm đềm Tầng không, đôi nhạn cùng chao cánh Mây gió chung chiêng bao nỗi niềm. Chia tay Hà Nội, ly cà phê Mặt nước Hồ Tây sóng vỗ về, Trầm bổng chuông chùa như tiếng gọi Ngân dài vạn dặm bước xa quê. Đông Hà Nội, thương mùa Đông Hà Nội Gió xuyên dài thiên lý bước phiêu linh... ■ Thanh Trà Tiên Tử Đông Hà Nội 2013 57 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Hanoi - A Winter Afternoon (Translation by TMCS) The winter wind fills in all the alleys and streets of the city, The shimmering sun makes some shadows of the trees. It seems that the low and high buildings This afternoon stand side by side more closely for heating… We take some coffee together Each drop of coffee – each drop of time, Each second goes away, a new one arrives, This afternoon, they so silently follow one after another… You passionately look into my eyes There were not only those tranquil days in our life. In the high sky, a pair of swallows is hovering, The wind and clouds are floating unceasingly with many feelings Taking some coffee we say good bye to the city And watch the West Lake rippling slightly… The melody of a Buddhist temple bell extends to thousands of miles, calling us home gently and softly. Oh! My love, my feelings for my Hanoi in winter! Your cold wind will follow me in my long adventure…■ Fairy of Green Tea, Hanoi, Winter 2013 58 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 59 ChuyŒn Phi‰m MiŠn Nam Ng†n Tàng Vân Do: David Lš Lãng Nhân SÜu TÆp Trước chiến tranh 1945, đường bộ từ Cẩm Giang tới Tây Ninh có găp chút khó khăn, mặc dù chỉ có 16 cây số dài. Người ta đi bằng xe ngựa, xe bò, xe đạp, hay đi bộ. Sự giao thông chậm chạp, khó nhọc, lại còn nguy hiểm nũa chớ! Người đi phải qua Truông Bến Kéo. Chổ nầy có con cọp lớn bằng con bò con, hay ra đón đường phá khuấy người và thú vật đi trên lộ. Cho nên xe bò xe ngựa hay người bộ hành thường đi có cặp, có bè, đề phòng cứu trợ lẫn nhau. It ai dám qua Truông Bến Kéo một mình. Vậy mà Bác Tư Nghi vẫn khinh thưởng, qua truông Bến Kéo một mình, đều đều, không sợ hãi chút nào… Bác Tư Nghi gốc người Bình Định, tuổi khoản năm mươi, vóc người vạm vở, lưng nách, chuyên làm nghề kéo gổ và thợ cưa nên tới lui quen thuộc với các trại làm cây vùng Cẩm giang-Tây ninh. .. Ba năm trước đó, bác Tư gái qua dời, để lại một dứa con gái 12 tuồi mắt cận thị nặng gần như mù, nên phải đem gởi nuôi tại nhà người bà con coi sóc giùm. Người ấy là Bà Nội tôi, nhà tai Xóm Chợ Cũ Tâyninh… Hằng tháng , bác Tư Nghi ghé qua thăm con, cho tiền ăn và mua sắm thêm vật dụng cho con gái mình. Mỗi lần Bác Tư ghé qua thăm, cả nhà tôi vui như Tết. Ngoài đồ vật biếu xén cho người lớn, Bác không quên biếu đường Thốt nốt và bánh kẹo cho trẻ con. Tất cả quần áo và vật dụng cần yếu khác của bác đều đươc gói gọn trong một bọc lớn có quai xách; bác quảy sau lưng, dùng một cây gậy dài xõ ngang. Cây gậy nầy rất đặc biệt vì nó là thân của một cây “ Mặt-cật” già rất chắc, cứng như sắt, vừa dùng làm đòn gánh, vừa làm vỏ khí tự vệ - để …đánh cọp! Rổi rảnh, Bác Tư Nghi kể chuyện bác đánh con cọp ở truông Bến Kéo như vầy: Bữa đó, Bác quãy bọc qua truông Bến Kéo một minh thì nghe một tiếng gầm gừ rồi thì một con cọp rằn từ trong buội rặm nhảy ra đường chụp bác. Bác liền quăng bọc hành lý cho nó chụp, đồng thời rút cây gậy ra. Trong khi con cọp bị lúng túng vì móng chân nó mắc vướng trong bọc hành lý, thì bác tức tốc xoay mình dùng hết sức bình sanh đánh cây gậy vào hai chân trước của nó nghe tiếng kêu một cái rốp – chắc là nó bị gảy xương! Rồi lẹ như chớp, bác xoay mình lần nữa lấy trớn xáng lên đầu con cọp một gậy thứ hai, sức đánh nặng dư trăm cân. Bốp! Đau điếng, nó rống lên một tiếng rồi cong đuôi chạy mất vô rừng…Từ đó không thấy nó xuất hiện ở truông Bến Kéo nữa… Bác Tư Nghi kể tiếp: Cái ngọn roi đó tên là Ngọn Tàng Vân, là một thế võ gia truyền của bác, bề ngoài coi tầm thường Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 60 mà hiểm ác lắm đó; vì nó tấn công bất ngờ như sấm sét từ trong mây xẹt xuống. Mãnh lực nó lại được tăng gia 3 lần nhờ sức xoay vòng ly tâm và thế đánh từ trên cao bổ xuống đầu địch thủ, nặng như núi lỡ đá lăn...Ngọn Tàng Vân của bác rất hữu hiệu ngon lành, ăn chắc là nhờ đánh ra có cặp Âm Dương, trong một thế “liên hoàn” bí hiểm, vừa đánh vừa hét lên làm cho địch thủ giựt mình phân tán tinh thần nên dễ bị thương trong nháy mắt! Tiên hạ thủ vi cường : Rụp! Rụp!... Bá chiến bá thắng đó cháu ơi! Bác Tư Nghi cười hề…hề…Rồi Bác vấn thuốc lá hút phì phà…. Lần chót Bác Tư Nghi ghé qua nhà Nội tôi là để đi lám ăn xa trong một trại cưa mới gần biên giới Miên có nhiều gỗ quí và chủ nhân trã tiền hậu, bằng hai chổ cũ. Chủ cho biết là không có cọp lãng vãng gần trại. Nhưng không cho biết là người sinh sống vùng đó thường bi sốt rét rừng do muỗi độc chích, rất khó tránh. Ngọn Tàng Vân bá chiến bá thắng trở thành vô hiệu đối với con muỗi bé tí xíu mà vô cùng hiểm độc. Bác Tư Nghi đã bị nó …chích ngả gục giữa rừng sâu Miên Việt. Bác Tư Nghi – người dũng sĩ đánh cọp với tiếng cười ngạo nghễ, đã chết thảm thương sau những cơn sốt rét da vàng kinh sợ hành hạ người Bác thành thân tàn ma dại trong một khoản thời gian chưa đầy một tuần trăng! ■ Madison, AL January 2014 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 61 J'ai quitté mon pays R©i Xa Quê HÜÖng Tôi Enrico Macias Sóng ViŒt ñàm Giang Lời mở đầu. Đã biết bao nhiêu người rời bỏ quê hương với tâm trạng, muôn vàn cảm xúc không thể tả hết. Xin mời nghe bản nhạc “J'ai quitté mon pays” của Enrico Macias, và đọc hai bản dịch bài nhạc diễn tả tâm trạng của một người Do thái gốc Algeria, đã rời quê nhà cách đây hơn bốn thập niên. Enrico Macias, gốc người Do thái Algeria, tên thật là Gaston Ghrenassia sinh ngày 11 December, 1938 tại Constantine, Algeria. Theo tài liệu thì chữ Macias là do người thư ký tòa đô chính đã nghe lầm và viết sai từ Nassia thành Macias. Bài hát nổi tiếng này Enricos Macias đã viết vào năm 1961 khi rời quê ông ở Constantine (Algeria), và phát hành sau đó vào năm 1962. Bài J'ai quitte mon pays (Adieu mon pays) diễn tả tâm trạng của ông khi đừng trên boong con tầu La Ville-d'Alger, nhìn lại thành phố đang xa dần, với những làn sóng xúc cảm thương tiếc cho một quê hương đang mất. Enrico Macias đã quyết định rời Constantine để sang Pháp sau khi bố vợ ông, ca sĩ Raymond Leyris và cũng là phát ngôn viên công đồng Do Thái tại Constantine bị ám sát (June 1961). Bản nhạc này sau đó coi như được khá ưa chuộng có thể do đồng cảm với lời nhạc hay do động cảm từ bản nhạc. ■ Sóng Việt Đàm Giang Nhạc nghe tại link: http://www.youtube.com/watch?v=rovq65JPQwU J'AI QUITTÉ MON PAYS par Enrico Macias J'ai quitté mon pays J'ai quitté ma maison Ma vie, ma triste vie Se traîne sans raison, J'ai quitté mon soleil J'ai quitté ma mer bleue Leurs souvenirs se réveillent Bien après mon adieu, Soleil, soleil de mon pays perdu Des villes blanches que j'aimais Des filles que j'ai jadis connues Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 J'ai quitté une amie Je vois encore ses yeux Ses yeux mouillés de pluie De la pluie de l'adieu, Je revois son sourire Si près de mon visage Il faisait resplendir Les soirs de mon village, Mais du bord du bateau Qui m' éloignait du quai Une chaîne dans l'eau A claqué comme un fouet, J'ai longtemps regardé Ses yeux bleus qui fuyaient aient aient La mer les a noyés dans le flot Du regret. ■ * I have left my country I have left my country I have left my house dear My life, my somber life That was dragged to nowhere. I have left my bright sun I have left the blue ocean Their memories still remain After my goodbyes faded. The sun, the sun of my lost country The white painted cities I loved The girls whom I once knew. I have left a dear friend But I still see her eyes Her eyes soaked with rain The rain of sad goodbyes. I also see her smile So close to my face That made dazzling bright The evenings of my town. 62 Firmament Here on the deck of the ship Taking me away from the seaside The chain slapped in the water Made a sharp noise like a whip. Volume 7, No. 1, April 2014 For so long I kept watching Her blue eyes receding Drowned by the sea in the waves Of regret. ■ Sóng Việt Đàm Giang dịch * Rời xa quê hương tôi Rời xa quê hương tôi Xa đi mãi căn nhà hiền Xa đời, cuộc đời buồn Đang kéo đi vô phương. Dứt đi thôi mặt trời Đại dương xanh yêu một đời Kỷ niệm kia còn đầy Một dứt biệt đang nhạt nhoà. Thái dương, thái dương từ quê tôi mất rồi Những căn nhà trắng toát tôi yêu Những cô gái tôi đã quen một thời. Từ biệt xa bạn thân thương Còn thấy trong mắt vương Sũng ướt như cơn mưa Cơn mưa ướt xa ngày nào. Thấy nụ cười nàng còn gần Kề mặt nhau rất thật gần Dường như làm sáng rực Những chiều vàng làng nhà. Rồi nay trên sân boong Đưa tôi xa bến bờ Nghe nước than xích đập Như roi quất trong tim tôi. Tôi thấy còn thấy hoài Đôi mắt xanh đang mờ dần Cuốn vào lòng biển cả giữa làn sóng 63 Firmament ngút tiếc thương.. ■ Volume 7, No. 1, April 2014 Sóng Việt Đàm Giang dịch theo âm điệu bản nhạc 64 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 ThÖ Haiku Kim-Châu (1-2/2014) Source: Google Images Xuân Phú Sĩ Tuyết đầu non Mai xuân thêm rạng rỡ Phú Sĩ Sơn. ■ Source: Google Images Sơn Nữ Đón xuân sang Rừng mai cùng sơn nữ Đẹp dịu dàng. ■ 65 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Source: Google Images Hoa Đăng Hoa đăng đủ sắc mầu Phố Cổ đón mừng Lễ Hội Xuân Lung linh trên sóng nước. ■ Source: Google Images Mừng Tuổi Mùng tuổi Bà ngày Tết Chúc Bà thêm thượng thọ bình an Sống lâu cùng cháu con ■ 66 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Source: Google Images Chim Én Trời xanh ngắt Đàn chim én bay ngang Rừng mai vàng. ■ Source: Google Images Tàn Xuân Làn gió xuân Thổi bay làm tơi tả Cánh mai tàn. ■ 67 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Source: Google Images Hoa Dại Nở đầy đồng Hoa dại mọc từng đám Điểm mùa xuân. ■ . 68 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 69 Thæm Stonehenge: Chùm Vòng ñá ThÜ®ng C° Sóng ViŒt ñàm Giang biên soån ñi thăm viếng England và London, chúng ta không thể không đi thăm một địa danh đã được biết đến từ lâu đời và dù đã trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ, nơi đây vẫn là một trong những địa điểm bí ẩn mà các lịch sử gia, khoa học gia, thiên văn gia trên thế giới vẫn chưa tìm đuợc giải đáp thỏa đáng về lịch sử của nơi này. Đó là chùm đá vùng thượng cổ Stonehenge vào thời kỳ đồ đá mới và đồ đồng ở gần Amesbury, thuộc hạt Wiltshire, 13 km về phía bắc Salisbury, và 130 km phía tây của thủ đô London. Stonehenge đuợc Unesco công nhận là Di Sản Thế Giới vào năm 1986. Địa thế Stonehenge tọa lạc trong một tam giác đất lọt giữa hai công lộ có rất nhiều giao thông qua lại. Phía nam là công lộ A303, con đường chính nối liền London với vùng Tây Nam. Công lộ phía bắc của Stonehenge A 344 đi ngang qua Stonehenge và cắt ngang đền thờ chính từ vùng cảnh trí. Hiện nay chúng ta đi ngang qua một đường hầm dưới đường A 344 để đến thăm Sonehenge, bắt đầu một vòng quanh chum đá thượng cổ này. Vì quang cảnh chung quanh mênh mông rộng lớn nên từ xa xa, chúng ta có cảm nhận là chùm đá vòng này không lớn như trí óc tưởng tượng. Địa danh Stonehenge (đá treo) có lẽ bắt nguồn từ chữ Anh cổ stăn /stone kết nối với chữ henge (bản lề) với những tảng đá cự thạch lớn đứng thẳng có mang một thanh đá ngang phía trên. Lịch sử của Stonehenge đến bây giờ vẫn chưa ai tìm được câu giải đáp thỏa đáng. Tuy nhiên người ta biết vùng này rất có ý nghĩa cho người tiền sử, trong vòng 3 miles đường kính chung quanh Stonehenge có đến hơn 500 gò đống mộ, phần lớn có lẽ là của những vị vua chúa và trưởng bộ lạc. Như thế có thể hiểu trong quá khứ Stonehenge có thể được xem như là nơi để cử hành những buổi tế lễ, tang lễ quan trọng. Vòng đá Stonehenge và vài trăm vòng đá tương tự tại Anh quốc cũng đã được các nhà khoa học nghiên cứu thiên văn học cho rằng những vòng đá này có thể đã sắp sếp để tính toán được chuyển động của mặt trời, mặt trăng, sao, và có thể tiên đoán được nguyệt thực, thiên thực để giúp dân biết cách trồng trọt và gặt hái hợp thời điểm. Stonehenge cũng được xem như là lịch trời (celestial calendar) chính xác. Hàng năm cứ vào ngày hạ chí (summer solstice/June 21), nhiều người đổ tới Stonehenge để chứng kiến mặt trời mọc từ phía Đá Gót chân (Heel Stone: tảng đá số 6 nằm phía xa gần đuờng đi bộ trong hình) sắp thẳng hàng với những tảng đá ở trung tâm và đá Altar của vòng tròn đá này. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Dưới đây là phác họa trong brochure do trung tâm Stonehenge cung cấp: 70 Stonehenge và lối vào từ North Barrow (số 1 trong bản đồ vẽ) 1: Gò đống phía Bắc/North Barrow; 2: Trạm đá/Station stone; 3: Bờ rãnh bao quanh; 4: Gò đống phía Nam/South Barrow; 5: Trạm đá; 6: Đá Gót chân/Heel stone; 7: Đại lộ/The Avenue; 8: Đá Hiến Tế /Slaughter stone; 9: Vòng đá cự thạnh/sarsen có đại tam thạch với đá đặt ngang lintel; 10: vòng đá xanh nhỏ /bluestones; 11: vòng đá cự thạch sắp đặt như vành móng ngựa. Toàn diện Đá vòng ngoài và vòng trong horseshoe (#11) Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 71 Brochure bản đồ hướng dẫn. Hình chụp từ trên cao được xoay hướng cho phù hợp với minh họa Cận ảnh: Đá Hiến lễ (Slaughter Stone: #8) và vòng ngoài đá sarsen với lintels (#9). Ghi chú của người viết. Lần đầu tiên đi thăm Stonhenge vào đầu tháng 3,2011, trời lạnh như cắt da cắt thịt. Đi bộ từ khu đậu xe, mua vé , nhận audioguide và bắt đầu vào từ cửa bắc có cái gò đống để vào thế giới huyền bí của đá cự thạch. Lạnh lắm, gió thổi mạnh bay người, rét quá, vừa nghe vừa giữ máy vừa chống cái lạnh thốc thật là khó khăn. Tuy nhiên người viết cũng đã thăm được quanh lối đi lát sỏi, và rồi đi như chạy chung quanh vòng lớn phía ngoài để cảm nhận cái mêmh mông, cái huyền bí, cái vĩ đại của đá và nhỏ bé của người. Lần thứ hai đi thăm vào giữa tháng 5, 2013, trời ấm áp hơn. Đi xem thích thú hơn thoải mái hơn, và lần này thì không phải chạy mà có thì giờ đi vòng quanh Stonehenge ngắm và chụp hình đến hai lần! Firmament Đá Gót chân. March 2011 Volume 7, No. 1, April 2014 72 May 2013 Tài liệu cho hay: Thời điểm bắt đầu xây dựng Stonehenge được cho là vào khoảng năm 3100 trước Công Nguyên và phải mất cả ngàn năm mới hoàn tất vì các tảng đá được sử dụng cho công trình này phải lấy ở một nơi rất xa. Đá ở đây có 2 loại: đá cự thạch là những khối cứng chắc và những khối đá mềm hơn blue stones lấy từ các vỉa than và quặng (do đó chúng được gọi là đá xanh) Các thời kỳ phát triển Stonehenge đã phát triển qua rất nhiều thời kỳ. Trước khi hoàn thành, tức là khoảng năm 8000 trước Công Nguyên (TCN), các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 5 lỗ trụ có từ thời kỳ đồ đá được cho là vào khoảng năm 8,000 TCN. Những lỗ trụ này được dựng nên quanh cây gỗ có đường kính 0,75m được dựng lên và cuối cùng bị mục nát. Ba trong số các lỗ cho cột trụ được xếp theo phía đông-tây mà có thể là có ý nghĩa nghi lễ. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 73 Cũng có tài liệu cho rằng Stonehenge khởi đầu chỉ là một vòng đường mương rãnh và bờ lớn có từ thời Đồ Đá Mới hay Tân Thạch Khí (Neolithic). Stonehenge 1 – khoảng năm 3,100 TCN Stonehenge đầu tiên là một ụ đắp đất lớn nằm trên một vùng đất rộng và dốc, gồm một rãnh hào đào, một bờ rạch, và những lỗ Aubrey. Tất cả làm vào khoảng 3,100 trước công nguyên. Lỗ Aubrey là những hố tròn rộng và sâu cỡ 1m có đáy bằng phẳng bằng đá vôi. Những lỗ này mặc dù vài chỗ có chứa xương người hỏa táng nhưng không phải là nơi chứa cốt người mà là một phần của nghi lễ tôn giáo. Sau thời gian này, Stonehenge bị bỏ hoang cỡ 1,000 năm không có thay đổi hay bị đụng đến. Stonehenge 2 – khoảng năm 3,000 TCN Vào thời kỳ này, Stonehenge được coi như là một nơi sớm nhất dùng để hoả táng trong các quần đảo ở Anh. Sự hiện diện của rất nhiều gò đống đã chứng minh điều đó. Xương của những người chưa được hoả táng cũng được tìm thấy tại các rãnh bị lấp đầy. Những bằng chứng có được từ các đồ gốm từ cuối thời kỳ đồ đá đã được tìm thấy đều có sự liên quan với thời kỳ này. Stonehenge 3 - khoảng năm 2600 TCN Khoảng thời gian này có nhiều thay đổi. Những cấu trúc với đồ gỗ được dựng lên từ lâu bắt đầu mục nát và sau đó là mở đầu cho xây dựng bằng đá. Hơn 80 tảng đá xanh từ vùng núi Presali, tây nam Wales được chuyên chở đến Stonehenge. Những đá xanh này được dàn dựng thành một vòng đôi không kín. Lối cửa chính để vào mô đất lớn tròn đuợc gọi là Đại lộ. Thời kỳ chót của Stonehenge là thời kỳ những tảng đá lớn cự thạch được chuyển từ Marlborough Downs đến Stonehenge. Những cự thạch này sắp xếp thành một vòng đá ngoài. Những tảng đá được tạc với những lỗ mộng và những chiếc mộng nối với nhau trên chóp trước khi đá được dựng thẳng đứng, với một vòng gồm những thanh dầm đá nằm trên đỉnh. Những chiếc dầm đá ngang được lắp với nhau theo phương pháp gia công gỗ với lỗ mộng (mortie) và mộng (tenon) gắn vào đá đứng. Mỗi khối đá đứng cao khoảng 4,1m, rộng 2,1m và nặng khoảng 25 tấn. Vòng trong là vòng móng ngựa với tam đá (trilithons), mỗi tam đá có hai đá đứng và một đá ngang năm bên trên. Vòng trong cùng là một vòng với đá xanh nhỏ. Gần trung tâm là một đá nằm gọi là đá Tế đàn/Altar. Đây là cục đá xanh lớn nhất từ nam Wales chở đến. Nếu nhìn từ mặt đất, chúng ta có cảm tưởng Stonehenge là một sự sắp xếp hỗn độn ngẫu nhiên, nhưng với góc nhìn từ trên cao thì công trình đá cự thạch thực sự được xây dựng có dàn xếp quy mô. Làm sao ngày xưa cả hai loại đá được di chuyển đến cánh đồng Salisbury? Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 74 Đá cự thạch lớn hơn nhưng di chuyển gần hơn và có thể đã được vận chuyển bằng xe kéo chạy trên đường rày gỗ với công lực kéo của một đoàn 200 đến 400 người. Nếu ước lượng dùng đuờng quanh để tránh những đồi cao trong vùng khi có thể được thì một tảng đá kéo như thế tốn cỡ 12 ngày. Về đá xanh. Các tấm đá nhỏ được gọi chung là các phiến đá xanh gồm nhiều loại khác nhau, nặng khoảng 4 tấn và được mang từ Preseli Hills miền nam xứ Wales, ở phía tây của Stonehenge, cách đấy 246km (cỡ 150 miles).Có giả thuyết cho rằng đá đã được nằm rải rác tại cánh đồng Salisbury từ thời đại Băng Hà (Ice Age), nhưng hầu hết giả thuyết khác đều cho rằng đây là công lực của người làm chứ không do băng đá làm giúp. Nhìn vào lộ trình từ Presali Hills đến Stonehenge thì chúng ta có thể biết rằng một phần di chuyển qua đường bộ bằng cách lăn, kéo, đẩy đá tới bờ nước ở Milford Haven, rồi di chuyển qua đường thủy trên sông Avon và sông Frome rồi được kéo lên bờ ở Wiltshire, rồi được chuyển bằng đường thủy theo sông Wylye đến Salisbury rồi sau cùng đến phía tây Amesbury. Hiện tại, ngày đông đúc nhất tại Stonehenge hàng năm là ngày Hạ chí (21 tháng 6 hàng năm). Trong ngày Hạ chí số người có thể lên đến 21,000 người, họ tới từ tối hôm trước cỡ 7PM và ngay sau khi mặt trời mọc ngày hôm sau (hạ chí) xong là họ rời. Hàng năm hội họp của nhiều đoàn thể hoặc vui chơi hoặc tôn giáo được tổ chức vào tuần lễ này tại đó. Hiện nay, ngoài ngày Hạ chí, Đông chí, và trừ những trường hợp có giấy phép đặc biệt của một đoàn thể nào đó được chấp thuận cho vào trong hàng rào dây thừng để quan sát trung tâm của chùm đá vòng cổ này, du khách chỉ được chiêm ngưỡng ở phía xa, ngoài vòng đai dây thừng bao quanh. Đứng từ xa du khách đã có thể thấy rõ rằng mặt ngoài những tảng đá này không đồng diện. Rêu, nấm loang tạo bởi rêu mốc/lichen với nhiều mầu khác nhau đã tạo nhiều đốm, vết loang trên mặt đá. Lichen thường chứa fungus và rong xanh. Rong xanh trong lichen chứa diệp lục tố và có thể chuyển năng lực của mặt trời thành đường. Fungus trong lichen che chở rong xanh chống lại được những khắc nghiệt của thời tiết. Nghiên cứu gia cho rằng những đốm loang, rêu xanh lichen phát triển trên đá một phần là do du khách đụng chạm vào những tảng đá đó, 77 loại lichens đã được quan sát là hiện diện ở những tảng đá này và hầu hết đều ở tầm tay của mọi người có thể đụng hay sờ đuợc. Một vài tảng đá còn lại dấu vết của hoá chất tẩy bỏ Radio Caroline, được dùng để xóa đi những sơn xịt phá hoại vào đá trong những năm giữa 60s. Chúng ta cũng có thể thấy nhiều chim nhỏ đậu trên chóp đá. Loài jackdaws (một giống quạ nhỏ) đã được thấy là làm tổ trong kẽ vách đá và nhìn thấy rất thường. Khi đi vòng quanh chùm đá treo, chúng ta thấy có một cự thạch lớn đề tên đá Gót chân (Heel Stone) gần hàng rào vòng đến cửa chính vào thăm. Nhìn vào bản đồ thì ta thấy đá Gót chân nằm dọc theo Đại lộ. Đá Gót chân cũng còn được gọi là đá mặt trời vì trong ngày Hạ chí , nếu đứng trong vòng đá nhìn về hướng đông bắc qua Đại lộ thì sẽ thấy mặt trời mọc lên trên từ tảng đá Gót chân này. Đi quá Heel Stone thì chúng ta thấy một tảng đá nằm dài mang tên đá Hiến tế (Slaughter Stone). Tảng đá này lúc xưa cũng đứng thẳng nhưng rồi đã bị ngã đổ vì mất đá tựa và nay nằm dài trũng trong vũng đất thấp, thu thập mưa, nắng cùng sắt nên có màu đỏ sắt rỉ. Tảng đá này không bao giờ là tảng đá dùng trong hiến tế như tên mang mà chỉ là một tảng đá đã bị đổ trong lối vào thăm vòng đá Stonehenge. Nhóm khảo cứu của Tướng Willian Hawley (1920s) Giáo sư Mike Parker Pearson thuộc Đại học Cao đẳng London (2008) tường trình đã khai quật và nghiên cứu hơn 50.000 mẩu xương được hỏa táng thuộc về hơn 60 người (hầu hết là người đàn ông trẻ tuổi) đã được chôn tại Stonehenge và cho rằng Stonehenge nguyên thủy chính là nghĩa trang rộng lớn cho những gia đình quý tộc sinh sống cách đây khoảng 3.000 năm trước Công nguyên, tức sớm hơn Stonehenge thiên văn đến 500 năm. Những lỗ Aubrey cũng đã chứng minh rằng đó là những lỗ dùng để dựng cột gỗ hay cột trụ chôn cất. Xương người hỏa táng cũng đã tìm thấy rải rác tại lỗ Aubrey và tại các bờ rãnh trong vùng. Tường trình cũng cho biết răng gia súc lấy từ 80.000 xương động vật khai quật cùng địa điểm cũng cho thấy, vào khoảng 2,500 năm trước Công nguyên, Stonehenge từng là nơi tổ chức các bữa tiệc cộng đồng một cách linh đình. Những buổi tiệc này có thể là những buổi đại lễ, tụ họp của các nhà giàu có, quý tộc để vui chơi hoặc thương mại? Hoặc cũng có thể là ngày lễ festival vui chơi để dân chúng tụ Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 họp gia đình, bàn chuyện xã hội, tôn giáo, chính trị, v.v…? 75 Stonehenge có phải là trung tâm thiên văn hay lịch trời không? Điều này hiện vẫn còn được bàn cãi. Tuy rằng ngày Hạ chí tại Stonehenge đã thể hiện rõ trong hiện tại, nhưng ngày xưa có bàn luận cho rằng đó không phải là mục đích của Stonehenge. Mặc dù Stonehenge càng ngày càng được nhắc đến như là một nơi tu họp đển chiêm ngưỡng mặt trời mọc trong ngày Hạ chí (21 tháng 6 hàng năm) với một tụ họp lên đến hơn 20,000 người hàng năm, nhưng các nghiên cứu khảo cứu khoa học gia đã có nhiều chứng cớ phát triển cho biết người tiền sử chỉ thăm viếng Stonehenge vào Đông chí. Chứng cớ rõ ràng nhất là răng và xương heo đã được chôn tại Durrington Walls. Qua nghiên cứu tường tận họ đã chứng minh những súc vật bị giết vào hoặc tháng 12 hay tháng 1 hàng năm. Giáo Sư Mike Parker Pearson cũng phải xác nhận rằng không có chứng cớ người ngày xưa tu họp đông đảo tại Stonehenge trong mùa hè. Sự sắp trục đường thẳng của Stonehenge Từ điểm gần đá Gót chân nằm trục của Stonehenge. Trục này chạy từ đông-bắc đến tây-nam bắt đầu từ đầu Đại lộ qua suốt xuống cửa vào. Những khai quật gần đây cho thấy một phần của Đại lộ chỉ là một quang cảnh tình cờ không phải dự tính mà làm thành. Và trục đường thẳng của Stone henge đã đi từ giữa Đại lộ qua cửa mở củahai vành móng ngựa cự thạnh, đá xanh đến đá Tế đàn (Altar Stone) nằm ở chân của Đại Tam Đá (The Great Trilithon). Vì hướng của mặt trời di chuyển trên trời trong năm, mặt trời lặn vào đông chí, ngày ngắn nhất của một năm, xảy ra đối diện một cách chính xác với chân trời từ ngày mặt trời mọc giữa mùa hè. Khi quan sát ngày đông chí (ngày 21 tháng 12), nếu đứng ở ngay cửa vào và đối mặt với trung điểm đá trong vòng đá Stonehenge, người ta đã thấy mặt trời lặn vào phần tây-nam của chân trời, ngay bên một cạnh đứng của Đại Tam Đá. Và vì là ngày ngắn nhất nên mặt trời lặn rất nhanh. Như thế Stonehenge, có phải chăng là Stonehenge đã được xây dựng để tôn niệm không phải ngày dài nhất mà là ngày ngắn nhất, chí điểm đắm sâu vào mùa đông? Tại sao lại tôn niệm ngày ngắn nhất? Một ngày quá ngắn khi mà mùa đông bắt đầu với thời gian làm việc ngắn hơn, thế giới chìm đắm trong đêm dài tịch mịch lâu hơn? Người viết những hàng chữ này cho rằng ngày đông chí là ngày người xưa đã tụ họp làm lễ ăn mừng mùa màng đã hoàn tất sau những tháng ngày vất vả làm việc cực nhọc, thức ăn đã được dự trữ đầy đủ để sửa soạn cho mùa đông, và như thế người dân có thể nghỉ ngơi, bớt làm việc và giảm bớt những sinh hoạt ngoài trời. Và vì ngày đông chí đối diện chính xác với ngày mặt trời mọc vào mùa hè nên trong vài thế kỷ qua, người ta đã chú ý đến ngày Hạ chí tại Stonehenge và đã quên mất ý nghĩa đích thực của ngày Đông chí? Kết luận Stonehenge trải qua bao nhiêu thế kỷ đến nay vẫn còn giữ những bí ẩn có lẽ không bao giờ người đời tìm được căn nguyên. Xin dành một chút cho riêng Stonehenge, … có được không? ■ Sóng Việt Đàm Giang Tác giả có dịp thăm Stonehenge, Wiltshire hai lần (03 March 2011 và 23 May 2013) nên ghi ở đây với hình ảnh đính kèm trong bài. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 76 ChuyŒn Nuôi Sò LÃy Ng†c David Lš Lãng Nhân Phi‰m ñàm “Trầm tư về một vấn đề nào đó thường thường sẽ mang đến cho ta một giải đáp, đôi khi một góc nhìn mới của sự vật, hay một tia sáng giúp chúng ta định hướng để tìm về chân lý trong sa mù đêm tối… Suy nghĩ hợp lý và có thứ tự, suy nghĩ nghiêm chỉnh, liên tục trong nhiều ngày, sẽ giúp ta nhìn thấy vấn đề tỏ rõ hơn và như thế ta sẽ có nhiều hy vọng tìm được giải đáp thích đáng hơn . Suy tư trầm tưởng do đó được nhiều hành giả xưa nay xem như một phương pháp tốt để ta phát huy trí năng…” Vị giãng sư lớpTriết học của chúng tôi năm xưa cũng không quên đề cập đến một trách vụ quan trọng trong công tác trầm tư; ông thích nhắc nhở lớp học mình câu nầy: “Quý vị đừng vội tin vào một điều gì nếu trí mình chưa hẳn công nhận là đúng, cho dù rằng điều đó đã được ghi chép trong sách, hoặc thốt ra bỡi một học giả hay một lãnh tụ lừng danh…” Nói thì dễ, làm khó. Hôm nọ tôi nghe anh bạn tôi kể chuyện nuôi ngoc trai ở biển Bình Định, Việt Nam, người ta đã thành công trong việc tạo ra hạt trai (pearl), tuy loại sò (trai) ở vùng biển ta chỉ sản xuất được những hạt trai cỡ nhỏ mà thôi. Thời gian trung bình là hai năm để cho con sò dùng “nước miếng” cùa nó biến viên sạn cấy vào mình nó thành hạt trai – nói vắn tắt cho nó dễ hiểu… Cũng vậy, suy nghĩ liên tục về một vấn đề để tìm một giải đáp thỏa đáng, đòi hỏi một thời gian “cấu thành”, lâu hay mau tùy sự phức tạp và sâu rộng của vấn đề và khả năng của hành giả.. Lời xưa có nói : “Lão bạng sinh châu”. Trong thế giới sinh động xô bồ quay cuồng siêu tốc của ngày nay, liệu phần đông quần chúng có dành đủ thời gian và kiên nhẫn cho sò kia nhả ngọc không? … Tôi vẫn tin rằng: tuy kiếp người giới hạn nhưng trong một môi trường thuận lợi cho sự tư duy hợp lý và đúng mức được phát huy, tư tưởng mới tốt luôn luôn sẽ hình thành và lấp lánh sáng đẹp như hạt ngọc trai được khổ luyện trong thân tâm con sò già vậy. ■ Madison, AL – February 2014 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 77 Tình Cá Nܧc David Lš Lãng Nhân Ti‰u Lâm Một hôm vị chức sắc nấy đi kinh lý bỗng nỗi hứng ứng khẩu thao thao bất tuyệt về đề tài rất ăn khách, về mối tình ngàn năm bất diệt: tình quân dân cá nước…Ông say sưa giãi thích, ví von: “Tình Quân Dân thắm thiết đậm đà khắng khích như Cá với Nước. Hễ Cá không có nước thì Cá …Chết! Mà Nước không có Cá…thi…cũng không sao hết!” ■ Madison, AL, February 2014 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 78 –c Sên và ThÜÖng ñao Tình (Snails and the Love Darts) Sóng ViŒt ñàm Giang biên soån Trong một chuyến du lịch thăm viếng Anh quốc và Ái Nhĩ Lan (Ireland) chúng tôi được nghỉ qua đêm tại vài lâu đài khách sạn cổ kính rất đẹp và thơ mộng cùng thăm viếng nhiều lâu đài cổ chỉ còn là di tích lịch sử. Một trong những địa điểm đó là di tích lâu đài nhỏ bé McCarthy Mor nằm ở mặt sau của Khách sạn The Lake ở Killarney, Ireland nhìn ra hồ và phía sau là sương mờ, là núi cao chập chùng tuyệt mỹ, cảnh đẹp như tranh. The Lake Hotel, Killarney Tàn tích lâu đài McCarthy Mor Lâu đài McCarthy Mor còn được gọi là Castlelough trên hồ Lough Leane (Killarney) do giòng họ nhà McCarthy chiếm hữu từ giòng họ nhà Roches vào năm 1262. Qua nhiều thế hệ, đến năm 1652 thì lâu đài bị quân lính của Cromwell đập phá trong trận chiến giữa Anh quốc với Ái Nhĩ Lan, rồi bị bỏ Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 79 hoang một thời gian. Lâu đài khởi thủy nằm trên một đảo nhỏ có cây cầu bắc vào đất liền. Cho đến đầu thế kỷ thứ 19 thì giòng họ Lalor mua lại đất vùng này và sau đó đổ đất nối liền lâu đài này với dinh thự mới xây cất của họ. Lâu đài dần dần qua tay nhiều chủ nhân khác nhau và được biến thành khách sạn từ những năm 1850s. Đến năm 1940, gia đình Huggard tại Waterville mua lại khách sạn này. Gia đình Huggard làm chủ nhiều khách sạn trên đất Ireland từ năm 1920 và khách sạn The Lake là một địa điểm rất có tiếng. Hoàng hậu Victoria đã tạm nghỉ ở khách sạn này vào năm 1861. Lâu đài đổ nát nhỏ bé McCarthy Mor mặc dù nằm trên đất của The Lake Hotel nhưng lại thuộc chủ quyền của quốc gia Ireland. Mọi người đều có thể đến thăm nếu đậu xe và đi theo bảng hướng dẫn để thăm viếng nơi này. Lâu đài hoang tàn tự nó không có gì đáng chú ý, nhưng cảnh chung quanh thì không thể không xuýt xoa chiêm ngưỡng. Buổi chiều đến nơi chúng tôi nhận phòng rồi đi vòng vòng ngắm cảnh chụp hình, rồi hẹn nhau sáng ra sẽ đi thăm mọi nơi kỹ hơn. Buổi sáng sớm hôm sau trời rất đẹp, đi bộ ra hồ và tìm góc cạnh đẹp để chụp hình, tình cờ người viết bắt gặp trên lối đi đôi ba chú ốc sên nhỏ xíu đang chậm chạp bò để lại sau đuôi những vết nhớt láng bóng. Không thấy chúng thì thôi, mà khi thấy rồi thì thấy nhiều khá nhiều sên đang bò khắp nơi, trên lối đi, trên tảng đá, trên vách đá, trên những cành hoa, v.v… Từ khách sạn The Lake nhìn ra. Ốc sên. Bờ cát ven hồ Những con ốc sên nhỏ bé thế mà thật đáng chú ý. Nó cứ ám ảnh và lãng đãng trong óc người viết mãi. Thôi thì viết một chút về nó vậy. Ốc sên vườn Bài viết ngắn này thu hẹp nói đến ốc sên vườn, tiến trình sinh sản và chu kỳ của loài ốc sên vườn mà không chú trọng đến phân loại. Ốc sên vườn thuộc lớp chân bụng, ngành thân mềm/nhuyễn thể, có phổi và là loài lưỡng phái trong cơ thể có cả bộ phận sinh dục đực và cái (ống dẫn tinh và noãn sào sản xuất trứng). Lớp chân bụng này được ước lượng có khoảng 60,000 đến 80,000 loại khác nhau. Ốc sên vườn là loại đuợc biết nhiều nhất trong lớp chân bụng. Ốc sên vườn nói đến trong bài viết này là loài ốc xoắn vòng ngắn “lùn” như helix aspersa, helix lucorum, helix pomatia, helicella itala, thuộc gia đình Helicidae mà không phải là loài ốc xoắn dài “cao” achatina. Ốc sên vườn hay ốc sên đất rất nhỏ kích thước cỡ từ đồng tiền 10 cents, 5 cents rồi lớn nhất nhỉnh hơn 25 cents của USA. Những hình đính kèm người viết chỉ nhận diện dựa theo những mô tả đã có về ốc sên. Hình phác họa nội tạng ốc sên vườn như dưới đây trên Wikipedia cho thấy: Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 80 1: vỏ; 2: gan; 3: phổi; 4: hậu môn; 5: hô hấp; 6 & 7:tua nhìn; 8: não hạch; 10: miệng; 11: thực quản; 13: lỗ đường sinh dục gần đầu; 14: vùng sinh dục đực; 15: vùng sinh dục cái với ống noãn; 20: dạ dày; 23: tim; Vỏ ốc sên có màu từ vàng nhạt đến nâu sậm, và nhìn màu cùng những vân, vạch trên vỏ mà người ta phân loại ra làm nhiều loại khác nhau, thí dụ vàng nhạt vằn ngang xoay dọc theo vằn vỏ ốc là helix lucorum, mầu nâu nhạt có sọc thẳng đứng mầu đậm hơn là helix aspersa, và sọc liền liền mầu nâu đậm là helix pomatia. Riêng loại helicella itala vỏ màu trắng có vằn đen. Helix aspersa Helix pomatia Helix lucorum Helicella itala Helix pomatia (hình Internet) Achatina fulica/ốc sên hoa Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 81 Ốc sên có hai cặp râu/tua nhìn như những cái sừng nhỏ, một cặp mắt (thị giác) nằm ở trên đỉnh tua dài. Cặp râu ngắn để ngửi và tiếp xúc (khứu giác và xúc giác). Miệng ốc sên có thể giãn rộng theo hình ống, trong phần miệng có nhiều răng nhọn dùng để cạp và cạo lá cây hay thức ăn. Khi hai ốc sên gặp nhau, dọ dẫm, và ưng ý thì chúng bò bò chung quanh nhau để tìm một vị trí thích hợp nhất để rồi bắn đao thương tình và rồi sẽ dính chặt với nhau một cách lạ kỳ. Nhìn hình hai con sên quấn quýt nhau và không rời nhau sau cả sáu bẩy tiếng đồng hồ, người ta đã tự hỏi về đời sống sinh lý của loài ốc sên này. Nhờ những khoa học gia trong ngành nghiên cứu và nhất là ông Ronald Chase một nhà khoa học thuộc đại học McGill tại Montreal mà chúng ta đã biết thêm được nhiều bí ẩn của loài ốc sên. Những con ốc sên này có lưỡng phái nhưng một ốc sên không thể tự thụ tinh để đẻ trứng được mà phải trải qua một cuộc giao phối di thể với một con sên khác để hoàn tất quá trình thụ tinh. Và sự trao đổi này đã có liên hệ đến mũi thương đao tình giữa hai sinh vật. Mũi đao này được mệnh danh là mũi đao tình đau thương ví von tựa như mũi tên tình yêu do thần Cupid phóng ra. Khi đao tình đã phóng dù trúng hay không trúng đối tượng, hai sên vẫn liên hệ với nhau qua đường sinh dục và trao đổi tinh trùng trong một thời gian có thể dài đến hơn sáu giờ. Khoa học gia giải thích chất nhớt thải ra từ đao tình giúp cho ống dẫn trứng của sên phóng đao ra co bóp mạnh hơn kết quả làm tăng đáng kể số tinh trùng xâm nhập và gây thụ thai nhiều trứng hơn. Sau khi dò dẫm, tìm hiểu, hai sên sẽ bắn đao tình và tiến triển việc trao đổi tinh trùng. Hình đính kèm cho thấy đao thương vẫn còn nguyên, chưa gẫy nên có thể đao thương chỉ giúp cho con sên bắn ra có chất kích thích tố cần thiết để giúp giữ lại nhiều tinh trùng mới thu nhận hơn. Nơi đao thương đã gẫy sẽ dần dần được mọc lại và tiến trình sinh lý lại tiếp diễn. Đao thương ốc sên vườn có dạng một cái dáo bốn cạnh, rỗng có mũi nhọn và làm bằng calcium carbonate. PubMed/Medline. Tissue Cell:1979;11(1):51-61.The structure and compositon of the love dart (gypsobelum) in Helix pomatia. Cũng có loài ốc sên có đao thương làm bằng chất chitin hay một chất khác. Cục trắng bên phải là cửa trao đổi tinh trùng Đao thương trắng nhọn màu trắng bên trái Lúc bình thường khi cầm sên lên hay đụng vào thân mềm của sên thì sên sẽ tự co rút thân vào trong vỏ ốc. Nhưng khi hai con ốc sên đang dính vào nhau thì dù có bị nhắc lên hay đụng vào chúng vẫn không rời nhau. Khác với hầu hết những sinh vật khác, vị trí của cửa bộ phận sinh dục nằm bên phải gần tua ở đầu sên nên khi xáp dính nhau chúng hoặc phải ngoẹo đầu hay giữ vị trí dính bên phải với nhau. Sau một thời gian dài từ vài tiếng đến hơn sáu tiếng xáp dính chặt, ốc sên rời nhau ra rất mệt mỏi và sẽ Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 82 rút vào vỏ nghỉ ngơi cả ngày. Cỡ 4 tuần sau, cả hai sên đều đẻ trứng, trứng màu trắng nhỏ cỡ 4 mm, một lứa có chừng 60-80 trứng. Một năm sên có thể sản xuất từ 4 đến 6 lần. Trứng nở sau 3-4 tuần có thể tự kiếm ăn ngay và trưởng thành cỡ sau một năm. Sên được biết như hiện diện khắp nơi trên địa cầu, lúc khí hậu thuận tiện thì sên bò ra ăn trái cây, hoa lá; lúc khí hậu khô hay lạnh sên rút vào trong vỏ và gắn chặt vỏ với một lớp màng nhày đóng khô gọi là epiphram, lớp này giúp sên giữ được ẩm ướt trong cơ thể. Thời kỳ yên tĩnh này là thời kỳ ngủ mùa hè (aestivation) và ngủ mùa động (hibernation). Trong giấc ngủ mùa đông, ốc sên ngừa được hàn đông đá do thay đổi độ thẩm áp trong máu đến mức có thể chịu được hàn độ thấp đến -5 độ C. Trong thời kỳ ngủ mùa hè, lớp nhuyến mạc ở mai ốc có khả năng thay đổi độ ẩm ướt và qua cơ chế điều hòa thẩm thấu giúp cho ốc có thể sống trong nhiều tháng. Ốc sên cũng có khả năng nhịn đói rất lâu. Tài liệu cho biết chúng có thể còn sống đến 4 năm liền không ăn. Đời sống của ốc sên nói chung có thể kéo dài cỡ từ 3 đến 10 năm. Sự hiện diện của ốc sên trong Đông y, thực phẩm, mỹ phẩm và văn hóa nghệ thuật. Về mặt y học, theo tài liệu, ốc sên đã được xử dụng làm thuốc trong Đông y với tính vị mặn, hàn, bổ dưỡng, thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng và chống co thắt. Theo sách Nam dược thần hiệu, để chữa mụn lở ở da mặt, có thể dùng ốc sên giã nát, chế thêm chút nước, phết lên giấy, chừa một lỗ nhỏ ở giữa, đắp lên chỗ bị tổn thương. Theo Trung dược đại từ điển, ốc sên có công dụng thanh nhiệt, tiêu thũng, giải độc, chữa các chứng bệnh như phong nhiệt, co giật do sốt cao, tiêu khát do tiểu đường, viêm họng, quai bị, ung thũng nhọt độc, trĩ viêm loét, sa trực tràng, vết thương do côn trùng cắn đốt... Về mặt thực phẩm, ở Pháp, từ lâu đời, người ta đã nuôi ốc sên thành trại quy mô để chế biến thịt ốc sên thành một món ăn khoái vị. Ốc sên cho món Escargot này là loài ốc sên “lùn” helix pomatia, khác với loài ốc sên hoa “cao” (achatina fulica) là loài ốc thịt lớn và vỏ ốc dài, nhiều vòng xoắn hơn. Ngoài món ốc sên escargot, hiện nay còn có cả trứng ốc sên (caviar d’escargot). Món trứng ốc sên này do nhà nuôi sên người Pháp Dominique Pierru tung ra thị trường vào năm 2004 với sản phẩm mang nhãn hiệu cầu chứng tên De Jaeger. Link xem nếu chú ý: http://www.youtube.com/watch?v=7D0WmO2yXVA http://www.youtube.com/watch?v=AGv56trMOAY Món ốc sên (Paris) Trứng ốc sên (D.Pierru) Thẩm mỹ liệu pháp ốc sên Về mặt mỹ phẩm, nhớt của ốc sên được cho là có khả năng chống lão hóa đối với da người, và một số mỹ phẩm cho da được bán trên thị trường hiện nay có chứa chiết xuất từ chất nhầy của ốc sên. Gần đây tại các trung tâm làm đẹp của nhiều nước trên thế giới như Nga, Tây Ban Nha, Nhật bản, v.v.. người ta dùng ốc sên sống đặt trên da mặt người để chất nhầy mang hiệu nghiệm trực tiếp đến cho làn Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 83 da. Họ gọi đó là liệu pháp ốc sên. Mong rằng những chú ốc sên này đã được nuôi dưỡng trong môi trường sạch để có chất nhầy tốt không mang bệnh tật đến cho người muốn làm đẹp. Trong văn chương nghệ thuật đã có bài thơ “Bài hát ốc sên đi đưa đám tang” (Chanson des Escargots qui vont à l’enterrement) của Jacques Prevert, và có bức vẽ “Con Cò và con Ốc sên” (Le héron et l’escargot) của Edouard Rischgitz miêu tả chuyện thơ ngụ ngôn Con Cò của Lafontaine nằm tại Bảo Tàng Anh quốc. Cả hai bài thơ đều có ý nghĩa rất hay. Tóm lại, ốc sên, một sinh vật tầm thường ở vườn sau mà đã có cả một lịch sử tiến hóa từ thời tối cổ cho đến hiện tại và vẫn còn đang được khai thác. Nếu chú ý đến thiên nhiên thì trái đất có thiên hình vạn trạng sinh vật để ngạc nhiên và tìm hiểu. ■ Sóng Việt Đàm Giang Mùa Xuân năm 2014 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Les Fables de La Fontaine Le loup et l'agneau La raison du plus fort est toujours la meilleure: Nous l'allons montrer tout à l'heure. Un Agneau se désaltérait Dans le courant d'une onde pure. Un loup survient à jeun, qui cherchait aventure, Et que la faim en ces lieux attirait. «Qui te rend si hardi de troubler mon breuvage? Dit cet animal plein de rage: Tu seras châtié de ta témérité. —Sire, répond l'agneau, que Votre Majesté Ne se mette pas en colère; Mais plutôt qu'elle considère Que je me vas désaltérant Dans le courant, Plus de vingt pas au-dessous d'Elle; Et que par conséquent, en aucune façon Je ne puis troubler sa boisson. —Tu la troubles, reprit cette bête cruelle; Et je sais que de moi tu médis l'an passé. —Comment l'aurais-je fait si je n'étais pas né? Reprit l'agneau; je tette encor ma mère —Si ce n'est toi, c'est donc ton frère. —Je n'en ai point.—C'est donc l'un des tiens; Car vous ne m'épargnez guère, Vous, vos bergers et vos chiens. On me l'a dit: il faut que je me venge.» Là-dessus, au fond des forêts Le loup l'emporte et puis le mange Sans autre forme de procès. ■ The Wolf and the Lamb Translated by Thomas D. Le The reason of the stronger is always the best; This will be shown momentarily. A lamb was quenching his thirst In a current of pure water. A fasting wolf came on the scene looking for adventure Driven hither by great hunger. “What gives you the gall to disturb my drink?” Said the animal full of rage. 84 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 You'll be punished for your temerity. – Sire, replies the lamb, let Your Majesty not feel anger, and instead consider That I allay my thirst In the current More than twenty steps below Her, And therfore, in no way do I disturb Her drink. – But you do, the cruel beast retorts. And I know how you slandered me last year. – How could I have done that if I had not been born? Replies the lamb, my mom's still suckling me. – If it wasn't you, then it was your brother. – I have none of them. –- It was one of yours; For your folks never spare me, You, your shepherd, your dogs. As I've been told, I must get my revenge.” Whereupon, in the thick of the forest, The wolf jumps on his prey, and devours him Without further ado. ■ T.D.L., Trans. 28 March 2014 85 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 86 M¶t Loài Hoa Mang Tên SÜa Sóng ViŒt ñàm Giang Vào thời gian chuyển mùa vào tháng ba có nhiều loại cây đang trơ trụi cành, chưa có một nụ hoa hay lá xanh nho nhỏ bỗng một ngày toàn cây có hoa nở rộ hoặc trắng muốt hoặc hồng đỏ. Ở nhiều bang trên đất Mỹ, hoa redbud (họ Fabaceae) trắng hay hồng đỏ bắt đầu nở từng chùm. Loài redbud này có thể mang nhiều tên Việt khác nhau, đã được gọi là cây hoa hồng đào miền Đông (Cercis Canadensis), hồng đào miền Tây (Cercis occidentalis), và một loại ở Âu châu và vùng tây nam Á châu mang tên là cây hoa Judas (Cercis siliquastrum). Cây hoa redbud mang tên Judas đã được cho rằng vì đó là cây mà Judas Iscariot đã treo cổ tự tử sau khi phản bội Chúa, nhưng cũng có thể đơn thuần là cây này có rất nhiều ở bộ lạc Judea/Judah, Israel từ ngày xưa. Riêng ở Việt Nam, nhất là trên miền Bắc, có một loài cây có hoa trắng nho nhỏ nở rộ trong những ngày đầu tháng ba, hoa nở trước khi ra lá. Đó là cây hoa Sưa. Có lẽ hoa Sưa tại miền Bắc và đặc biệt là tại Hà nội trước đây ít người chú ý ngoài những người thích xem hoa, chụp hình và ngắm cảnh. Nhưng trong vòng gần mười năm trở lại, sau khi rất nhiều cây sưa ở nhiều thành phố kể cà Hà Nội bị chặt trộm thì người ta mới chú ý đến cây hoa sưa này nhiều hơn. Cây Sưa Sưa là tên gọi chung của ít nhất là hai loại sưa: sưa trắng và sưa có lõi đỏ. Loại sưa lõi đỏ là loại sưa mà gỗ trong ruột cây có mầu nâu đỏ và được sắp loại vào loại cây có gỗ hiếm quý được dùng để đóng bàn ghế, làm đồ trang sức và nhiều công dụng khác. Và loại này là loại mà những kẻ gian manh tâm chặt. Với những kẻ tinh mắt thì biết được cây nào là cây sưa trắng hay sưa có lõi đỏ, nhưng những kẻ không có kinh nghiệm thì đã có trường hợp cây chặt/cưa đổ xuống thì không có lõi đỏ nên họ bỏ đi, vứt cây nằm ngổng ngang trên đường phố. Đưới đây là hình ảnh một số cây sưa đỏ bị chặt/cưa trộm tại Hà nội và một vài tỉnh Bắc phần, kẻ gian lấy mất phần thân chính có lõi đỏ, có cây bị thẻo, vạt cả mảng. Bùi ngùi giận kẻ ham tiền bạc Lòng tham vô đáy chặt rụng cây Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 87 Phân biệt Sưa trắng và Sưa (lõi) đỏ Vì tên Việt gọi cây không đồng nhất nên khi nói đến cây hoa thì tốt nhất là kèm theo tên khoa học/tên latin của cây. Những cây có tên khoa học là những cây có tên trong danh sách thực vật của Vườn Thảo mộc Hoàng gia Anh, phần cuối của mỗi loài thường là tên người đã tìm ra và đặt tên cho cây. Thí dụ Millettia ichtyochtona Drake thì Drake là tên của Emmanuella Drake del Castillo (1855-1904) nhà thảo mộc đã tả rõ và ghi lại trong sách Thảo mộc loài cây này. Cây sưa trắng. Sưa trắng thuộc chi Thàn mát (Millettia) họ Cánh bướm/Đậu (Papilionaceae/Fabaceae), có hoa trắng đẹp thường được gọi là cây thàn mát. Thàn mát sưa trắng còn được gọi là cây duốc cá, thuốc cá với tên khoa học là Millettia ichtyochtona Drake (ichtyo bắt nguồn từ chữ Hy lạp ikhthus/fish). Và vì chất rotenon, sapotoxin trong hạt của cây có thể làm cá say thuốc ngộ độc nên cây này được mang tên cây duốc cá. Ngoài ra cây còn mang nhiều tên khác như mác bát, hột mát, thãn mút (Theo sách Những Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi). Cây thàn mát là một loài cây gỗ nhỏ, cao khoảng 10-15m . Thân cây có vỏ nhẵn, mỏng, màu nâu Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 88 nhạt. Cành nhánh dài, mềm mại, khi non có nhiều vảy nhỏ màu trắng. Lá kép lông chim mọc đối, hình xoan đỉnh nhọn. Lá rụng hết vào mùa đông, ra hoa vào mùa xuân, ở những cây non, cây vừa nảy lộc vừa đơm hoa, nhưng ở những cây trưởng thành, sau khi ra hoa mới ra lá nên cho cây mang một màu trắng toát lúc có hoa. Hoa mọc thành hoa tự ở nách lá, dày đặc, màu trắng, kiểu hoa đậu. Quả dạng đậu, thuôn nhọn đầu, dẹt giống như con dao mã tấu lưỡi rộng; trong quả chứa một hạt. Vì hoa trắng cây sưa đẹp nên đã được trồng để làm đẹp và tạo bóng mát ở Hà nội. Cây có trồng nhiều ở miền Bắc, thích hợp nơi đất ẩm ven sông, vì hạt phát tán theo giòng nước nên có thể tìm thấy ở ven bờ sông các vùng đồng bằng. Sưa trắng thàn mát có thân nhẵn nâu nhạt, lá kép lông chịm mọc đối, hoa trắng từng chùm, quả đơn, dạng đậu. Sưa đỏ (Sưa Bắc bộ, sưa Trắc thối) Sưa đỏ có nhiều tên khác nhau như sưa Bắc bộ, trắc thối, huê mộc vàng, tên khoa học là Dalbergia tonkinensis Prain, thân gỗ, họ Đậu Fabaceae. Darlbergia là chi Trắc (hay chi Sưa, chi Cẩm lai), tonkinensis là tên đặt theo vùng (Bắc bộ), Prain (1857-1944) là tên nhà thảo mộc đã ghi chép lại cây hoa khi nhận biết nó và ghi lại vào trong sách lần đầu tiên. Điểm đáng chú ý là cùng một chi nhưng có ba tên gọi khác nhau tùy theo vùng. Cây trắc này mang tên là Trắc Nam bộ hay Cẩm lai (Dalbergia cochinchinensis Pierre) ở trong Nam, và Trắc Trung bộ (Dalbergia annamensis) và Sưa đỏ hay Trắc Bắc bộ (Dalbergia tonkinensis Prain). Hoa nhỏ giống cánh bướm họ Papilionaceae (Papilionaceae/Fabaceae). Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 89 Sưa đỏ thân nâu sù xì, lá kép lông chim mọc so le, hoa trắng chùm nhỏ, quả kết chùm Là cây gỗ cỡ trung bình vỏ màu xám nhạt, lá thường xanh có thể cao tới 10–15 m, thân màu vàng nâu hay xám, nứt dọc. Lá dài 9–20 cm; số lá chét 5-9, lá kép lông chim mọc cách/so le với lá chét tận cùng thường là to nhất, hình trứng hay hơi thuôn dài, nhẵn, có lông mịn lơ thơ khi non, nhanh chóng chuyển thành không lông, gốc lá chét tròn, nhọn mũi. Hoa tự dạng chùy, mọc ở nách lá, khoảng 5–15 cm. Hoa trắng có đài hợp, thơm. Quả dạng quả đậu hình trứng dẹt thuôn dài, dài 5–6 cm, rộng khoảng 1 cm và chứa 1-2 hạt dạng bầu dục. Quả thường cả chùm, khi chín không tự nứt. Hoa ra tháng 2-4. Trái từ tháng 9 đến 11. Gỗ trắc cho mùi thơm thoảng như hương trầm, Phần lõi/ruột gỗ trắc này màu đỏ hơi nâu, thớ chéo, mạch vòng, thuộc loại gỗ nặng, bền và quý đẹp. Gỗ này dùng trong đóng đồ dùng trong nhà hay vật dụng trang hoàng. Thời trước gỗ này đặc biệt dùng để đóng đồ nội thất trong cung đình. Gỗ khi đốt có mùi khó ngửi nên đã được gọi là trắc thối. Phân biệt sưa trắng (Thàn mát) với sưa lõi đỏ (Trắc thối) Sưa trắng Tên khoa học. Chi Millettia Sưa trắng mang tên thàn mát, mác bát, hột mát, duốc cá, thãn mút. Tên khoa học Millettia ichtyohtona Drake. Họ Cánh bướm/ Đậu (Papilionaceae/Fabaceae). Thân sưa trắng màu nâu nhạt, nhẵn Lá sưa trắng lông chim, mọc đối xứng Hoa chùm, từng bông cỡ hơn 11.5 cm Quả đơn to bản. Đốt không mùi Thân Lá Hoa Quả Sưa đỏ Chi Dalbergia Sưa đỏ mang tên Trắc thối, trắc bắc bộ, huỳnh đàn lõi đỏ, Trắc/cẩm lai Trung bộ hay Trắc/cẩm lai Nam bộ. Tên khoa học có thể là Dalbergia tonkinensis Prain (trắc Bắc bộ), Dalbergia annamensis (cẩm lai Trung bộ), Dalbergia cochinchinensis Pierre (cẩm lai Nam bộ) hay Dalbergia boniana Gagnep. Cánh bướm/ Đậu (Papilionaceae/Fabaceae). Thân sưa đỏ sần sùi, xù xì nứt nẻ Lá sưa đỏ lông chim, mọc so le Hoa chùm nhỏ hơn hoa sưa trắng Quả chùm nhỏ hơn, đốt có mùi khó ngửi Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Sưa Trắng (Thàn Mát) Trắng muốt hoa sưa đẹp tựa tranh Tưng bừng nở rộ khắp Hà thành Đường xưa gốc nhỏ chồi vừa nhú Phố cũ cây già ngọn chớm xanh Lá đối quả to thân nhẵn nhụi Hoa chùm cánh nhỏ cọng thanh thanh Than thầm hoa đẹp mau tàn thế Chẳng khỏi nao lòng phận mỏng manh Đàm Giang Sưa Đỏ (Trắc Thối) Trắc thối huỳnh đàn họ Đậu đây Loài sưa Bắc bộ chính tên này Hoa chùm xúm xít đầu cành hiện Lá cách so le mởn xanh bày Khả ái già cao cùng sát cánh Khiêm nhường nhỏ thấp cũng chen vai Hà thành bát ngát đầy hoa trắng Có được dăm ngày rụng hết ngay. ■ Đàm Giang Sóng Việt Đàm Giang 01 March 2014 Ghi chú. Bài viết Cây Sưa, Hoa Sưa, Gỗ Sưa. Sóng Việt Đàm Giang tại link: http://thehuuvandan.org/firmamentapril2009.pdf (trang 169-175) Tài liệu và hình ảnh thu thập trên internet từ Wikipedia và nhiều trang nhà khác nhau. 90 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 http://www.gutenberg.org/files/7700/7700-h/7700-h.htm Public domain work published by Project Gutenberg. LYSISTRATA Translated from the Greek of ARISTOPHANES LYSISTRATA (Continued and end) OLD MEN. All men who call your loins your own, awake at last, arise And strip to stand in readiness. For as it seems to me Some more perilous offensive in their heads they now devise. I'm sure a Tyranny Like that of Hippias In this I detect.... They mean to put us under Themselves I suspect, And that Laconians assembling At Cleisthenes' house have played A trick-of-war and provoked them Madly to raid The Treasury, in which term I include The Pay for my food. For is it not preposterous They should talk this way to us On a subject such as battle! And, women as they are, about bronze bucklers dare prattle-- 91 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Make alliance with the Spartans--people I for one Like very hungry wolves would always most sincere shun.... Some dirty game is up their sleeve, I believe. A Tyranny, no doubt... but they won't catch me, that know. Henceforth on my guard I'll go, A sword with myrtle-branches wreathed for ever in my hand, And under arms in the Public Place I'll take my watchful stand, Shoulder to shoulder with Aristogeiton. Now my staff I'll draw And start at once by knocking that shocking Hag upon the jaw. WOMEN. Your own mother will not know you when you get back to the town. But first, my friends and allies, let us lay these garments down, And all ye fellow-citizens, hark to me while I tell What will aid Athens well. Just as is right, for I Have been a sharer In all the lavish splendour Of the proud city. I bore the holy vessels At seven, then I pounded barley At the age of ten, And clad in yellow robes, Soon after this, I was Little Bear to Brauronian Artemis; Then neckletted with figs, Grown tall and pretty, I was a Basket-bearer, And so it's obvious I should Give you advice that I think good, The very best I can. It should not prejudice my voice that I'm not born a man, If I say something advantageous to the present situation. For I'm taxed too, and as a toll provide men for the nation While, miserable greybeards, you, 92 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 It is true, Contribute nothing of any importance whatever to our needs; But the treasure raised against the Medes You've squandered, and do nothing in return, save that you make Our lives and persons hazardous by some imbecile mistakes What can you answer? Now be careful, don't arouse my spite, Or with my slipper I'll take you napping, faces slapping Left and right. MEN. What villainies they contrive! Come, let vengeance fall, You that below the waist are still alive, Off with your tunics at my call-Naked, all. For a man must strip to battle like a man. No quaking, brave steps taking, careless what's ahead, white shoed, in the nude, onward bold, All ye who garrisoned Leipsidrion of old.... Let each one wag As youthfully as he can, And if he has the cause at heart Rise at least a span. We must take a stand and keep to it, For if we yield the smallest bit To their importunity. Then nowhere from their inroads will be left to us immunity. But they'll be building ships and soon their navies will attack us, As Artemisia did, and seek to fight us and to sack us. And if they mount, the Knights they'll rob Of a job, For everyone knows how talented they all are in the saddle, Having long practised how to straddle; No matter how they're jogged there up and down, they're never thrown. Then think of Myron's painting, and each horse-backed Amazon In combat hand-to-hand with men.... Come, on these women fall, And in pierced wood-collars let's stick quick The necks of one and all. 93 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 WOMEN. Don't cross me or I'll loose The Beast that's kennelled here.... And soon you will be howling for a truce, Howling out with fear. But my dear, Strip also, that women may battle unhindered.... But you, you'll be too sore to eat garlic more, or one black bean, I really mean, so great's my spleen, to kick you black and blue With these my dangerous legs. I'll hatch the lot of you, If my rage you dash on, The way the relentless Beetle Hatched the Eagle's eggs. Scornfully aside I set Every silly old-man threat While Lampito's with me. Or dear Ismenia, the noble Theban girl. Then let decree Be hotly piled upon decree; in vain will be your labours, You futile rogue abominated by your suffering neighbour To Hecate's feast I yesterday went. Off I sent To our neighbours in Boeotia, asking as a gift to me For them to pack immediately That darling dainty thing ... a good fat eel [1] I meant of course; [Footnote 1:Vide supra, p. 23.] But they refused because some idiotic old decree's in force. O this strange passion for decrees nothing on earth can check, Till someone puts a foot out tripping you, and slipping you Break your neck. LYSISTRATA enters in dismay. WOMEN Dear Mistress of our martial enterprise, Why do you come with sorrow in your eyes? 94 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 LYSISTRATA O 'tis our naughty femininity, So weak in one spot, that hath saddened me. WOMEN What's this? Please speak. LYSISTRATA Poor women, O so weak! WOMEN What can it be? Surely your friends may know. LYSISTRATA Yea, I must speak it though it hurt me so. WOMEN Speak; can we help? Don't stand there mute in need. LYSISTRATA I'll blurt it out then--our women's army's mutinied. WOMEN O Zeus! LYSISTRATA What use is Zeus to our anatomy? Here is the gaping calamity I meant: I cannot shut their ravenous appetites A moment more now. They are all deserting. The first I caught was sidling through the postern Close by the Cave of Pan: the next hoisting herself 95 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 With rope and pulley down: a third on the point Of slipping past: while a fourth malcontent, seated For instant flight to visit Orsilochus On bird-back, I dragged off by the hair in time.... They are all snatching excuses to sneak home. Look, there goes one.... Hey, what's the hurry? 1ST WOMAN I must get home. I've some Milesian wool Packed wasting away, and moths are pushing through it. LYSISTRATA Fine moths indeed, I know. Get back within. 1ST WOMAN By the Goddesses, I'll return instantly. I only want to stretch it on my bed. LYSISTRATA You shall stretch nothing and go nowhere either. 1ST WOMAN Must I never use my wool then? LYSISTRATA If needs be. 2ND WOMAN How unfortunate I am! O my poor flax! It's left at home unstript. LYSISTRATA So here's another 96 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 That wishes to go home and strip her flax. Inside again! 2ND WOMAN No, by the Goddess of Light, I'll be back as soon as I have flayed it properly. LYSISTRATA You'll not flay anything. For if you begin There'll not be one here but has a patch to be flayed. 3RD WOMAN O holy Eilithyia, stay this birth Till I have left the precincts of the place! LYSISTRATA What nonsense is this? 3RD WOMAN I'll drop it any minute. LYSISTRATA Yesterday you weren't with child. 3RD WOMAN But I am today. O let me find a midwife, Lysistrata. O quickly! LYSISTRATA Now what story is this you tell? What is this hard lump here? 97 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 3RD WOMAN It's a male child. LYSISTRATA By Aphrodite, it isn't. Your belly's hollow, And it has the feel of metal.... Well, I soon can see. You hussy, it's Athene's sacred helm, And you said you were with child. 3RD WOMAN And so I am. LYSISTRATA Then why the helm? 3RD WOMAN So if the throes should take me Still in these grounds I could use it like a dove As a laying-nest in which to drop the child. LYSISTRATA More pretexts! You can't hide your clear intent, And anyway why not wait till the tenth day Meditating a brazen name for your brass brat? WOMAN And I can't sleep a wink. My nerve is gone Since I saw that snake-sentinel of the shrine. WOMAN And all those dreadful owls with their weird hooting! Though I'm wearied out, I can't close an eye. 98 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 LYSISTRATA You wicked women, cease from juggling lies. You want your men. But what of them as well? They toss as sleepless in the lonely night, I'm sure of it. Hold out awhile, hold out, But persevere a teeny-weeny longer. An oracle has promised Victory If we don't wrangle. Would you hear the words? WOMEN Yes, yes, what is it? LYSISTRATA Silence then, you chatterboxes. Here-Whenas the swallows flocking in one place from the hoopoes Deny themselves love's gambols any more, All woes shall then have ending and great Zeus the Thunderer Shall put above what was below before. WOMEN Will the men then always be kept under us? LYSISTRATA But if the swallows squabble among themselves and fly away Out of the temple, refusing to agree, Then The Most Wanton Birds in all the World They shall be named for ever. That's his decree. WOMAN It's obvious what it means. LYSISTRATA Now by all the gods We must let no agony deter from duty, Back to your quarters. For we are base indeed, My friends, if we betray the oracle. 99 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 She goes out. OLD MEN. I'd like to remind you of a fable they used to employ, When I was a little boy: How once through fear of the marriage-bed a young man, Melanion by name, to the wilderness ran, And there on the hills he dwelt. For hares he wove a net Which with his dog he set-Most likely he's there yet. For he never came back home, so great was the fear he felt. I loathe the sex as much as he, And therefore I no less shall be As chaste as was Melanion. MAN Grann'am, do you much mind men? WOMAN Onions you won't need, to cry. MAN From my foot you shan't escape. WOMAN What thick forests I espy. MEN So much Myronides' fierce beard And thundering black back were feared, That the foe fled when they were shown-Brave he as Phormion. WOMEN. 100 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Well, I'll relate a rival fable just to show to you A different point of view: There was a rough-hewn fellow, Timon, with a face That glowered as through a thorn-bush in a wild, bleak place. He too decided on flight, This very Furies' son, All the world's ways to shun And hide from everyone, Spitting out curses on all knavish men to left and right. But though he reared this hate for men, He loved the women even then, And never thought them enemies. WOMAN O your jaw I'd like to break. MAN That I fear do you suppose? WOMAN Learn what kicks my legs can make. MAN Raise them up, and you'll expose-WOMAN Nay, you'll see there, I engage, All is well kept despite my age, And tended smooth enough to slip From any adversary's grip. LYSISTRATA appears. LYSISTRATA 101 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Hollo there, hasten hither to me Skip fast along. WOMAN What is this? Why the noise? LYSISTRATA A man, a man! I spy a frenzied man! He carries Love upon him like a staff. O Lady of Cyprus, and Cythera, and Paphos, I beseech you, keep our minds and hands to the oath. WOMAN Where is he, whoever he is? LYSISTRATA By the Temple of Chloe. WOMAN Yes, now I see him, but who can he be? LYSISTRATA Look at him. Does anyone recognise his face? MYRRHINE I do. He is my husband, Cinesias. LYSISTRATA You know how to work. Play with him, lead him on, Seduce him to the cozening-point--kiss him, kiss him, Then slip your mouth aside just as he's sure of it, Ungirdle every caress his mouth feels at Save that the oath upon the bowl has locked. 102 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MYRRHINE You can rely on me. LYSISTRATA I'll stay here to help In working up his ardor to its height Of vain magnificence.... The rest to their quarters. Enter CINESIAS. Who is this that stands within our lines? CINESIAS I. LYSISTRATA A man? CINESIAS Too much a man! LYSISTRATA Then be off at once. CINESIAS Who are you that thus eject me? LYSISTRATA Guard for the day. CINESIAS By all the gods, then call Myrrhine hither. 103 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 LYSISTRATA So, call Myrrhine hither! Who are you? CINESIAS I am her husband Cinesias, son of Anthros. LYSISTRATA Welcome, dear friend! That glorious name of yours Is quite familiar in our ranks. Your wife Continually has it in her mouth. She cannot touch an apple or an egg But she must say, "This to Cinesias!" CINESIAS O is that true? LYSISTRATA By Aphrodite, it is. If the conversation strikes on men, your wife Cuts in with, "All are boobies by Cinesias." CINESIAS Then call her here. LYSISTRATA And what am I to get? CINESIAS This, if you want it.... See, what I have here. But not to take away. LYSISTRATA Then I'll call her. 104 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 CINESIAS Be quick, be quick. All grace is wiped from life Since she went away. O sad, sad am I When there I enter on that loneliness, And wine is unvintaged of the sun's flavour. And food is tasteless. But I've put on weight. MYRRHINE (above) I love him O so much! but he won't have it. Don't call me down to him. CINESIAS Sweet little Myrrhine! What do you mean? Come here. MYRRHINE O no I won't. Why are you calling me? You don't want me. CINESIAS Not want you! with this week-old strength of love. MYRRHINE Farewell. CINESIAS Don't go, please don't go, Myrrhine. At least you'll hear our child. Call your mother, lad. CHILD Mummy ... mummy ... mummy! 105 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 CINESIAS There now, don't you feel pity for the child? He's not been fed or washed now for six days. MYRRHINE I certainly pity him with so heartless a father. CINESIAS Come down, my sweetest, come for the child's sake. MYRRHINE A trying life it is to be a mother! I suppose I'd better go. She comes down. CINESIAS How much younger she looks, How fresher and how prettier! Myrrhine, Lift up your lovely face, your disdainful face; And your ankle ... let your scorn step out its worst; It only rubs me to more ardor here. MYRRHINE (playing with the child) You're as innocent as he's iniquitous. Let me kiss you, honey-petting, mother's darling. CINESIAS How wrong to follow other women's counsel And let loose all these throbbing voids in yourself As well as in me. Don't you go throb-throb? MYRRHINE Take away your hands. 106 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 CINESIAS Everything in the house Is being ruined. MYRRHINE I don't care at all. CINESIAS The roosters are picking all your web to rags. Do you mind that? MYRRHINE Not I. CINESIAS What time we've wasted We might have drenched with Paphian laughter, flung On Aphrodite's Mysteries. O come here. MYRRHINE Not till a treaty finishes the war. CINESIAS If you must have it, then we'll get it done. MYRRHINE Do it and I'll come home. Till then I am bound. CINESIAS Well, can't your oath perhaps be got around? MYRRHINE 107 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 No ... no ... still I'll not say that I don't love you. CINESIAS You love me! Then dear girl, let me also love you. MYRRHINE You must be joking. The boy's looking on. CINESIAS Here, Manes, take the child home!... There, he's gone. There's nothing in the way now. Come to the point. MYRRHINE Here in the open! In plain sight? CINESIAS In Pan's cave. A splendid place. MYRRHINE Where shall I dress my hair again Before returning to the citadel? CINESIAS You can easily primp yourself in the Clepsydra. MYRRHINE But how can I break my oath? CINESIAS Leave that to me, I'll take all risk. 108 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MYRRHINE Well, I'll make you comfortable. CINESIAS Don't worry. I'd as soon lie on the grass. MYRRHINE No, by Apollo, in spite of all your faults I won't have you lying on the nasty earth. (From here MYRRHINE keeps on going off to fetch things.) CINESIAS Ah, how she loves me. MYRRHINE Rest there on the bench, While I arrange my clothes. O what a nuisance, I must find some cushions first. CINESIAS Why some cushions? Please don't get them! MYRRHINE What? The plain, hard wood? Never, by Artemis! That would be too vulgar. CINESIAS Open your arms! MYRRHINE No. Wait a second. 109 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 CINESIAS O.... Then hurry back again. MYRRHINE Here the cushions are. Lie down while I--O dear! But what a shame, You need more pillows. CINESIAS I don't want them, dear. MYRRHINE But I do. CINESIAS Thwarted affection mine, They treat you just like Heracles at a feast With cheats of dainties, O disappointing arms! MYRRHINE Raise up your head. CINESIAS There, that's everything at last. MYRRHINE Yes, all. CINESIAS Then run to my arms, you golden girl. 110 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MYRRHINE I'm loosening my girdle now. But you've not forgotten? You're not deceiving me about the Treaty? CINESIAS No, by my life, I'm not. MYRRHINE Why, you've no blanket. CINESIAS It's not the silly blanket's warmth but yours I want. MYRRHINE Never mind. You'll soon have both. I'll come straight back. CINESIAS The woman will choke me with her coverlets. MYRRHINE Get up a moment. CINESIAS I'm up high enough. MYRRHINE Would you like me to perfume you? CINESIAS By Apollo, no! 111 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MYRRHINE By Aphrodite, I'll do it anyway. CINESIAS Lord Zeus, may she soon use up all the myrrh. MYRRHINE Stretch out your hand. Take it and rub it in. CINESIAS Hmm, it's not as fragrant as might be; that is, Not before it's smeared. It doesn't smell of kisses. MYRRHINE How silly I am: I've brought you Rhodian scents. CINESIAS It's good enough, leave it, love. MYRRHINE You must be jesting. CINESIAS Plague rack the man who first compounded scent! MYRRHINE Here, take this flask. CINESIAS I've a far better one. Don't tease me, come here, and get nothing more. 112 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MYRRHINE I'm coming.... I'm just drawing off my shoes.... You're sure you will vote for Peace? CINESIAS I'll think about it. She runs off. I'm dead: the woman's worn me all away. She's gone and left me with an anguished pulse. MEN Baulked in your amorous delight How melancholy is your plight. With sympathy your case I view; For I am sure it's hard on you. What human being could sustain This unforeseen domestic strain, And not a single trace Of willing women in the place! CINESIAS O Zeus, what throbbing suffering! MEN She did it all, the harlot, she With her atrocious harlotry. WOMEN Nay, rather call her darling-sweet. MEN What, sweet? She's a rude, wicked thing. CINESIAS 113 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 A wicked thing, as I repeat. O Zeus, O Zeus, Canst Thou not suddenly let loose Some twirling hurricane to tear Her flapping up along the air And drop her, when she's whirled around, Here to the ground Neatly impaled upon the stake That's ready upright for her sake. He goes out. Enter SPARTAN HERALD. The MAGISTRATE comes forward. HERALD What here gabs the Senate an' the Prytanes? I've fetcht despatches for them. MAGISTRATE Are you a man Or a monstrosity? HERALD My scrimp-brained lad, I'm a herald, as ye see, who hae come frae Sparta Anent a Peace. MAGISTRATE Then why do you hide that lance That sticks out under your arms? HERALD. I've brought no lance. 114 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MAGISTRATE Then why do you turn aside and hold your cloak So far out from your body? Is your groin swollen With stress of travelling? HERALD By Castor, I'll swear The man is wud. MAGISTRATE Indeed, your cloak is wide, My rascal fellow. HERALD But I tell ye No! Enow o' fleering! MAGISTRATE Well, what is it then? HERALD It's my despatch cane. MAGISTRATE Of course--a Spartan cane! But speak right out. I know all this too well. Are new privations springing up in Sparta? HERALD Och, hard as could be: in lofty lusty columns Our allies stand united. We maun get Pellene. 115 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MAGISTRATE Whence has this evil come? Is it from Pan? HERALD No. Lampito first ran asklent, then the others Sprinted after her example, and blocked, the hizzies, Their wames unskaithed against our every fleech. MAGISTRATE What did you do? HERALD We are broken, and bent double, Limp like men carrying lanthorns in great winds About the city. They winna let us even Wi' lightest neif skim their primsie pretties Till we've concluded Peace-terms wi' a' Hellas. MAGISTRATE So the conspiracy is universal; This proves it. Then return to Sparta. Bid them Send envoys with full powers to treat of Peace; And I will urge the Senate here to choose Plenipotentiary ambassadors, As argument adducing this connection. HERALD I'm off. Your wisdom none could contravert. They retire. MEN There is no beast, no rush of fire, like woman so untamed. She calmly goes her way where even panthers would be shamed. 116 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 WOMEN And yet you are fool enough, it seems, to dare to war with me, When for your faithful ally you might win me easily. MEN Never could the hate I feel for womankind grow less. WOMEN Then have your will. But I'll take pity on your nakedness. For I can see just how ridiculous you look, and so Will help you with your tunic if close up I now may go. MEN Well, that, by Zeus, is no scoundrel-deed, I frankly will admit. I only took them off myself in a scoundrel raging-fit. WOMEN Now you look sensible, and that you're men no one could doubt. If you were but good friends again, I'd take the insect out That hurts your eye. MEN Is that what's wrong? That nasty bitie thing. Please squeeze it out, and show me what it is that makes this sting. It's been paining me a long while now. WOMEN Well I'll agree to that, Although you're most unmannerly. O what a giant gnat. Here, look! It comes from marshy Tricorysus, I can tell. MEN O thank you. It was digging out a veritable well. Now that it's gone, I can't hold back my tears. See how they fall. 117 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 WOMEN I'll wipe them off, bad as you are, and kiss you after all. MEN I won't be kissed. WOMEN O yes, you will. Your wishes do not matter. MEN O botheration take you all! How you cajole and flatter. A hell it is to live with you; to live without, a hell: How truly was that said. But come, these enmities let's quell. You stop from giving orders and I'll stop from doing wrong. So let's join ranks and seal our bargain with a choric song. CHORUS. Athenians, it's not our intention To sow political dissension By giving any scandal mention; But on the contrary to promote good feeling in the state By word and deed. We've had enough calamities of late. So let a man or woman but divulge They need a trifle, say, Two minas, three or four, I've purses here that bulge. There's only one condition made (Indulge my whim in this I pray)-When Peace is signed once more, On no account am I to be repaid. And I'm making preparation For a gay select collation With some youths of reputation. I've managed to produce some soup and they're slaughtering for me A sucking-pig: its flesh should taste as tender as could be. 118 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 I shall expect you at my house today. To the baths make an early visit, And bring your children along; Don't dawdle on the way. Ask no one; enter as if the place Was all your own--yours henceforth is it. If nothing chances wrong, The door will then be shut bang in your face. The SPARTAN AMBASSADORS approach. CHORUS Here come the Spartan envoys with long, worried beards. Hail, Spartans how do you fare? Did anything new arise? SPARTANS No need for a clutter o' words. Do ye see our condition? CHORUS The situation swells to greater tension. Something will explode soon. SPARTANS It's awfu' truly. But come, let us wi' the best speed we may Scribble a Peace. CHORUS I notice that our men Like wrestlers poised for contest, hold their clothes Out from their bellies. An athlete's malady! Since exercise alone can bring relief. ATHENIANS Can anyone tell us where Lysistrata is? 119 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 There is no need to describe our men's condition, It shows up plainly enough. CHORUS It's the same disease. Do you feel a jerking throbbing in the morning? ATHENIANS By Zeus, yes! In these straits, I'm racked all through. Unless Peace is soon declared, we shall be driven In the void of women to try Cleisthenes. CHORUS Be wise and cover those things with your tunics. Who knows what kind of person may perceive you? ATHENIANS By Zeus, you're right. SPARTANS By the Twa Goddesses, Indeed ye are. Let's put our tunics on. ATHENIANS Hail O my fellow-sufferers, hail Spartans. SPARTANS O hinnie darling, what a waefu' thing! If they had seen us wi' our lunging waddies! ATHENIANS Tell us then, Spartans, what has brought you here? 120 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 SPARTANS We come to treat o' Peace. ATHENIANS Well spoken there! And we the same. Let us callout Lysistrata Since she alone can settle the Peace-terms. SPARTANS Callout Lysistratus too if ye don't mind. CHORUS No indeed. She hears your voices and she comes. Enter LYSISTRATA Hail, Wonder of all women! Now you must be in turn Hard, shifting, clear, deceitful, noble, crafty, sweet, and stern. The foremost men of Hellas, smitten by your fascination, Have brought their tangled quarrels here for your sole arbitration. LYSISTRATA An easy task if the love's raging home-sickness Doesn't start trying out how well each other Will serve instead of us. But I'll know at once If they do. O where's that girl, Reconciliation? Bring first before me the Spartan delegates, And see you lift no rude or violent hands-None of the churlish ways our husbands used. But lead them courteously, as women should. And if they grudge fingers, guide them by other methods, And introduce them with ready tact. The Athenians Draw by whatever offers you a grip. Now, Spartans, stay here facing me. Here you, Athenians. Both hearken to my words. I am a woman, but I'm not a fool. And what of natural intelligence I own Has been filled out with the remembered precepts 121 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 My father and the city-elders taught me. First I reproach you both sides equally That when at Pylae and Olympia, At Pytho and the many other shrines That I could name, you sprinkle from one cup The altars common to all Hellenes, yet You wrack Hellenic cities, bloody Hellas With deaths of her own sons, while yonder clangs The gathering menace of barbarians. ATHENIANS We cannot hold it in much longer now. LYSISTRATA Now unto you, O Spartans, do I speak. Do you forget how your own countryman, Pericleidas, once came hither suppliant Before our altars, pale in his purple robes, Praying for an army when in Messenia Danger growled, and the Sea-god made earth quaver. Then with four thousand hoplites Cimon marched And saved all Sparta. Yet base ingrates now, You are ravaging the soil of your preservers. ATHENIANS By Zeus, they do great wrong, Lysistrata. SPARTANS Great wrong, indeed. O! What a luscious wench! LYSISTRATA And now I turn to the Athenians. Have you forgotten too how once the Spartans In days when you wore slavish tunics, came And with their spears broke a Thessalian host And all the partisans of Hippias? 122 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 They alone stood by your shoulder on that day. They freed you, so that for the slave's short skirt You should wear the trailing cloak of liberty. SPARTANS I've never seen a nobler woman anywhere. ATHENIANS Nor I one with such prettily jointing hips. LYSISTRATA Now, brethren twined with mutual benefactions, Can you still war, can you suffer such disgrace? Why not be friends? What is there to prevent you? SPARTANS We're agreed, gin that we get this tempting Mole. LYSISTRATA Which one? SPARTANS That ane we've wanted to get into, O for sae lang.... Pylos, of course. ATHENIANS By Poseidon, Never! LYSISTRATA Give it up. ATHENIANS 123 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Then what will we do? We need that ticklish place united to us-LYSISTRATA Ask for some other lurking-hole in return. ATHENIANS Then, ah, we'll choose this snug thing here, Echinus, Shall we call the nestling spot? And this backside haven, These desirable twin promontories, the Maliac, And then of course these Megarean Legs. SPARTANS Not that, O surely not that, never that. LYSISTRATA Agree! Now what are two legs more or less? ATHENIANS I want to strip at once and plough my land. SPARTANS And mine I want to fertilize at once. LYSISTRATA And so you can, when Peace is once declared. If you mean it, get your allies' heads together And come to some decision. ATHENIANS What allies? There's no distinction in our politics: We've risen as one man to this conclusion; 124 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Every ally is jumping-mad to drive it home. SPARTANS And ours the same, for sure. ATHENIANS The Carystians first! I'll bet on that. LYSISTRATA I agree with all of you. Now off, and cleanse yourselves for the Acropolis, For we invite you all in to a supper From our commissariat baskets. There at table You will pledge good behaviour and uprightness; Then each man's wife is his to hustle home. ATHENIANS Come, as quickly as possible. SPARTANS As quick as ye like. Lead on. ATHENIANS O Zeus, quick, quick, lead quickly on. They hurry off. CHORUS. Broidered stuffs on high I'm heaping, Fashionable cloaks and sweeping Trains, not even gold gawds keeping. Take them all, I pray you, take them all (I do not care) And deck your children--your daughter, if the Basket she's to bear. 125 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Come, everyone of you, come in and take Of this rich hoard a share. Nought's tied so skilfully But you its seal can break And plunder all you spy inside. I've laid out all that I can spare, And therefore you will see Nothing unless than I you're sharper-eyed. If lacking corn a man should be While his slaves clamour hungrily And his excessive progeny, Then I've a handfull of grain at home which is always to be had, And to which in fact a more-than-life-size loaf I'd gladly add Then let the poor bring with them bag or sack And take this store of food. Manes, my man, I'll tell To help them all to pack Their wallets full. But O take care. I had forgotten; don't intrude, Or terrified you'll yell. My dog is hungry too, and bites--beware! Some LOUNGERS from the Market with torches approach the Banqueting hall. The PORTER bars their entrance. 1ST MARKET-LOUNGER Open the door. PORTER Here move along. 1ST MARKET-LOUNGER What's this? You're sitting down. Shall I singe you with my torch? That's vulgar! O I couldn't do it ... yet If it would gratify the audience, I'll mortify myself. 126 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 2ND MARKET-LOUNGER And I will too. We'll both be crude and vulgar, yes we will. PORTER Be off at once now or you'll be wailing Dirges for your hair. Get off at once, And see you don't disturb the Spartan envoys Just coming out from the splendid feast they've had. The banqueters begin to come out. 1ST ATHENIAN I've never known such a pleasant banquet before, And what delightful fellows the Spartans are. When we are warm with wine, how wise we grow. 2ND ATHENIAN That's only fair, since sober we're such fools: This is the advice I'd give the Athenians-See our ambassadors are always drunk. For when we visit Sparta sober, then We're on the alert for trickery all the while So that we miss half of the things they say, And misinterpret things that were never said, And then report the muddle back to Athens. But now we're charmed with each other. They might cap With the Telamon-catch instead of the Cleitagora, And we'd applaud and praise them just the same; We're not too scrupulous in weighing words. PORTER Why, here the rascals come again to plague me. Won't you move on, you sorry loafers there! 127 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 MARKET-LOUNGER Yes, by Zeus, they're already coming out. SPARTANS Now hinnie dearest, please tak' up your pipe That I may try a spring an' sing my best In honour o' the Athenians an' oursels. ATHENIANS Aye, take your pipe. By all the gods, there's nothing Could glad my heart more than to watch you dance. SPARTANS. Mnemosyne, Let thy fire storm these younkers, O tongue wi' stormy ecstasy My Muse that knows Our deeds and theirs, how when at sea Their navies swooped upon The Medes at Artemision-Gods for their courage, did they strike Wrenching a triumph frae their foes; While at Thermopylae Leonidas' army stood: wild-boars they were like Wild-boars that wi' fierce threat Their terrible tusks whet; The sweat ran streaming down each twisted face, Faen blossoming i' strange petals o' death Panted frae mortal breath, The sweat drenched a' their bodies i' that place, For the hurly-burly o' Persians glittered more Than the sands on the shore. Come, Hunting Girl, an' hear my prayer-You whose arrows whizz in woodlands, come an' bless This Peace we swear. Let us be fenced wi' age long amity, O let this bond stick ever firm through thee In friendly happiness. 128 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Henceforth no guilefu' perjury be seen! O hither, hither O Thou wildwood queen. LYSISTRATA Earth is delighted now, peace is the voice of earth. Spartans, sort out your wives: Athenians, yours. Let each catch hands with his wife and dance his joy, Dance out his thanks, be grateful in music, And promise reformation with his heels. ATHENIANS. O Dancers, forward. Lead out the Graces, Call Artemis out; Then her brother, the Dancer of Skies, That gracious Apollo. Invoke with a shout Dionysus out of whose eyes Breaks fire on the maenads that follow; And Zeus with his flares of quick lightning, and call, Happy Hera, Queen of all, And all the Daimons summon hither to be Witnesses of our revelry And of the noble Peace we have made, Aphrodite our aid. Io Paieon, Io, cry-For victory, leap! Attained by me, leap! Euoi Euoi Euai Euai. SPARTANS Piper, gie us the music for a new sang. SPARTANS. Leaving again lovely lofty Taygetus Hither O Spartan Muse, hither to greet us, And wi' our choric voice to raise 129 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 To Amyclean Apollo praise, And Tyndareus' gallant sons whose days Alang Eurotas' banks merrily pass, An' Athene o' the House o' Brass. Now the dance begin; Dance, making swirl your fringe o' woolly skin, While we join voices To hymn dear Sparta that rejoices I' a beautifu' sang, An' loves to see Dancers tangled beautifully; For the girls i' tumbled ranks Alang Eurotas' banks Like wanton fillies thrang, Frolicking there An' like Bacchantes shaking the wild air To comb a giddy laughter through the hair, Bacchantes that clench thyrsi as they sweep To the ecstatic leap. An' Helen, Child o' Leda, come Thou holy, nimble, gracefu' Queen, Lead thou the dance, gather thy joyous tresses up i' bands An' play like a fawn. To madden them, clap thy hands, And sing praise to the warrior goddess templed i' our lands, Her o' the House o' Brass. The End 130 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 131 Fables Æsop (Sixth century B.C.) A NEW TRANSLATION BY S. VERNON JONES The Swallow and the Crow THE SWALLOW and the Crow had a contention about their plumage. The Crow put an end to the dispute by saying, "Your feathers are all very well in the spring, but mine protect me against the winter." Fair weather friends are not worth much. ■ The Mountain in Labor A MOUNTAIN was once greatly agitated. Loud groans and noises were heard, and crowds of people came from all parts to see what was the matter. While they were assembled in anxious expectation of some terrible calamity, out came a Mouse. Don't make much ado about nothing. ■ The Ass, the Fox, and the Lion THE ASS and the Fox, having entered into partnership together for their mutual protection, went out into the forest to hunt. They had not proceeded far when they met a Lion. The Fox, seeing imminent danger, approached the Lion and promised to contrive for him the capture of the Ass if the Lion would pledge his word not to harm the Fox. Then, upon assuring the Ass that he would not be injured, the Fox led him to a deep pit and arranged that he should fall into it. The Lion, seeing that the Ass was secured, immediately clutched the Fox, and attacked the Ass at his leisure. ■ Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 132 Shingles Anonymous Kevin walked into a doctor's office and the receptionist asked him what he had. Kevin said: 'Shingles.' So she wrote down his name, address, medical insurance number and told him to have a seat. Fifteen minutes later a nurse's aide came out and asked Kevin what he had. Kevin said, 'Shingles.' So she wrote down his height, weight, a complete medical history and told Kevin to wait in the examining room. A half hour later a nurse came in and asked Kevin what he had. Kevin said, 'Shingles.' So the nurse gave Kevin a blood test, a blood pressure test, an electrocardiogram, and told Kevin to take off all his clothes and wait for the doctor. An hour later the Doctor came in and found Kevin sitting patiently in the nude and asked Kevin what he had. Kevin said, 'Shingles.' The doctor asked, 'Where?' Kevin said, 'Outside on the truck. Where do you want me to unload 'em?' ■ Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 Eulalie Edgar Allen Poe I dwelt alone In a world of moan, And my soul was a stagnant tide, Till the fair and gentle Eulalie became my blushing bride Till the yellow-haired young Eulalie became my smiling bride. Ah, less - less bright The stars of the night Than the eyes of the radiant girl! And never a flake That the vapour can make With the moon-tints of purple and pearl, Can vie with the modest Eulalie's most unregarded curl Can compare with the bright-eyed Eulalie's most humble and careless curl. Now Doubt - now Pain Come never again, For her soul gives me sigh for sigh, And all day long Shines, bright and strong, Astarté within the sky, While ever to her dear Eulalie upturns her matron eye While ever to her young Eulalie upturns her violet eye. ■ 133 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 134 Effet Leidenfrost : quand les gouttes d'eau se mettent à léviter sur une plaque chaude Publié par Maxime Lambert, le 26 mars 2014 Copyright © Gentside Découverte http://www.maxisciences.com/eau/effet-leidenfrost-quand-les-gouttes-d-039-eau-se-mettent-a-levitersur-une-plaque-chaude_art32250.html En utilisant le principe de l’effet Leidenfrost, des chercheurs de l’université britannique de Bath sont parvenus à mettre au point un parcours composé de plaques chauffantes permettant de faire déplacer des gouttes d’eau en suspension. Faire léviter une goutte d’eau au-dessus d’une plaque chauffante peut se présenter comme un des défis dignes des plus grands illusionnistes. Il s’agit pourtant d’une performance à la portée de tous, dans la mesure où l’on connait un tant soit peu les lois de la physique. Le phénomène qui régit la réaction en question s’appelle l’effet Leidenfrost. Pour illustrer le phénomène, rien de tel que tenter l’expérience ! Pour cela, il vous faudra une poêle ou une plaque chauffante, un moyen de contrôle de la température et bien sûr de l’eau. Commencez par une température inférieure à 100 degrés Celsius. Lorsque vous déposez des gouttes sur la plaque chaude, celles-ci commencent par s’étaler puis s’évaporent lentement. Lorsque l’on augmente la température du support au-delà des 100 degrés Celsius, on constate que les gouttes d’eau se mettent à sifflez à son contact. L’évaporation est alors quasi instantanée. Au delà de 160 degrés Celsius, considéré comme le point de Leidenfrost, on peut commencer à observer le phénomène. Une fine couche de gaz Celui-ci se manifeste de la façon suivante : au lieu de s’évaporer et disparaitre, les gouttelettes s’élèvent de la plaque chauffante et se mettent à léviter. Johann Gottlob Leidenfrost, chercheur allemand, a été le premier en 1756 à décrire et expliquer cet étrange processus auquel il a donné son nom. Selon le scientifique, l’effet Leidenfrost tient du fait que la goutte d’eau s'évapore uniquement au niveau de sa partie inférieure, dès le moment où elle touche le support brulant, de plus de 160 degrés Celsius. De cette manière, il se crée entre la surface chaude et le reste de la goutte une fine couche de gaz, d’environ 0,1 mm d'épaisseur. Cette enveloppe de vapeur d’eau, assure la suspension de la gouttelette tout en la protégeant de la chaleur et en l'empêchant ainsi de s'évaporer. Encore aujourd’hui, l’effet Leidenfrost représente un sujet d’étude passionnant pour les physiciens. Récemment, une équipe de chercheurs de l’université de Bath, en Angleterre est parvenue à mettre en évidence une certaine température limite au-delà de laquelle la période de suspension des gouttes diminue au profit de l’évaporation. 200°C, une température optimale Partant de ce constat, les scientifiques sont parvenus à mettre en évidence, à travers une série d’expériences, la température optimale de la plaque chauffante pour laquelle les gouttes d’eau restent le plus longtemps sous forme de liquide en suspension. Cette température est précisément de 200 degrés Celsius et permet de garder en lévitation les gouttelettes durant plus d’une minute. Il est par ailleurs possible de diriger les gouttes d’eau en suspension. La direction des Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 135 déplacements dépend de l’orientation, de la température et du relief de la plaque chauffante. Pour illustrer ce phénomène, les chercheurs se sont amusés à construire un petit parcours composé de surfaces chauffées aux caractéristiques différentes. Le déplacement des gouttelettes à travers le labyrinthe a été filmé. Vous pouvez admirer la performance à travers l'impressionnante vidéo ci-dessus. ■ Video au lien ci-dessous: http://www.maxisciences.com/eau/effet-leidenfrost-quand-les-gouttes-d-039-eau-se-mettent-a-levitersur-une-plaque-chaude_art32250.html Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 136 Fire and Ice: Robert Frost and Cosmology (continued) By Thomas D. Le Note: This multi-part study first appeared in Firmament October 2011, and has continued in subsequent issues. Please read previous segments in: http://thehuuvandan.org/firmamentoctober2011.pdf http://thehuuvandan.org/firmamentjanuary2012.pdf http://thehuuvandan.org/firmamentapril2012.pdf http://thehuuvandan.org/firmamentjanuary2013.pdf http://thehuuvandan.org/firmamentjuly2013.pdf and http://thehuuvandan.org/firmamentjanuary2014.pdf Hate in Recent History At the end of the Second World War, during which hate and anger ran amok, scholars and non-scholars, preponderantly historians, began scrutinizing the Third Reich to see why things had gone so horribly wrong with the country that caused two cataclysmic global upheavals in less than a generation. The two world wars were inextricably linked, for the second could not be explained or understood without the first. And the first cannot be explained separately from the German man, his history, culture, character, labyrinthine soul, as Nietzsche put it, his Zerissentheit (disunity, fragmentation), in short his historical evolution, While some historians, such as Friedrich Meinecke in his book Die Deutsche Katastrophe ("The German Catastrophe") and Gerhard Ritter viewed the fascist National Socialism of the Third Reich as an aberration, an “on-the-job” accident of history (Betriebsunfall), others argued, with A J. P. Taylor, Lewis Bernstein Namier, William L. Shirer, and more recently Fritz Fischer (better known for his thesis that Germany caused World War I) that developments in the intellectual, social, economic, political, and cultural history of Germany, and German character and mentality virtually guarantee the inevitable emergence of such a radical political ideology as the aggressive nationalism of Nazism and all the atrocities committed under its aegis. A term was coined, Sonderweg (“special path”), to designate the specific way German society and polity had developed that was distinct from that followed by England and France toward democracy, and at first to characterize German exceptionalism. Catapulted from an agrarian economy and feudalistic social system by the Industrial Revolution to become a highly industrialized country within a very short time. Germans acquired a sense of superiority on account of their achievements, but still lagged behind in their political institutions vis-à-vis Western nations. Zerissentheit was their Achilles' heel. It kept them wallowing in an inferiority complex when facing the mature democracies of England and France. This explosive combination of inferiority and superiority led the Germans to an overassertive and bellicose stance in foreign affairs. The country did not unify as a nation-state until 1871 after the defeat of the French, whom Germans both admired and loathed. Did the Sonderweg lead Germany to its inevitable clash with its neighbors? After the French Revolution of 1789 morphed into Napoleonic empire, unequally upending the concepts of liberty, equality, and fraternity. Europe became the scene of continent-wide conflict from which Germany emerged as the most powerful force. With the most revolutionary and liberal country vanquished, the conservative ideology reasserted itself and Germany was firmly implanted in its midst. Germany developed policies of encroachment and Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 137 aggression toward its neighbors to the east aiming to enlarge its Lebensraum or living space. The catastrophic defeats in two world wars sent scholars scrambling to deny or denounce the Sonderweg Today the term Sonderweg is extended beyond Germany and the world wars to encompass any development at all which is specific to a country, especially in the post-colonial era. In this reading, one can speak of the Russian Sonderweg, the Japanese Sonderweg, the Cambodian Sonderweg, and even the new German nuclear proliferation Sonderweg. Arguments for such an extension dilute the original intent and divert the discussion to channels less focused on the term’s originator and more on countries whose development paths necessarily diverge from and defy comparison with the original. Such an extension lies beyond the scope of this work, which focuses solely on the original German version. The debate centers on the theory of the Sonderweg (“special path”), by which Germany had taken its specific path of development as distinct from the countries to its east and those to its west. Evolved from the late eighteenth century, this notion initially bore the positive connotation of German exceptionalism leading to hubris, only later to degenerate among detractors into a thesis of vacuous nonsense, or to evoke nothing but negative judgments. In other words, there is no Sonderweg to those who see Germany as in the mainstream of European history. The argument for this denial emerges from newer researches among a number of German scholars of conservative tendencies who found far fewer differences between the development of Germany and that of Britain, France, and even the United States, lumped together as “the West.” On this view Germany is very much of the west in spite of its quirky development and evolution from its medieval past. A Sonderweg that emphasizes deviation from western evolution would imply a “normal” path to democracy. Yet countries of the West, so the argument goes, did not arrive at democracy along the same lines. Each country fashioned its unique path, and there are no universal normative criteria by which its development may be judged. Britain’s democracy is achieved via a constitutional monarchy, France through a bloody revolution that overturned an entire system of the ancien régime, and the United States through a bourgeoisie-led revolution indebted to a liberal European tradition. Still, the reality of the world wars and their destruction must be understood to avoid its repetition, and cannot be explained away by cherry-picking evidence. The Sonderweg thesis has simply been put in the procrustean bed of the scholars’ ideology. Thus the historiographical debate about the Sonderweg is far from settled, and further arguments on both sides may reasonably be expected. The literature, already copious and impressive, dwarfs anything this essay can offer in terms of scholarship and rigor, which is not its purpose in any case. This work attempts to point out a few known traits, facts, and opinions which in the aggregate tend to support the thesis of the Sonderweg that the general historical development of Germany determined by geography, tradition, and national character lead to, if not cause, the emergence of Nazism. We examine below a few factors that seem to support the above theory of historical determinism. The Ambivalence of the Classical Humanistic Tradition During the Enlightenment period, emphasis was placed on reason, whose exercise writers and thinkers believed would solve a wide array of problems, or answer a number of questions, pertaining to the social, political, scientific, economic, and literary realms. The classical humanistic tradition, the glory of German culture, led by illustrious names such as the playwright and art critic Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781), the philosopher, theologian, and literary critic Johann Gottfried von Herder (17441803), the philosopher and playwright Friedrich von Schiller (1759-1805), the writer Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832), the philosopher Immanuel Kant (1724-1804), and the composer Ludwig van Beethoven, (1770-1827) flourished during this period, which propelled Germany from obscurity to an intellectual force to reckon with. Goethe and Schiller had their time working in Weimar referred to as Weimar classicism as opposed to the militarism of the Prussianism of Frederick II. Among the most important philosophers in terms of contributions to the history of thought was Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 138 Johann Gottfried Herder. A prolific thinker, he wrote on a number of philosophical topics. His philosophical works were in a language that was readily accessible to the common man. In an age that glorified the human person, Herder's philosophy was secular although he was a divine. He believed that the Bible was written by men for men, and had to be interpreted like any other texts. He introduced a philosophy of language that supports a theory of interpretation and a theory of translation and, along with Wilhelm von Humboldt posited the idea that language determines thought, a thesis which gave rise to what was popularly known in the twentieth century as the Sapir-Whorf hypothesis though Edward Sapir and his student Benjamin Whorf never worked together on the hypothesis. He advanced a rationalist theory of mind that rejected Cartesian dualism. He left a philosophy of history that influenced Dilthey, with a focus not so much on the outward political/military acts as on the “innerness” of historical figures. But it is his political thought that distinguished him. Herder was a democrat, a republican, a liberal, an egalitarian. He advocated freedom of thought, of expression, and of religion. He opposed racism and antisemitism that he saw around him. Yet he was, along with Immanuel Kant, the founder of German (Romantic) nationalism based on the thoughts of Jean-Jacques Rousseau that a nation formed in a state of nature, with rights of self-determination, territorial unity, and cultural identity, including ethno-linguistic identity. In search of such identity, as a prerequisite to political unification, researchers reached back to the Middle Ages, even further into the mythical pagan past, to Widukind and further back to Arminius. Thus the Grimm brothers collected ancient folk tales. Others delved into the study of language, and comparative philology. Such an ideology, while able to rally all German-speaking populations for unification, quickly developed into Pan-Germanism, which manifested itself in racism, antisemitism, expansionism, imperialism, belligerence, and eventually led to two world wars. All the fatal flaws of German nationalism were espoused by so many university professors, educators, philosophers, and intellectuals ranging from Herder to Kant, Friedrich Ludwig Jahn, Ernst Moritz Arndt, Johann Gottlieb Fichte, Friedrich Nietzsche, Richard Wagner, and Martin Heidegger, to name only the better known personalities. This explains in part why the nationalist extremists could find fertile ground in the Nazi party or became complicit in the Third Reich's crimes against humanity. In the best classical humanistic tradition, to his credit, Herder was also cosmopolitan, and deplored chauvinism, whether German, French, or British. Pinson (1966) quoted Herder as saying, Of all forms of pride, I consider that of national pride as the most foolish. Let us contribute as much as we can to the honor of the nation; let us also defend it whenever it is the victim of injustice. But to glorify it ex-professo—that, I consider to be a form of self-exaltation without any effective influence (p. 17). Such rational and level-headed pronouncements during French occupation stood in vivid contrast to the stridency of his countrymen's hatred of the foreigners. To the chauvinists, who dreamed of German exceptionalism and world conquest, Herder was blunt. They “display the base pride of a Barbarian.” (Pinson, 1966, p.17). Steeped in the classical humanistic tradition the philosopher, dramatist Gotthold Ephraim Lessing, Herder, Goethe and Schiller prided themselves for being “citizens of the world,” tolerant and optimistic, with a vision broader than the narrow nationalism that gripped the rest of the Germans. Schiller said he wrote as a citizen of the world, and while he lost his fatherland, he gained the whole world (Pinson, 1966, p.16). When during Napoleon's occupation, which conferred the benefits of the Napoleonic code civil and many ideals of the French Revolution, Goethe was asked to write propaganda poems against the French, he refused for the reason that he could not hate a country of cultured people who were so beneficial to him. Here Pinson (1966) quoted Goethe: Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 139 How could I have written poems of hate without hate! I do not hate the French, as much as I thank God that we are rid of them. How could I for whom the only thing that matters is culture or barbarism, hate a nation that belongs to the most cultured on earth, and to which I am indebted for so large a part of my development? (p. 16). Yet, after the Second Coalition against revolutionary France was forced to sign the Peace of Lunéville in 1801, Schiller could not contain himself and exhibited an anger that went far beyond hate of the French. He wrote that Germany would rise again and this time to world domination for all time:. The German is chosen by the World Spirit to work amidst the struggle for the eternal building of man's development, not to shine for the moment or play a passing role but to conquer the great process of time. Every nation has its day in history, but the Day of the Germans is the harvest of all times. In the end power will come to him who is formed only by spirit, if there is any plan at all in the world and if human life has any meaning. In the end morality and reason must triumph over raw force and the most gradual nation will overtake all the speedy vanishing ones (Pinson, 1966, p. 18). Schiller had gone beyond hate of the foreigner that subjugated his country to world conquest, thus belying the cosmopolitanism he elsewhere professed. Even among the more moderate of the nationalists such as Herder and Kant, there is an ambivalence of thought and deed. (Pinson. pp. 19-20) The noble ideals of the classical humanistic tradition, when confronted by German reality, evaporate and yield to the demands of the moment, which is 'only to obey'. Even the towering Goethe remained aloof to everyday life as it challenged his lofty ideals. His supernal aloofness seemed emblematic of that side of the Germanic intellectual that tolerated no constraints in the pursuit and defense of ideas, but succumbed to order and discipline in mundane living. Finally, what the classical humanistic tradition cherished was aesthetics and beauty. But this realm was essentially aristocratic, and therefore, antidemocratic. The Failed 1848 Revolution After about a century of the Industrial Revolution, the economic and social landscape of Europe had shown a clear division within each country. Social stratifications had finally taken definite shape. A new economic power, the bourgeoisie, had begun to compete for political influence with the aristocracy and royalty. An urban proletariat, which was ill-paid, malnourished, working long hours in unsafe environments, and living in squalid conditions, became a fixture in cities, especially manufacturing ones. In rural areas the peasants, whose numbers had increased, remained as impoverished and disenfranchised as ever since the Middle Ages. In France the Revolution of February 1848,which resulted in the installation of the short-lived Second Republic based on the principles of democracy, produced enormous repercussions among German reformers, and supplied the impetus, the encouragement, and the example for their own revolution. On 13 March 1848. university students staged a demonstration in Vienna to demand a constitution that guaranteed civil rights and a constituent assembly elected by universal suffrage. Emperor Ferdinand responded with military force. The Vienna proletariat joined the students in wider street protests which escalated into an armed insurrection. Under such pressure and the demands of the Diet of Lower Austria, Emperor Ferdinand had to dismiss the conservative Chancellor Metternich, who then took refuge in England. After continued student and proletariat demonstrations and further armed repression, Emperor Ferdinand I abdicated in favor of his nephew Franz Joseph. In Prussia the March Revolution forced the Prussian King Frederick William IV to give in after Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 140 his troops had killed more than 200 demonstrators. For this horrendous bloodshed the protesters extracted his promises of parliamentary elections, a constitution, and freedom of the press. As a result of these developments and the actions of the liberals in Heidelberg (Baden), a first freely chosen national assembly convened in Frankfurt on 18 May 1848, with delegates of all political persuasions (but without clearly defined party affiliations) from all German Confederation states, including Prussia and Austria, to draft a constitution for the German nation, which was not yet unified. The Frankfurt (All-German National) Assembly consisted of 831 delegates, of whom 330 showed up on the first day. Their political views might be classified in a very general way as extreme right, right, right center, left center, left, and extreme left. Among those present, the pro-Austria wing occupied the extreme right with 40 delegates. A larger pro-Prussia right numbered 122. Forty delegates comprised the right center, consisting of academics and North Germans. The left center, made up of young deputies mainly from South Germany, numbered 132. The left had 56 delegates and the extreme left or the democratic party 47 members. Among the representatives were professors, teachers, lawyers, doctors, judges, government officials, mayors, ministers, writers, and a few workers. All told 569 had a college education (Pinson, 1966, p. 96), earning it the name of professors' parliament (Professorenparlament). It held its meetings at the St Paul's Church (Paulskirche). From the very beginning, the Frankfurt Assembly was confronted with intractable problems. It was forced upon Austria and Prussia by street demonstrations that in Prussia became an armed insurrection. Bloody repression ensued resulting in hundreds of deaths before King Frederick William IV backed down and verbally accepted the insurrectionists' demands. One of the most recalcitrant issues was the German question, i.e., the composition of the unified German nation-state. Most of the radical left supported the inclusion of Austria with all German-speaking people in a Greater Germany solution (Grossdeutsche Lösung) under Austrian leadership. This position was favored by Austria, which would retain all the lands occupied by Hungarians, Czechs, Croats, Romanians, Slovaks, Ukrainians, Poles, and Serbs in its empire. On the other hand, the Kingdom of Prussia preferred the Smaller Germany solution (Kleindeutsche Lösung), with Prussia at the head of all Northern Protestant Germany and the rest of Germany without Austria and its Catholic and non-German populations. These diverse ethnicities and their territories were the reason why Austria might tend toward the Lesser Germany solution because Austria would hesitate to lose its empire. The German question could not be resolved by the Frankfurt Assembly and had to wait for Prussia's iron chancellor Otto von Bismarck to resolve in a war he would plan between the two powerful German rivals some eighteen years later. All across the German Confederation, intellectuals, politicians, and revolutionaries from all classes organized citizens, workers and peasants to advance their own programs. But the stirrings of democratic impulse rose driven by events in France and within a year began sliding toward its inevitable demise after the Frankfurt Assembly failed to make the constitution it produced accepted by all the states and particularly by Austria and Prussia. The Frankfurt Constitution proposed a constitutional monarchy under a hereditary emperor. It also contained provisions for basic civil rights. A delegation was sent to Prussia in April 1849 to offer the office of emperor to the Prussian king. He refused on the ground that he could not accept the crown without the consent of the other princes. In reality as a believer of the divine right of kings, he would not accept a crown from the hands of the despised revolutionaries. This refusal from the Prussian king encouraged other princes to also refuse. These developments prompted delegates from Austria to leave Frankfurt in April 1849, and the Prussians in May 1849 followed shortly by all the conservatives and bourgeois liberals. These withdrawals left the Assembly in the hands of the radical democratic left, who called for a revolution against the state governments that violated the constitution. But the liberal and bourgeoisie of the center left disapproved of further revolution and withdrew. This departure of deputies reduced the number remaining to such a level that the quorum was lowered to 100. Whatever remained of the Frankfurt Parliament was called the rump Parliament. Still it managed to retain control of a few states. In May 1849 an insurrection made Baden a Republic with its Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 141 own army made up of the insurgent troops. A contingent of Prussian troops sent on order of the German Confederation easily crushed the rebels. The rump Parliament moved to Stuttgart, but was expelled. A planned move to Karlsruhe in Baden did not take place. With nowhere to go and the Baden insurrection repressed, the Frankfurt Parliament had come to an end. The forces of the status quo had triumphed. Germany remained a patchwork of states, and the issue of unification unresolved. The Frankfurt Constitution was never adopted. For its role in maintaining order in Baden, Prussia emerged as a kingdom necessary to resolve problems in German politics. From then on only the despotism of Prussia remained unchallenged as a force with the capability and wherewithal to bring about the unification of German lands. The Germans were facing a far more complex social and political situation than other European countries during the Revolution of 1848. In addition to the overarching question of German unification, each state had its own particular constitution and set of problems, and the whole nation's problems were compounded by its involvement with the multi-ethnic Austrian Empire. German radicals and revolutionaries everywhere came up with almost the same demands: universal suffrage, free press, trial by jury, a freely elected German parliament, national militia. Marx, together with Engels, issued the Communist Manifesto to the Germans, and came back from exile to lead the workers' revolution by using the press. But he was driven into exile again by the Prussian authorities, who shut down his newspaper.. One of the characteristics of the German revolution was that nearly all protests, whether from workers or from peasants, were marked by expressions of antisemitism. Another was the lack of coordination among the many revolutionary movements across the land. Though labels such as liberalism, nationalism, socialism, democracy, republicanism, communism were bandied about, there was among the revolutionaries no clear demarcation of parties. Group leaders in various regions acted independently, advanced their own programs, led a movement which was too weak and inefficient. In the west and south, peasant groups were strong, and their demands reflected the reality of their situation. In the end the revolutionaries were crushed or forced to emigrate. The majority of the revolutionaries who left the country emigrated to the United States, which had served as a model of government for their movement. The main concern of the proletariat was social and economic, rather than political, as an examination of their program suggests. In Berlin the workers' demands included minimum wages, maximum number of hours worked, the right to organize, progressive income taxes, state control of education, free public libraries, removal of travel restriction. The single political demand was reduction of voting age to 24. But the mood of the governing bodies in German-speaking lands, after the defeat of Napoleon, swung sharply to the right thanks to Metternich's abhorrence of radicalism and revolution. The Prussian King Frederick William, advised by his brother Wilhelm, refused to give in to any of the workers' demands. The proletariat had failed to extract reforms beneficial for their well-being. The constitutional assembly convened in Frankfurt was top-heavy with university professors, men in the professions, the civil service and the ministry. Although many of the deputies were liberal bourgeois, even radical and revolutionary, most were not inclined to revolution, and conservative delegates had considerable clout. Delegates received mandates from their respective governments and were accountable to them. They came from 39 sovereign states, which were fiercely independent, yet the constitutional mechanism to enforce their decisions was weak or non-existent. The first order was to establish an executive power (provisional government) for all of Germany. It was placed under an Austrian imperial vice regent, with the proviso that if he did not discharge his duties satisfactorily, the diet of the German Confederation would take back the functions it had relinquished to the central power. This is the first weakness of the Frankfurt Parliament. But the worse issue was the creation of a central military to support the central executive. Both Austria and Prussia signaled that they would not give up control of their military forces to the Parliament. The central government was thus given the cold shoulder for all to see. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 142 The tasks entrusted to the Parliament was too thorny for a group of representatives from a multiplicity of states to tackle. Since Germany as a nation did not exist, the Parliament had to define the composition of the unified nation-state. But the two largest states, Prussia and Austria, that could facilitate or impede unification were rivals and not partners in the German question. As seen above, the two major powers in the confederation were at loggerheads over the issue of unification. And the Frankfurt Parliament had no power to enforce decisions on unification. The convocation of the assembly brought ethnic-related issues to a head. In the East the Prussian troops put down a rebellion of Polish nationalists and occupied Posen. One of the most vociferous at the Frankfurt assembly was a liberal deputy named Carl Friedrich Wilhelm Jordan. He opposed Polish territorial integrity, and his idea of Volk-egoism found echo among a sizable number, if not the majority, of German intellectuals.. His speech bordered on jingoism. Our right is none other than the right of the stronger, the right of the conqueror. Yes, we have conquered. In the West we were conquered, in the East we had the great malheur to be the conquerors ourselves. . . The German conquests in Poland were a natural necessity. The law of history is not like that of the legal code. It knows only the laws of nature, and one of these laws tells us that a people does not have the right to political independence merely by virtue of its mere existence. This comes only as a result of the force to assert itself as a state among other states (Pinson, 1966, p. 99). When Denmark decided to extend a new liberal constitution to Schleswig, which had a small German population, the duchy of Holstein, which was predominantly German, appealed to the German diet. Frederick William IV sent in the Prussian troops. Though defeated by the Danes, Prussia had shown it was an indispensable player in German politics, especially the politics of national unification. In Bohemia, the Czechs rose against the Frankfurt Parliament by convening an all-Slav congress comprising all Slavic populations in the southern regions of the Austrian empire to the strong reaction of German liberals and radicals alike, who always took it for granted that Bohemia was German land. Even Marx and Engels were hostile. When it comes to nationalism, Germans swept all idealism aside. Recapping the achievements of the Revolution of 1848 in German lands, the forces of liberalism, and the bourgeoisie had failed to tear down the absolutist regimes and destroy the reactionaries who propped them up. This failure resulted in resignation to the inevitable status quo ante for the majority and emigration for the minority. Defeated in their homeland, many German liberals sought on the western shores of the Atlantic what was denied them at home. One unintended consequence of the Frankfurt Constitution is that it served as a model after both world wars: to the Weimar Republic in 1919, and to both East and West Germany after 1945. Madame de Staël’s View (1766-1817) Writing after the French Revolution and during the Napoleonic era, Madame de Staël, the educated, cultivated daughter of the French Finance Minister Necker of Swiss extraction, commanded a French and European reputation that was rare and exceptional for the days. Her peregrinations took her across Europe, to Germany, Austria, Italy, Russia, Finland, Sweden, and England, for her own edification or for safety beyond the reach of the French Emperor’s police. To her salons in Paris and in her château Le Coppet on the northern shore of Lake Geneva, had flocked intellectuals, philosophers, politicians, and men of letters, such as Talleyrand, Abbé Delille, Narbonne, Montmorency, Benjamin Constant, Jourdan, Simondi, August Wilhelm Schlegel, even Madame Récamier, many of whom opposed Napoléon. A woman of high intellect and repute, Madame de Staël soon attracted the attention of the all-powerful Napoléon Bonarparte, who despised her. He brooked no competition from a woman. He banished her Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 143 from her beloved Paris, then from France. What brought on this harsh treatment was the publication of her novel Corinne, which was first authorized by the censors then confiscated and destroyed. She was not allowed to emigrate to America as she requested. The long arm of Napoleon’s police pursued her to Le Coppet, where she was forbidden to travel farther than four miles from home. Testing her surveillance, she once ventured beyond the limit, and immediately came face to face with the police who escorted her back into her allowed environment. Forced to stay away from France and hounded by the police, she and her family secretly fled to Austria, Germany, Russia, Sweden, and finally England. Her book Ten Years of Exile recounted this period of estrangement from her native France. Yet when Napoleon returned from Elba for a hundred days, Madame de Staël supported him because she hated the Bourbons. This woman of the Romantic period retained her own individuality and independence. What is remarkable about Madame de Staël for our purpose here is her book De l’Allemagne (On Germany), which describes the Germany in a favorable light as a country of “poets and thinkers.” She duly noted the deep division among the Germans and their lack of a national consciousness. Hence, the atomization of the German people not only between the north and the south but among the myriad politically independent territories that go by the names of principalities, free cities, duchies, bishoprics, kingdoms, states, and so on, fostered the spirit of independence and regional allegiance to the detriment of the idea of a central government. No cities, not even Berlin or Vienna, exercised a preponderant influence on all German lands in thought, literature, trends, culture, art, or music, in the manner that London did on Great Britain or Paris on France. German writers, poets, philosophers worked, Madame de Staël (1844) contended, largely alone, or at most surrounded by a small coterie of like-minded followers (p.24). They were individuals, whose contributions to thought in Europe were remarkable for their originality and individuality though they were not trend-setters or leaders of intellectual movements on a national scale. Germany was so divided (Zerissenheit) that no part of the land could be thought of as representative of the nation. Perhaps due to rather than in spite of this disunity Germans enjoyed their independence so much that no one felt a need for individual liberty. As Madame de Staël (1844) said, L'indépendance même dont on jouissait en Allemagne, sous presque tous les rapports, rendait les Allemands indifférents à la liberté; l'indépendance est un bien, la liberté une garantie; et précisement parce que personne n'était froissé en Allemagne, ni dans ses droits ni dans ses jouissances, on ne sentait pas le besoin d'un ordre de choses qui maintînt ce bonheur (p. 32). (The independence enjoyed in Germany in almost all respects made Germans indifferent to liberty; independence is a good, liberty a guarantee; and precisely because no one was hurt in his rights nor in his enjoyments, no need was felt for an order of things that would preserve that blessing.). ` Why this is so, according to the same author, is that as a nation Germany was just and thus no institution, no matter how flawed it might be, could cause harm (p. 32). This curious notion flies in the face of experience that a flawed institution causes harm whether it be administered justly or not. In this respect, the old institution of slavery in the United States or the absolute monarchy in France or in Russia may be a germane example. All were eventually overturned. If the Germans willingly accepted absolute monarchy in Prussia and other German states, it is because as a people they were obedient and submissive to authority. They put duty ahead of self-interest and had no need for individual liberty. One wonders what influence the German Romantic critic August Wilhelm Schlegel might have had on Madame de Staël's view of Germany, as he had been engaged by her, on Goethe's recommendation, to be the tutor of her sons, traveled with her to Scandinavia and Italy, and served as her adviser during her writing of De l’Allemagne. A German Jew exile in Paris, Heinrich Heine, himself a journalist, a poet, and a literary critic, while praising its informative value, attacked Madame de Staël's Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 144 book as biased, when she yielded to foreign influence, a glancing reference to the influence of Schlegel. Heine, who was a liberal opposed to the conservative and oppressive German authorities, thought the book “wretched and unenjoyable,” especially, when she extolled the German Romantic school. Still, it must be conceded that Madame de Staël was a keen observer when she remarked that Germany was the most bellicose of European nations (p. 127). From France, where he lived the last twenty-five years of his life, Heine published in 1833 his own L’Allemagne (“Germany”) in French as a response to Madame de Staël's book of twenty years earlier, to acquaint the French with German literature, especially of the Romantic period. It was meant to counter the picture projected by Madame de Staël's book, which he called a “coterie-book.” Of the two books with almost the same name, one was penned by a French woman of letters who was forced into exile by the authoritarian French Emperor, the other was by a German Jew converted to Christianity who exiled himself to avoid the loathsome despotic German (Prussian) authorities and German antisemitism. One was a conservative, the other a liberal. Each found in the country they left something seriously wrong to excoriate. Heinrich von Treitschke (1834 – 1896) Perhaps no historians of any country were as influential to their countrymen as Heinrich von Treitschke was to German political thought of the late nineteenth and early twentieth centuries. As professor of history at several universities, Leipzig, Freiburg, Kiel, Heidelberg, Berlin, Treitschke spread his fiercely nationalistic ideas among a large audience of students. As a journalist and member of the Reichstag, he commanded even greater attention with his writings and speeches. He was an ardent advocate of authoritarian government, realpolitik, and national unification under Prussian leadership. Treitschke was bellicose and pursued an aggressive policy both in domestic and foreign affairs. He is briefly mentioned here because of the tremendous influence he exerted on power politics and policy makers of his day. Here is what Treitschke said about war: We have learned to recognize the moral majesty of war just in those aspects of it which superficial observers describe as brutal and inhuman. Men are called upon to overcome all natural feeling for the sake of the country, to murder people who have never before done them any harm, and whom they perhaps respect as chivalrous enemies. It is things such as these that seem at the first glance horrible and repulsive. Look at them again and you will see in them the greatness of war. Not only the life of man, but also the right and natural emotions of his inmost soul, his whole ego, are to be sacrificed to a great patriotic ideal; and herein lies the moral magnificence of war. If we pursue the idea still further, we shall see that in spite of its hardness and roughness, war links men together in brotherly love, for it levels all differences of rank, and draws men together by a common sense of the imminence of death. Every student of war knows that to do away with war would be to cripple human nature. No liberty can exist without an armed force ready to sacrifice itself for the sake of freedom (1914, p.139). If there are any doubts about what Germans thought about war and war-like power politics, the above quotation should lay them to rest. German Romanticism Romanticism is an intellectual, aesthetic, and philosophical movement in literature and the arts that began in Germany and England, and swept across Europe between about 1750 and 1820 and had farreaching consequences in other lands as well. One could talk about romantic literature, romantic poetry, romantic music, romantic visual arts, and architecture. Even in politics and philosophy Romanticism Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 145 left its imprint, as many thinkers such as Jean-Jacques Rousseau, Voltaire, Montesquieu contributed enormously to political and literary thought before or during the period. These thinkers were not necessarily consistent among themselves, nor did their ideas produce the same effect. Rousseau's cult of the individual was the bedrock of Romanticism, yet it also undergirt the revolutionary spirit which found part of its justification in the Enlightenment's rationalism, which Romanticism rejected. If Revolution and Romanticism were bedfellows, they went hand in hand for very dissimilar reasons. Let us briefly review the historical background from which Romanticism sprang to gain greater understanding of the phenomenon. From this starting point we will explore German Romanticism and its role in forging a mindset that put the country on the path to the world wars. Historical context. Romanticism as a continent-wide movement left an indelible mark on European culture and, hence, shaped the historical development of the continent with repercussions felt in America, where the frontiers of Western culture brought their own contributions. The dates of Romanticism are never precise as the movement's beginnings or antecedents could be extended back and its endings could be extended forward. Further compounding the issue, each country shows different sets of dates to which the term could be applied. Romanticism as a recurrent set of ideas about literature and the art has not died in the world, for its slumber in one country may be coeval with its efflorescence in another. Thus the Odyssey may be read, as Plotinus did. as an allegory of a quest and Odysseus the quester who struggled with nature's temptations (embodied in Circe and Calypso) on his journey home or to a Spiritual Destination, and is thus a romantic poem. Sappho, Louise Labé, Pierre de Ronsard are romantic poets who sang beautifully of the most beautiful emotion, love. So, arguably, are Hồ Xuân Hương, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, and virtually all New Poets of pre-war years as well as contemporary Vietnamese poets, for whom romantic love is a dominant theme. All loved nature and beauty, and pursued their art in their own individual way. Recurrent romanticism is a complex concept, not easy to define, and so resistant to precise description that many historians thought the term virtually useless. A confluence of powerful social, economic, and political forces arose during the latter half of the eighteenth century brought about by the Industrial Revolution, which transformed the economy and society in Europe with mechanized methods of production. In the new economy there was created a new class of affluent businessmen and industrialists, the bourgeoisie, who controlled the means of production and trade, and the masses of working men, many of whom were former peasants displaced by a land distribution scheme that resulted in vast estates from which many of them had fled to the squalor of city slums in search of better economic opportunity. While men in the laboring class struggled with low wages and unsanitary living conditions, women and children caught in the cogs of the machine production paradigm fared much worse. The lots of these workers were ignored by a pervasive attitude of laissez-faire in England, even among liberals, exacerbating the gulf between rich and poor and laying the seeds of revolution. However, a lack of leadership among the working class and an effective campaign of repression orchestrated by the British government soon extinguished all revolutionary fervor. In North America, the same government that tolerated the abysmal economic, social, and political inequality on the home front with repression and curtailment of civil liberties was intent on maintaining its grip on the colonies as part of the vast empire it had built thanks to its superior industrial might and navy. But here, French support, and American determination to resist dictation and taxation, and competent leadership blunted British military superiority. The American Revolution anchored their philosophical foundation mainly in the ideas of John Locke and also of the French philosophes and was led by a bourgeoisie imbued with Enlightenment values. In continental Europe, enlightened despotism, an offshoot of the Enlightenment, advocated at least by one philosophe, Voltaire, had come into vogue. Prussia, France, Austria, and Russia all attempted this form of monarchy. The sovereign no longer claimed the right to rule by divine will. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 146 Enlightened despotism was secular. While still retaining absolute power, he would try to govern, not whimsically but in the interest of the common good. Practiced by Voltaire's friend, Frederick the Great of Prussia, enlightened despotism introduced some reform from above. His reforms were made easier by the docility of his subjects. Though he wanted to alleviate the lives of serfs, his society remained highly stratified. And he ended up retaining the feudal system, from which he could draw soldiers and officers for his wars. He advocated religious and racial tolerance, which attracted religious refugees and Jews from neighboring countries. These immigrants contributed enormously to Prussia's economy and education. Though he won wars with Austria and France and thus earned the respect of Europe; a system of government that was controlled and directed by one man could not long endure, especially when no one with ability had been trained to take over after his death. Twenty years after, Napoleon subdued Prussia, and many of the enlightened programs were not pursued by his successors. In France, the monarchy under Louis XV and Louis XVI was severely weakened by its inability to deal with financial crises brought on by wars, the refusal of the clergy and aristocracy to pay higher taxes, and ostentatious luxury at the court while the rest of the population wallowed in abject poverty. The French monarchs did try for good governance, but were unable to get vested interests (the clergy and aristocracy that formed their power base) to cooperate. In Austria the Empress Maria Theresa tried to balance the interests of an empire consisting of a multi-ethnic population. Her attack on serfdom was met with resistance from the nobles. Her son Joseph II was a true revolutionary. He abolished serfdom and established equality in taxation. However, his reforms antagonized the aristocracy, who opposed his decrees. He was a one-man party. After he died, his decrees were one by one dismantled. In Russia, attempts at reforms based on Enlightenment ideas instituted by Tsarina Catherine II (Catherine the Great) aimed at bringing Russian society into the modern world, as did her predecessor Peter the Great. She wanted to reform serfdom to improve the lives of the peasants. But she labored under the reality of being a German woman in Russian land although her credentials among the philosophes as a progressive were acknowledged. However, when in power she dealt harshly with a peasant insurrection. And in foreign affairs she presided over a policy of expansion that saw Russia in control of parts of Poland in the west, the Crimea in the south, and territory running all the way to the Pacific. In all the countries under enlightened despotism, an entrenched aristocracy and the church reasserted their power; harsher serfdom spread; wars broke out due to rivalry among the countries. Liberalism and the spirit of reform lay moribund creating in most of Europe conditions that were ripe for revolution. While the experimentation with enlightened authoritarianism had run its course, Enlightenment continued to influence the course of European and American history.. Revolution occurred in North America first, then in France, sustained by the ideals of liberalism, and the thoughts of the philosophes Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, and Montesquieu. In both the American and the French revolutions a declaration of the rights of men laid the fundamental principles from which the revolutionists derived the functions of government. The rise of romanticism. If political revolutions grounded in the tenets of the Age of Reason, tore down a world order that endured from the Middle Ages, Romanticism embodied a new sensibility and manifested itself in the rejection of the worship of reason of the Enlightenment. Romanticism is thus opposed not only to Neoclassicism but to the Enlightenment. By embracing the individual and not the society, the particular and not the universal, imagination and not order, feeling and not reason, liberty and not restraint, the romanticists ushered in an era where individuality takes precedence over the totality. In poetry inspiration, instinct, spontaneity, emotion, passion were valued for their power in the creative process. Just preceding the Romanticism movement, the Age of Reason, the Enlightenment, in France, extended from René Descartes' Discourse on Method (1637) to the French Revolution of 1789; this period historians called Neoclassicism, for simplicity. In this Neoclassical period poets generally Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 147 followed rules, exercised restraint, and considered reason the only way to truth. They valued the general, the universal, the social, and disregarded nature as of peripheral concern. Romanticism coincided with the Age of Revolution, whose main tenet, liberty, suited the romantic temperament perfectly. Just as revolutions overthrew the old order to build a new order based on freedom, Romanticism overturned the rules and forms of Classicism to fashion a new mode of expression explored the innermost recesses of the mind and the heart with unfettered liberty and individualism. Opposed to Neoclassicism, the Romanticists rejected constraints, moderation and rationalism. They valued individual liberty, imagination, and emotion, sometimes to excess. They embraced intuition, instinct, the spontaneous gushing forth of feelings, and passion as ways to get at the human soul and deeper truth. Yet the term Romanticism encompassed such a vast repertoire of ideas that men who would be political enemies could be classed together as romanticists. Chateaubriand, regarded as the father French romanticism for his description of nature and analysis of emotion, and a model for other romanticists such as Victor Hugo, Alexandre Dumas, Alphonse de Lamartine, Alfred de Musset, Alfred de Vigny, Gérard de Nerval, was a conservative royalist. Social and political revolution, which began in America, swept to France and engulfed the European continent in years of war in which the forces of liberalism battled those of conservatism. In this gargantuan struggle, politics and literature were intertwined. In England, historians traced the beginnings of Romanticism to the first publication of Blake's poems in 1783 (some ascribed this date to the first publication of Wordsworth's Lyrical Ballads) and its end to 1830, when Tennyson's first work appeared and when all major poets were no longer active. The British poets never called themselves Romantic, but were termed such by historians fifty years after the impulse no longer predominated. The six canonical poets of the movement, William Wordsworth, Samuel Taylor Coleridge, Percy Bysshe Shelley, John Keats, Lord Byron, and William Blake shared little in common in terms of style, outlook, or philosophy. On the other hand, the editors of the Oxford Anthology of English Literature distinguish between “recurrent” romanticism, which “cannot be defined” (p. 5) since it could occur at any age anywhere and High Romanticism, which is defined as the period from the American Revolution through the first Reform Bill in 1832. In Germany, romanticism could claim its origin in the Sturm und Drang (“Storm and Drive,” “Storm and Urge,” or conventionally “Storm and Stress”) movement, which was dominated in literature by Johann Gottfried von Herder, Johann Wolfgang von Goethe (with his 1774 Sorrows of Young Werther) and Friedrich Schiller (with his 1781 drama The Robbers). Going further, Pinson (1966) pointed to Pietism of the late seventeenth century as a precursor, because it placed feeling above reason and saw in mysticism as a companion to moral law. This last opinion is not far-fetched since many romanticists must have had experience with pietistic ideas. Novalis's father was a pietistic man, and it may be assumed that the son was exposed to the father's religious conviction. So was the philosophertheologian Friedrich Daniel Ernst Schleiermacher, whose book On Religion (1799) exerted an influence on Novalis's view of religion. Weimar Classicism flourished during the Age of Enlightenment, and as Classicism in general, favored reason over imagination. Classicism or Neo-classicism, whether reigning in Weimar or elsewhere, is characterized by respect for tradition, logical organization, moderation, reliance on rules (e.g., the three unities), simplicity and clarity. Because of the dominance of Goethe and Schiller, whose lives spanned decades of romanticism (Schiller died in 1805, but Goethe lived on for another twentyseven years), Weimar Classicism (so named after the town in which both resided) coexisted for some time with Romanticism, and combined elements of the Enlightenment, Romanticism and Classicism. Given its historical circumstances, German Romanticism, on the rise during the period of Napoleonic occupation, was fiercely politicized, militantly nationalistic, and bitterly xenophobic. This trait is the single most important reason why German Romanticism differed from Romanticism in other European countries. At first, the French Revolution elicited great enthusiasm among a significant Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 148 number of German intellectuals, including poets, writers, critics, philosophers, while leaving the larger population indifferent or uninterested. But when the Revolution turned bloody during the reign of terror, which was followed by Napoleon's occupation of German land, feeling betrayed, many of these intellectuals made an about-face and used their pens as an anti-French, anti-revolutionary propaganda weapon. Still there were those thoughtful people, like Goethe and Immanuel Kant, who continued to eschew an outright position of hate. The German romantics. Under different circumstances German romanticism might not have followed a developmental path too dissimilar to that of other European nations in what they embraced and in what they rejected. Like romantics elsewhere, German romantics emphasized imagination as superior to intellect in capturing the multitudinous diversity of reality, enthusiasm and feeling as superior to reason in plumbing the depths of the soul. By turning inward to reflect on his individuality the romanticist discovered that he was unique, but at the same time he recognized that his true individuality was free only when being a part of an organic whole which was the national individuality and beyond that, humanity. But the forces of untrammeled subjective personality came from the individual's memories instilled by cultural processes such as early songs and folk tales. To get to these roots required digging into the community's past. Thus Romanticism aroused the feeling of nationalism, which sprang up in virtually all continental Europe as nations were moved to look back into their distant pasts, to the Middle Ages and beyond to gain a deeper understanding of their present. Nowhere was this search for identity carried to such an extreme as in Germany, where romanticists dug up its pagan days for folklore, mysticism, and linguistic identity to bolster political consciousness. Along the way racism crept in for nationalism presupposed the existence of the other. After all, the Romans were never able to conquer Germany, unlike other European countries that succumbed and got civilized under Roman rule. There is that little corner of the German soul that remained untamed, unpolished and unschooled, especially in the art of governance and in social graces. Madame de Staël remarked in De L'Allemagne that Germans, who would be fiercely individualistic, would suffer no rules in literature, and would fight vehemently in the realm of speculation, would in everyday life readily submit to authority and the powers of the government. This accounts for so little enthusiasm for social and political revolution in German society, which continued to remain conservative, anti-liberal, anti-revolutionary, and antidemocracy. Johann Gottfried von Herder, Goethe, and Schiller appeared in the Sturm und Drang period, but were still active when Romanticism was born, rather ironically, in Berlin, which was the heart of rationalism. They could be counted among the early romanticists. But its center of gravity in the early period soon moved to Jena, where Johann Gottlieb Fichte and Friedrich Schelling, George Wilhelm Friedrich Hegel, Friedrich Schiller and the brothers August Wilhelm and Friedrich Schlegel lived. Other important romanticists were Ludwig Tieck, Heinrich von Kleist, Novalis, Friedrich Hölderlin. Eventually the center moved again to Heidelberg during the late period when Clemens Brentano, Achim von Arnim, Joseph Freiherr Eichendorff, and E,T.A. Hoffmann became active. On German romanticism as a literary movement, I have not come across a comment that is as devastating as the following from Frye (1914): The thoroughly significant thing about German romanticism as a literary phenomenon is its sterility. It has almost no works, literally next to nothing to show for itself in the way of literature. A little vapid verse, two or three staggering dramas, a few rickety Märchen and twaddling rhapsodies, several dilapidated novels, or rather romances, to sustain the claims of a school that pretended to derive from the Roman-this is just about all its literary capital, the greater part of it unreadable, inexpressibly childish, silly, and dull. In itself it were all equally harmless, though for different reasons, because all equally ineffectual (p. 98)/ Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 149 Since a discussion of German romanticism as a literary movement lies outside the scope of this work, we focus only on its role in shaping the state of mind of Germans that contributed to a worldview antagonistic to liberal democracy. German romanticism began to blossom during the Age of Revolution, which received its inspiration from the ideas of the Enlightenment. As the ideas of the American and French Revolution leapt from bookish theory to practice in the political life of nations and gave them the power to resist the reaction from inside and outside sources, great upheavals resulted. When the revolution was exported by the French army under Napoleon, who placed wide swaths of Western Europe under the French revolutionary ideals of liberté, egalité, fraternité, the rest of monarchical Europe coalesced to put up stiff counterrevolutionary measures. Since German romanticism was antiEnlightenment, it became ipso facto reactionary, anti-revolutionary, anti-French, and anti anything that the French revolution stood for. Hence, German romanticists fostered hatred for the foreigner, extreme nationalism, anti-democratic mindset, and political conservatism. Of all the major writers, poets and philosophers I briefly consider one man, who died before reaching his twenty-ninth birthday, but whose life became the stuff of legend built up posthumously by his admirers and followers. Novalis. A young well-regarded German romantic, born Georg Philipp Friedrich Freiherr von Hardenberg (1772-1801), earned his position as a leading romantic poet-philosopher in spite of the little that he wrote during his short life. He came to fame during early German Romanticism. He received a classical education in grammar school and a law degree. Later he studied mining, chemistry, biology, history, philosophy. Benefiting from quite a well-rounded education, Novalis counted among his circle of friends and acquaintances virtually all of the luminaries of the early romantic school and some philosophers associated with the period: Schiller, Goethe, Herder, Tieck, Schelling, Hölderlin, Fichte, the brothers Schlegel, Jean Paul (Richter). He published little in his lifetime, but his followers made sure every bit of his writing got published, including specifically the fragments, in which his unsystematic approach to philosophy thrived. This collection is voluminous. Gjesdal (2009) summed up a view of Novalis's work thus, ...his name has been associated with an aestheticization of philosophy, an illegitimate valorizing of the medieval, and a politically reactionary program. This view of von Hardenberg, however, is to a large extent rooted in the image created posthumously by the increasingly conservative friends within the romantic circle (para. 1). It would not be surprising that a conservative poet like Novalis would have a circle of friends who shared his convictions. Gjesdal maintained that Novalis wishes not only to endorse the ideals of the [French] revolution, but also to offer reflections on how the people can be brought to the point where they can responsibly take on the principles of the revolution and make its ideals their own. This is the ultimate task and purpose of Bildung.(Section 7. Political Thought, para. 1). Novalis was critical of the fact the French revolution had failed to achieve its own ideals. He blamed the revolutionaries for not making sure that the people were ready for liberty, equality, and brotherhood before starting the revolution. And how the people could be prepared for the high ideals of the revolution is outlined in the quote above, by the process of Bildung or education. Novalis's concept seemed a bit strange. A revolution occurs when conditions are such as to make it inevitable, and not when the people are ready to benefit from its ideals. No projects of any kind would be undertaken if all Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 150 questions had to have been answered beforehand. A revolution is a risky undertaking, and when it exploded no one could predict where it would lead. Once begun a revolution becomes a crisis management nightmare for its leaders. Besides, Bildung is a continuing process of growth, and how would anyone know when the people were ready remains problematic. Novalis, like all his intellectual contemporaries, knew of the ideal of democracy, which underpinned the French revolution. But he associated this enlightened thesis to the absolutist monarchy of Prussia. Being German Novalis was unable to escape German Kultur. In a country where people looked upon submission to authority as virtue, rebelling against authority must be a vice or an act of courage. Kant is said to refute the “to only obey” dictum of the emperor. But Novalis supported an absolute monarchy not just out of habit or deference to prevailing opinion but as a matter of conviction. He rejected the idea of being governed by peers selected in a process of election. He could not imagine submitting himself to people like himself, and therefore would yield himself only to a superior person, the monarch. “I cannot elect a superior from among my equals. I cannot turn anything over to one who is in precisely the same condition I am in” (Pinson, 1966, p. 47). It probably never dawned on him that in a democracy one does not elect a superior: one gives an elected official a conditional and time-limited mandate to carry out a program promised during the campaign. He continued, “The monarchy is therefore the only genuine system because it is tied to an absolute center, to a being who belongs to humanity but not to the state” (Pinson, 1966, p. 47). Needless to say, there is no logic to this statement at all, given that there were other forms of government. And about just how a person that belongs to humanity is superior to humanity, Novalis was silent. Along with other romanticists Novalis did not try to understand that the essence of democracy is government of the people, by the people, and for the people, the very people, the Volk, that romanticists so highly prized. And elections are a way to remind elected officials that they are to govern with the consent of the governed, and that consent can be withdrawn at the next election cycle. That German romanticists, and Germans in general, rejected sovereignty of the people and saw nothing wrong in absolute monarchy is only a reflection of a mindset of the entire society which valued obedience, duty, and submission to authority. The best political structure was for Novalis absolute monarchy, in which all the power of the state was embodied in the monarch, who “... is the pure life principle of the state in much the same way as the sun is that of the solar system.” (Pinson, 1966, p. 47). The question is how to ensure that the monarch is “the pure life principle.” By heredity, by divine right, or by Bildung? This faith in the virtue of one man (and one woman if there is a queen) was betrayed by German history itself and the history of other countries from antiquity to modern times. How many heads of sovereigns had to roll and how many tyrants had to be driven from power before the romanticists realized that there is no such thing as an ideal man, to whom the people could safely turn over the country's sovereignty without condition? To patch up his political theory Novalis advanced the notion that there is no king without a republic and no republic without a king! So much for republicanism, No comment is needed here at all. Finally consistent with the romanticists' orientation towards medievalism, Novalis yearned for a return to the Middle Ages, when Christianity, i.e., Catholicism, was one religion. Novalis deplored the fact that Martin Luther had shattered Christianity's unity with his reform. One wonders whether religion in the Middle Ages, when thousands were killed for heresy under medieval inquisition, was better than it was during the eighteenth century, which according to Schleiermacher was in the hands of “philistines.” Novalis, whom Schleiermacher characterized as ”the all-too-soon departed divine youth, who turned everything his spirit touched into art, and whose entire view of the world was one great poem” (Pinson,1966, p.40) was highly thought of by many of his friends and followers. This “estheticization” of every aspect of human endeavor, from religion, to philosophy, to politics, led from literary romanticism to philosophical romanticism and political romanticism with unintended consequences. Pinson (1966) summed this up aptly, Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 151 It is this estheticization of politics, particularly in the neo-romanticism of later times, that supplied legitimacy to the acts of the dictator. Just as the poetic genius creates best by his own laws and his own intuitive powers so the Führer and the Duce conceive of their political leadership as emanating from the same sort of intuitive and creative genius that is just as immune from outside analysis and rational argumentation as the work of a Shakespeare or a Goethe (p.48). Cloudy and reactionary romanticists like Novalis colored romanticism with an aura of aesthetics so powerful that despots and absolutists could find in romanticism the intellectual haven they would need to commit crimes abhorrent to human decency. German romanticism, unlike romanticism elsewhere in Europe, led to extreme nationalism, belief in absolutism, intolerance, racism, and an aestheticization of politics, which gave future dictators justification for acts of war and atrocities. German Sonderweg The Sonderweg (“special path”) thesis arose in the late nineteenth century (between 1860s and 1870s according to the Bielefeld School historian Hans-Ulrich Wehler) among conservative historians who tried to show German exceptionalism by her choosing a distinctive path to modernization, in which industrial, economic and social development was associated with the construction of a political system characterized by absolute monarchy, reform “from above,” illiberalism, and anti-democratic institutions. Whatever forces of political modernization and orientation towards liberal democracy manifested in the Weimar Republic after World War I were easily defeated by an entrenched landowner class based east of the Elbe (the Junkers), who supplied the government with bureaucrats for the civil service and officers for the military. The tradition of Prussianism was so entrenched and powerful that the Weimar Republic was almost doomed from the very beginning. The emerging bourgeoisie of commerce, finance, and industry never demanded political power commensurate with their economic role, and was content with their subordinate status in the traditional feudal order. The bourgeoisie was used by the Prussian power structure to pursue its own goals without receiving commensurate rewards of political power for its contributions. And like the majority of Germans, the German bourgeoisie bent to the will of the powers that be as easily as the poor serfs serving the Junkers. The Sonderweg thesis has positive connotations right up to the beginning of World War II, when Germany’s achievements in literature, philosophy, music, science, industry, and the military had catapulted her from an agrarian society to an industrial and military power. This evolution toward totalitarianism was regarded as distinct from, and superior to, both the messy, weak governments of the West (mainly Britain and France) and the autocratic rule of the East (namely, Russia). The German brand of “constitutional monarchy” with “a strong statist tradition, a powerful and efficient civil service a long history of reform from above—instead of revolution, laissez-faire, and party government” (Kocka, 1988) was seen by historians who espoused a positive view of the Sonderweg as superior to the Western model of parliamentary democracy. As a Central European country, Germany was neither of the West nor of the East. Her idiosyncratic path was touted as the third way. There scarcely were any German historians before World War I who would not subscribe to this positive Sonderweg theory. After the First World War, however, in a prostrated and chastened Germany some historians began to reexamine the Sonderweg thesis since the idea of German exceptionalism did not agree with the reality of defeat. Most Germans were stunned by the news of defeat after having been fed nothing but a string of stories of successes in the field by the Army High Command. Casting about for a reason to explain the Armistice of November 11, 1918 and the subsequent Treaty of Versailles, imposed by the victorious Allies to punish Germany for causing the war, the architects of failure, chief among whom Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 152 General Erich Ludendorff, the nationalists and conservatives, found an escape goat in the “stab-in-theback” myth (Dolchtosslegende). These members of right-wing circles blamed first the lack of support by workers who by their demands had weakened the war effort, then after the Armistice the “November criminals,” who signed the Treaty of Versailles and established the Weimar Republic, along with the Bolsheviks, the socialists, and the Jews. They claimed that the German Army had not been defeated but betrayed by politicians on the home front who overthrew the monarchy. The myth was reinforced by the fact that at the time of the Armistice, German troops were occupying the front line in the West, and no Allied troops were on German soil. The myth ignored the fact that Field Marshall Paul von Hindenburg, who controlled the High Command with General Ludendorff, had admitted to the Kaiser Wilhelm II that the war had been lost, and that Germany had to pursue peace with the Allies, even to the point of suggesting the Kaiser’s abdication.. In general the Sonderweg thesis was regarded positively by most German historians before 1918. They prided themselves for being, in the center of Europe, the heroes that charted a special course worthy of a destiny of mighty conquerors. Germans had found a third way between the weak and crass democracies of the West (Britain and France) and the autocratic Russia in the East, finding both systems unsuitable to German mentality. However, after World War I ended in catastrophe, German historians began to revise the Sonderweg to explain away the military defeat at the hands of the despised democracies. Can the blame be placed at the door of the failure of the liberal bourgeoisie to seize control of the political process during the Revolution of 1848? Hardly. The modernization of Germany was achieved faster in the economic and industrial realm than in the political sphere. The German middle class was sandwiched between two powerful forces, the monarchy and aristocracy bent on survival from above and the destitute revolutionary proletariat agitating for a better share of the economic pie from below. For its own survival the bourgeoisie had to make peace with the monarchy in a mutually beneficial symbiotic relationship. The defeat in World War I showed the cracks in the absolute monarchy's armor. But the worst time for the Sonderweg theory came after World War II. The enormity of the crimes committed by the Third Reich under Hitler was a tough case. Conservative historians such as Friedrich Meinecke, Hans Rothfels, Gerhard Ritter, Klaus Hildebrand blamed Hitler alone as an accident of history, “a special case” having no relation to past history. Deniers of the Sonderweg went so far as to claim that Hitler was not German. *** In this section, we approached the question of how Germany came to be such a problem for Europe and the world. Arguments were advanced to show that German mentality, history, institutions, and culture were contributing factors to the catastrophe of two world wars. Germany's illiberalism, political development, the mentality of the German person, and its historical development engendered conditions that led to the accession of dictatorship. However, the world can now rest assured that Germany has finally left its past behind. ■ T. D.L. 3 April 2014 Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 153 Bibliography Davis, H.M.S. (1915). The political thought of Heinrich von Treitschke. New York, NY: Charles Scribner's Sons. de Staël, Madame. (1844). De l”Allemagne. Paris, France: Charpentier. Feuchtwanger, E. (2002). “The peculiar course of German history”. History Review. Retrieved from http://www.historytoday.com/edgar-feuchtwanger/peculiar-course-german-history. Forster, M. (Fall 2008). “Johann Gottfried von Herder”. In Stanford Encyclopedia of Philosophy. Edward N. Zalta (ed.), Retrieved from http://plato.stanford.edu/archives/fall2008/entries/herder/ Frye, A (1914, January). German romanticism. [PDF document]..The Mid-West Quarterly. (1)2. Gjesdal, K., (2009, May 21). "Georg Friedrich Philipp von Hardenberg [Novalis]", The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Fall 2009 Edition), Edward N. Zalta (ed.), Retrieved from http://plato.stanford.edu/archives/fall2009/entries/novalis/ Hausrath, A. (1914). Treistschke: His doctrine of German destiny and international relations. New York, NY: G.P. Putnam’s Sons. Hosmer, J.K.(1899). A brief history of German literature. [PDF document]. New York, NY: Charles Scribner's Sons. Kermode, F. & Hollander, J. (Eds.).(1973). , Vol. II. New York, NY: Oxford University Press. Kleingeld, P. (2008). Romantic cosmopolitanism: Novalis's “Christianity or Europe.” Journal of the History of Philosophy. (46)2. 269–84. Retrieved from http://www.rug.nl/staff/pauline.kleingeld/kleingeld-romantic-cosmopolitanism.pdf Kocka, J. (1988, January). German history before Hitler: The debate about Sonderweg. Journal of Contemporary History, 23(1). 3-16. Retrieved February 16, 2013 from http://www.jstor.org/stable/260865 Noakes, J. (2011, March 30) Hitler and 'Lebensraum' in the East. Retrieved November 13, 2011 from BBC History http://www.bbc.co.uk/history/worldwars/wwtwo/hitler_lebensraum_01.shtml Palmer, R.R, Colton, J., & Kramer, L. (2007). A history of the Modern World. Boston, MA: McGrawHill. Firmament Volume 7, No. 1, April 2014 154 nd Pinson, K. S. (1966), Modern Germany: Its history and civilization. (2 ed.). Prospect Heights, IL: Waverland Press. Spengler, O. (1926). The Decline of the West: Form and actuality. New York, NY: Alfred A.Knopf. Spengler, O. (n.d.). Prussianism and Socialism. (D.O. White, Trans.) Retrieved July 4, 2012 from http://www.worldfuturefund.org/wffmaster/Reading/Germany/PSoc/Prussianism.Socialism.htm Stoljar, M. M. (ed. and trans.). .(1997). Novalis: Philosophical writings. Albany, NY: State University of New York Press. Treitschke, H.V. & Hausrath, A. (1914). Treitschke: His doctrine of German destiny and of international relations. New York, NY: G.P. Putnam's Sons. Treitschke, H.V. (1916). Politics. Vol. II New York, NY: The Macmillan Company.
Similar documents
Firmament - Thế Hữu Văn Đàn
present Firmament. Her husband and she would be happy to provide accommodations in their house for Ms. Lê Tạ Bích Ðào and myself. Bích Ðào was going to introduce her own books. But the most decisiv...
More informationFirmament - Thế Hữu Văn Đàn
scholar TMCS with his translations of poems that breathe like life. As usual Thanh Trà Tiên Tử takes you to the dreamland she seems never to leave. Be ready to yield and ask no questions, for somet...
More information